Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

48 ĐẠI NGUYỆN CỦA ĐỨC PHẬT A DI ĐÀ - Thích Trí Tịnh

26/12/201222:36(Xem: 7118)
48 ĐẠI NGUYỆN CỦA ĐỨC PHẬT A DI ĐÀ - Thích Trí Tịnh

48 ĐẠI NGUYỆN CỦA ĐỨC PHẬT A DI ĐÀ

(Trích Từ Kinh Vô Lượng Thọ)

1.Giả sử khi tôi thànhPhật, nước tôi còn có địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh thì tôi chẳng lấy ngôi chánhgiác.

2.Giả sử khi tôi thànhPhật, hàng thiên nhơn nước tôi sau khi mạng chung còn trở lại ba ác đạo thì tôichẳng lấy ngôi chánh giác.

3.Giả sử khi tôi thànhPhật, hàng thiên nhơn nước tôi chẳng đều thân màu vàng ròng thì tôi chẳng lấyngôi chánh giác.

4.Giả sử khi tôi thànhPhật, hàng thiên nhơn nước tôi sắc thân chẳng đồng có kẻ xấu người đẹp thì tôichẳng lấy ngôi chánh giác.

5.Giả sử khi tôi thànhPhật, hàng thiên nhơn nước tôi chẳng biết túc mạng, tối thiểu là biết sự việctrong trăm ngàn ức na do tha kiếp thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.

6.Giả sử khi tôi thànhPhật, hàng thiên nhơn nước tôi chẳng được thiên nhãn, tối thiểu là thấy trămngàn ức na do tha cõi nước chư Phật thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.

7.Giả sử khi tôi thànhPhật, hàng thiên nhơn nước tôi chẳng được thiên nhĩ, tối thiểu là nghe lờithuyết pháp của trăm ngàn ức na do tha chư Phật và chẳng thọ trì hết, thì tôi chẳnglấy ngôi chánh giác.

8.Giả sư khi tôi thànhPhật, hàng thiên nhơn nước tôi chẳng được tha tâm trí, tối thiểu là biết tâmniệm của chúng sanh trong trăm ngàn ức na do tha cõi nước, thì tôi chẳng lấyngôi chánh giác.

9.Giả sử khi tôi thànhPhật, hàng thiên nhơn nước tôi chẳng được thần túc, tối thiểu là khoảng mộtniệm qua đến trăm ngàn ức na do tha nước Phật thì tôi chẳng lấy ngôi chánhgiác.

10.Giả sử khi tôi thànhPhật, hàng thiên nhơn nước tôi nếu sanh lòng tưởng nghĩ tham chấp thân thể thìtôi chẳng lấy ngôi chánh giác.

11.Giả sử khi tôi thànhPhật, hàng thiên nhơn ở nước tôi, chẳng an trụ định tụ quyết đến diệt độ thìtôi chẳng lấy ngôi chánh giác.

12.Giả sử khi tôi thànhPhật, quang minh có hạn lượng, tối thiểu chẳng chiếu đến trăm ngàn ức na do thacõi nước chư Phật thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.

13.Giả sử khi tôi thànhPhật, thọ mạng có hạn lượng, tối thiểu là trăm ngàn ức na do tha kiếp thì tôichẳng lấy ngôi chánh giác.

14.Giả sử khi tôi thànhPhật, hàng Thanh Văn trong nước tôi mà có người tính đếm được, nhẫn đến chúngsanh trong cõi Ðại Thiên đều thành bực Duyên Giác cùng nhau chung tính đếm suốttrăm nghìn kiếp mà biết được số lượng ấy thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.

15.Giả sử khi tôi thànhPhật, hàng thiên nhơn nước tôi thọ mạng không ai hạn lượng được, trừ họ có bổnnguyện dài ngắn tự tại. Nếu chẳng như vậy thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.

16.Giả sử khi tôi thànhPhật, hàng thiên nhơn nước tôi mà cón nghe danh từ bất thiện thì tôi chẳng lấyngôi chánh giác.

17.Giả sử khi tôi thànhPhật, mười phương vô lượng chư Phật chẳng đều ngợi khen xưng tụng danh hiệu củatôi thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.

18.Giả sử khi tôi thànhPhật, chúng sanh ở mười phương chí tâm tin ưa muốn sanh về nước tôi nhẫn đếnmười niệm, nếu không được sanh thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.

19.Giả sử khi tôi thànhPhật, chúng sanh ở mười phương phát tâm Bồ đề tâm, tu các công đức chí tâm phátnguyện muốn sanh về nước tôi. Lúc họ mạng chung, tôi và đại chúng vây quanhhiện ra trước mặt họ. Nếu không như vậy thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.

20.Giả sử khi tôi thànhPhật, chúng sanh ở mười phương nghe danh hiệu của tôi, chuyên nhớ nước tôi,trồng những cội công đức, chí tâm hồi hướng muốn sanh về nước tôi mà chẳng đượctoại nguyện thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.

21.Giả sử khi tôi thànhPhật, hàng thiên nhơn nước tôi chẳng đều đầy đủ ba mươi hai tướng đại nhơn thìtôi chẳng lấy ngôi chánh giác.

22.Giả sử khi tôi thànhPhật, chúng Bồ Tát ở cõi nước khác sanh về nước tôi rốt ráo tất cả đến bực nhứtsanh bổ xứ. Trừ người có bổn nguyện tự tại hóa độ, vì chúng sanh mà mặc giáphoằng thệ chứa công đức độ tất cả, đi qua các nước Phật tu hạnh Bồ Tát, cúngdường chư Phật mười phương, khai hóa hằng sa vô lượng chúng sanh khiến họ đứngnơi đạo chánh chơn vô thượng, vượt hơn công hạnh của hạng tầm thường, hiện tiềntu công đức Phổ Hiền. Nếu không như vậy thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.

23.Giả sử khi tôi thànhPhật, Bồ Tát trong nước tôi thừa thần lực Phật đi cúng dường chư Phật, khoảngbữa ăn nếu không đến khắp vô số vô lượng ức na do tha cõi nước thì tôi chẳnglấy ngôi chánh giác.

24.Giả sử khi tôi thànhPhật, Bồ Tát trong nước tôi ở trước chư Phật hiện công đức mình, nếu những thứdùng để cúng dường không có đủ theo ý muốn thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.

25.Giả sử khi tôi thànhPhật, Bồ Tát trong nước tôi chẳng thể diễn nói nhứt thiết trí thì tôi chẳng lấyngôi chánh giác.

26.Giả sử khi tôi thànhPhật, Bồ Tát trong nước tôi chẳng được thân Kim Cương Na la diên thì tôi chẳnglấy ngôi chánh giác.

27.Giả sử khi tôi thànhPhật, hàng thiên nhơn và tất cả vạn vật trong nước tôi trang nghiêm thanh tịnhsáng rỡ hình sắc đặc biệt lạ lùng vi tột diệu không ai lường biết được, dầu làcó thiên nhãn mà biện biệt được danh số ấy thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.

28.Giả sử khi tôi thànhPhật, Bồ Tát trong nước tôi, nhẫn đến người công đức ít nhứt mà chẳng thấy biếtđạo tràng thọ màu sáng vô lượng cao bốn trăm muôn dặm thì tôi chẳng lấy ngôichánh giác.

29.Giả sử khi tôi thànhPhật, Bồ Tát trong nước tôi nếu đọc tụng thọ trì diễn thuyết kinh pháp mà chẳngđược trí huệ biện tài thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.

30. Giả sử khi tôithành Phật, trí huệ biện tài của Bồ tát trong nước tôi mà có hạn lượng thì tôichẳng lấy ngôi chánh giác.

31.Giả sử khi tôi thànhPhật, nước tôi thanh tịnh soi thấy tất cả vô lượng vô số bất khả tư nghị thếgiới chư Phật mười phương, như gương sáng soi hiện hình gương mặt, nếu khôngnhư vậy thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.

32.Giả sử khi tôi thànhPhật, từ mặt đất lên đến hư không, những cung điện, lâu đài, ao nước, cây hoa,tất cả vạn vật trong nước tôi đều dùng vô lượng châu báu, trăm ngàn thứ hươnghiệp lại làm thành xinh đẹp kỳ lạ hơn hàng thiên nhơn. Hương ấy xông khắp vôlượng thế giới mười phương. Bồ Tát nghe mùi hương ấy đều tu hạnh Phật. Nếukhông như vậy thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.

33.Giả sử khi tôi thànhPhật, những loài chúng sanh của vô lượng bất tư nghị thế giới mười phương, đượcquang minh tôi chiếu đến thân, thân họ nhu nhuyến hơn hẳn hàng thiên nhơn. Nếukhông như vậy thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.

34.Giả sử khi tôi thànhPhật, những loài chúng sanh của vô lượng bất tư nghị thế giới mười phương nghedanh hiệu tôi mà chẳng được Bồ Tát vô sanh pháp nhẫn các thâm tổng trì thì tôichẳng lấy ngôi chánh giác.

35.Giả sử khi tôi thànhPhật, hàng nữ nhơn của vô lượng bất tư nghị thế giới mười phương nghe danh hiệutôi vui mừng tin ưa phát tâm Bồ đề nhàm ghét thân người nữ, nếu sau khi chết màhọ còn sanh thân người nữ lại thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.

36.Giả sử khi tôi thànhPhật, chúng Bồ Tát trong vô lượng bất tư nghì thế giới mười phương thế giớinghe danh hiệu tôi sau khi thọ chung thường tu phạm hạnh đến thành Phật đạo.Nếu không như vậy thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.

37.Giả sử khi tôi thànhPhật, hàng thiên nhơn trong vô lượng bất tư nghị thế giới mười phương nghe danhhiệu tôi rồi năm vóc gieo xuống đất cúi đầu vái lạy vui mừng tin ưa tu hạnh BồTát thì được chư Thiên và người đời đều kính trọng. Nếu không như vậy thì tôi chẳnglấy ngôi chánh giác.

38.Giả sử khi tôi thànhPhật, hàng thiên nhơn nước tôi muốn được y phục liền tùy nguyện hiện đến, yphục đẹp đúng pháp như Phật khen ngợ tự nhiên mặc trên thân. Nếu còn phải maycắt nhuộm giặt thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.

39.Giả sử khi tôi thànhPhật, hàng thiên nhơn nước tôi hưởng thọ khoái lạc chẳng như bực lậu tận TỳKheo thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.

40.Giả sử khi tôi thànhPhật, Bồ Tát nước tôi tùy ý muốn thấy vô lượng nước Phật trang nghiêm thanhtịnh mười phương thì liền được toại nguyện, đều được soi thấy ở trong những câybáu, như thấy mặt mình hiện rõ trong gương sáng. Nếu không như vậy thì tôichẳng lấy ngôi chánh giác.

41.Giả sử khi tôi thànhPhật, chúng Bồ Tát ở quốc độ phương khác nghe danh hiệu tôi, từ đó đến lúcthành Phật nếu các căn thân còn thiếu xấu chẳng được đầy đủ thì tôi chẳng lấyngôi chánh giác.

42.Giả sử khi tôi thànhPhật, chúng Bồ Tát ở quốc độ phương khác nghe danh hiệu tôi thảy đều chứng đượcthanh tịnh giải thoát tam muội, khoảng một lúc phát ý, cúng dường vô lượng bấtkhả tư nghị chư Phật Thế Tôn, mà không mất tâm chánh định. Nếu không như vậythì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.

43.Giả sử khi tôi thànhPhật, chúng Bồ Tát ở quốc độ phương khác nghe danh hiệu tôi, sau lúc thọ chungsanh nhà tôn quý. Nếu không như vậy thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.

44.Giả sử khi tôi thànhPhật, chúng Bồ Tát ở quốc độ phương khác nghe danh hiệu tôi vui mừng hớn hở tuhạnh Bồ Tát đầy đủ cội công đức. Nếu không như vậy thì tôi chẳng lấy ngôi chánhgiác.

45.Giả sử khi tôi thànhPhật, chúng Bồ Tát ở quốc độ phương khác nghe danh hiệu tôi thảy đều chứng đượcphổ đẳng tam muội, an trụ trong tam muội nầy đến lúc thành Phật thường thấy vôlượng bất khả tư nghị tất cả chư Phật. Nếu không như vậy thì tôi chẳng lấy ngôichánh giác.

46.Giả sử khi tôi thànhPhật, chúng Bồ Tát ở trong nước tôi tùy chí nguyện của mỗi người muốn được nghepháp liền tự nhiên được nghe. Nếu không như vậy thì tôi chẳng lấy ngôi chánhgiác.

47.Giả sử khi tôi thànhPhật, chúng Bồ Tát ở quốc độ phương khác nghe danh hiệu tôi mà chẳng liền đượcđến bực bất thối chuyển thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.

48.Giả sử khi tôi thànhPhật, chúng Bồ Tát ở quốc độ phương khác nghe danh hiệu tôi mà chẳng liền đượcđệ nhứt nhẫn, đệ nhị nhẫn và đệ tam pháp nhẫn, nơi các Phật pháp chẳng liềnđược bực bất thối chuyển thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
05/08/2012(Xem: 6373)
Ai trong chúng ta được sinh ra trong đời này rồi, một ngày nào đó cũng phải từ giã tất cả những gì có liên hệ với ta trong một quãng thời gian nhất định của cuộc đời này để phải ra đi. Có kẻ đi lên, có người đi xuống; có kẻ đi ngang và có người lại ngược dòng sinh tử, trở lại thế giới này để cứu khổ độ mê. Tất cả đều do nghiệp lực và nguyện lực của mỗi người trong chúng ta.
18/07/2012(Xem: 18068)
Cõi Cực Lạc hay cõi Tịnh Độ mà Đức Phật Thích Ca Mâu Ni muốn giới thiệu cho chúng sanh ở thế giới Ta Bà nầy là cõi: Phàm Thánh Đồng Cư Tịnh Độ... HT Thích Như Điển
27/05/2012(Xem: 8513)
Guru Rinpoche tuyên bố với Jomo Shedron rằng việc trì tụng lời cầu nguyện này cũng ngang bằng với việc trì tụng toàn thể Bài Trì tụng Hồng danh Đức Văn Thù.
12/04/2012(Xem: 2934)
Pháp môn niệm Phật từ trước đến nay được phổ biến rộng rãi, hàng Phật tử đều có thể ứng dụng thực hành và đã chứng nghiệm sư an lạc, lợi ích từ câu Phật hiệu. Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn còn rất nhiều người chưa thật sự hiểu thấu đáo ý nghĩa của việc niệm Phật. Vậy ý nghĩa của việc niệm Phật là gì? Niệm Phật với mục đích gì? Chúng ta sẽ cùng tìm hiểu cặn kẽ hơn để việc niệm Phật thật sự đúng nghĩa và có lợi ích thiết thực trong cuộc sống ngay phút giây hiện tại.
01/04/2012(Xem: 5073)
Hôm nay chúng ta có được nhân duyên thù thắng đến như vậy, Học Hội Tịnh Tông Liên Hoa bố trí một hội trường trang nghiêm long trọng. Chúng ta ở nơi đây cùng nhau nghiên cứu, thảo luận một phương pháp tu học trọng yếu trong Phật pháp chính là ba tư lương của tịnh độ. Trước khi chúng ta thảo luận đến vấn đề này, thì trước tiên phải có sự nhận thức chuẩn xác đối với Phật pháp.
22/03/2012(Xem: 5096)
Đương thời giảm kiếp, trình độ đạo đức của nhân loại mỗi ngày một kém, trái lại tội ác mỗi ngày một thêm. Do sức nghiệp của đa số người chiêu cảm, nên khắp thế giới nổi lên những hiện tượng: động đất, bão, lụt, núi lửa, nắng hạn, thời tiết bất thường. So với mấy mươi năm về trước, những chuyện chém giết trộm cướp, dâm loàn, lường gạt giữa ngày nay, đã khiến cho người có lòng với thế đạo nhân tâm phải bàng hoàng lo sợ! Kinh Phật nói: “Tất cả sự khổ vui đều do tâm tạo”. Vậy muốn cải thiện con người, tạo hoàn cảnh tốt, phải tìm sửa đổi từ chỗ phát nguyên. — đây, tôi muốn nói là mọi người phải dứt trừ tâm niệm xấu ác, ví như muốn được dòng nước trong, đừng để cho nguồn vẩn đục.
21/03/2012(Xem: 4320)
Tôn này thuộc về Đại- thừa, chủ trương dạy người chuyên tâm niệm Phật đẻ được cảnh vãng sanh về Tịnh độ của Phật A-DI-Đà. Do đó, tôn này mới có tên là Tịnh độ tôn. Đây là một trong nhiều pháp môn của Phật, mà đặc điểm là dể tu, dể chứng, rất thích hợp với đại đa số quần chúng. Với pháp môn này, bất luận hạng người nào, trong thời gian nào, hoàn cảnh nào, củng có thể tu hành được cả. Nếu so sánh với con đường đi, thì tôn này là môt đại lộ bằng phẵng ,rộng rãi, mát mẽ, hành giả dễ đi mà mau đến, không sợ gặp nguy hiểm chướng ngại giữa đường.
21/03/2012(Xem: 3288)
Quyển này bút giả tuyển dịch từ nguyên bản Tịnh Độ Thánh Hiền Lục của Phật giáo Trung Hoa. Bộ Tịnh Độ Thánh Hiền Lục do cư sĩ Bành Tế Thanh cùng cháu là Hy Tốc, người đời Càn Long nhà Thanh sưu tập những truyện niệm Phật được vãng sanh soạn thành. Đến cuối đời Đạo Quang, Thanh triều, Liên Quy cư sĩ Hồ Đỉnh góp nhặt các chuyện vãng sanh tục biên thêm. Sang đời Trung Hoa Dân Quốc, Đức Sum Pháp sư lại sưu tập những sự tích tu Tịnh độ có ứng nghiệm bổ túc vào. Trước sau có tất cả được gần một ngàn truyện.
16/03/2012(Xem: 4249)
Hôm qua chúng tôi từ Tuyết Lê Newsaque trở về, hôm nay đã nghỉ hết một ngày, buổi tối chúng ta họp mặt với các đồng tu đàm luận mấy vấn đề tu học Phật pháp. Những vấn đề này phần nhiều đều là thuộc về sơ học, cho dù là lão tu cũng luôn xem thường, cho nên gọi là “tập nhi bất sát”. Đợi đến khi có người hỏi đến chúng ta, thì có không ít người không biết phải trả lời thế nào. Học viện của chúng ta là học viện của Tịnh Tông, xem hình thức là biết nội dung, chúng ta là chuyên tu Tịnh Độ.
16/03/2012(Xem: 2865)
“Tâm thường đế trụ, độ thế chi đạo, ư nhất thiết vạn vật, tuỳ ý tự tại, vi thứ giá loại, tác bất thỉnh chi hửu”. Lần trước giảng đến cái đoạn nhỏ này, bởi vì quan hệ của thời gian, còn có một số ý nghĩa chưa thể nói ra được, hôm nay chúng ta cần phải giảng bổ sung. Chúng ta học Phật nhất định phải lấy Phật làm tấm gương cho chúng ta, đặc biệt là đồng tu Tịnh Độ, tấm gương của chúng ta chính là A Di Đà Phật, nhất định phải rất nỗ lực chăm chỉ học tập với Phật A Di Đà, học phải giống y như Ngài.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567