Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tiểu luận Kinh Kim Cang

10/04/201313:10(Xem: 13205)
Tiểu luận Kinh Kim Cang

buddha4541

Tiểu luận Kinh Kim Cang

A. Vị trí, căn cơ tiếp nhận kinh Kim Cang

Giáo pháp một đời Đấng Từ Phụ tám vạn bốn ngàn, nhằm độ tận chúng sinh, do căn cơ chúng sinh sai biệt mà 'chúng sinh đa bệnh, Phật pháp đa phương,' đều vì lòng Đại bi vô hạn trị dứt tâm bệnh mỗi mỗi chúng sinh rốt ráo đưa tất cả chúng sinh đồng chứng quả vị Diệu giác.

Ấn Quang đại sư nói: Thuốc không quý tiện, lành bệnh là thuốc hay; pháp không cao thấp, hợp cơ là Diệu pháp.

Lại như người mới ốm dậy thể trạng còn yếu phải ăn cháo loãng, phục các loại thuốc nhẹ, đến khi phủ tạng điều hòa mới ăn uống bồi bổ dùng các loại thuốc mạnh thì mói trị dứt gốc bệnh, chứ nếu dùng ngay các loại đại bổ nhân sâm, nhung hươu dược tính quá mạnh, bổ quý chưa thấy đâu, e chẳng toàn mạng.

Người tu cũng lại như vậy, phải tự mình quán xét căn cơ, lại cần hiểu được rành rẽ các pháp môn của Phật, hòng có thể lựa chọn pháp môn tu thích ứng căn cơ chẳng để lầm lạc, đó gọi là trí Trạch Pháp.

Thiên Thai đại sư dựa vào kinh Niết Bàn, chia cả đời giáo pháp Như Lai thành năm thời:

1. Trong 21 ngày đầu tiên, nói kinh Hoa Nghiêm, là thời Hoa Nghiêm.

2. Trong 12 năm kế tiếp, nơi vườn Lộc Dã,... giảng 4 kinh A Hàm cho căn cơ Tiểu thừa, gọi là thời A Hàm.

3. Trong 8 năm kế tiếp, nói các kinh Duy Ma, Đại Tập, Lăng Nghiêm, Vô Lượng Thọ,...chê bai Tiểu giáo, khen ngợi Đại thừa, cổ vũ Viên giáo. Nói rộng 4 giáo: Tạng, Thông, Biệt, Viên (Phương); bình đẳng (Đẳng) độ khắp các căn cơ nên gọi là thời Phương Đẳng.

4. Trong 12 năm tiếp nữa, nói các kinh Đại Bát Nhã, gọi là thời Bát Nhã. Kinh này ở thời Bát Nhã thứ 4.

5. Trong 8 năm sau cùng nói kinh Pháp Hoa, một ngày một đêm nói kinh Niết Bàn, cửu giới tam thừa đều được thọ ký, chẳng luận Đại Tiểu đều được thành Phật. Thời này gọi là thời Pháp Hoa- Niết Bàn.

Kinh Kim Cang thuộc về kinh Tối thượng thừa Đệ nhất nghĩa dành riêng cho các bậc Bồ tát, hay nói rộng ra là tất cả thiện nam tử, thiện nữ nhân nào dũng mãnh phát Đại tâm Vô thượng Chánh Đẳng giác quyết cầu quả vị Diệu giác tối thượng. Kinh chuyên luận về thể tánh các pháp, dẫn dắt Bồ tát ngộ nhập Thể tánh vạn pháp, hay còn gọi là Tánh Không; cũng gọi là ngộ nhập Tri Kiến Phật theo cách nói của kinh Pháp Hoa.

Tông Hiền Thủ phân định giáo pháp Như Lai như sau: "Thánh giáo muôn phần sai khác, nhưng chính yếu chỉ có 5 loại: Tiểu thừa giáo, Đại thừa Thỉ giáo, Chung giáo, Đốn giáo và Viên giáo.

1. Tiểu thừa giáo: Chỉ nói về Nhân Không, dù có nói đôi chút về Pháp Không cũng chưa được minh xác, do chưa tột cùng nguồn Pháp.

2. Đại thừa Thỉ giáo: thông từ Tiểu thừa lên đến Đại thừa, nhưng chưa dạy nghĩa lý: tất cả chúng sinh đều có Phật tánh, chưa hứa khả định tánh Xiển đề đều sẽ thành Phật, chưa bàn đến điểm cùng tột của Đại thừa nên gọi là Thỉ: Bắt đầu.

3. Chung giáo: Do Trung đạo diệu Hữu, định tánh Xiển đề đều sẽ thành Phật mới là nói đến chỗ cùng tột của Đại thừa; nên gọi là Chung: Cuối cùng,

4. Đốn giáo: Chỉ thuần nói về Chân tánh, một vọng niệm chẳng sanh gọi là Phật. Chẳng nương theo địa vị để nói thứ lớp, nên gọi là Đốn.

5. Viên giáo: Gộp chung cả 4 loại trên, viên mãn đầy đủ, giảng về vô tận pháp giới, tánh hải viên dung, duyên khởi vô ngại, một là hết thảy, hết thảy là một. Vì vậy thập tín mãn tâm chính là gồm trọn hết thảy địa vị, viên thành Chánh giác".

Ngũ giáo Chương chép: "Hoặc chia làm hai, tức là Tiệm và Đốn. Do trong 2 giáo Thỉ Chung, tất cả hạnh giải đều ở ngôn thuyết, địa vị có thứ lớp, nhân quả nương dựa vào nhau, từ nhỏ nhiệm đến phức tạp nên gọi chung là Tiệm.

Ngôn thuyết dứt tuyệt, lý tánh đốn hiển, giải hạnh đốn thành, một vọng niệm chẳng sanh chính là Phật ... thì gọi là Đốn."

Trong Pháp Bảo Đàn kinh, phẩm Định Huệ, Lục Tổ dạy chúng rằng: Thiện tri thức, CHÁNH GIÁO vốn chẳng đốn tiệm, tánh người tự có lợi độn, kẻ mê tiệm tu, người ngộ đốn khế. Ðốn tiệm chỉ là giả danh kiến lập mà thôi, nếu tự nhận được bổn tâm, tự thấy được bổn tánh thì chẳng sai biệt vậy.

Ba giáo đầu, tức là Tiểu giáo, Đại thừa Thỉ và Chung giáo đều bắt buộc phải nương nơi Pháp, ví như đang đi trên sông không thể bỏ thuyền vậy.

Đến khi chạm đến bờ bên kia, tức đến được Chân tánh thì phải bỏ thuyền:

Đó là ý ƯNG VÔ SỞ TRỤ, NHI SINH KỲ TÂM.

Như thế bộ kinh Kim Cang là bước chuyển căn cơ từ Tiệm sang Đốn.

Do vậy nên nói căn cơ hóa độ của kinh này là bậc Thượng căn của ba giáo sau (tức là Đại thừa chung giáo, Đốn và Viên giáo).

Hàng phàm phu, Nhị Thừa nếu cố tiếp nhận, suy diễn kinh này sẽ dễ chấp Không; không ta, không người, không Nhân quả mà tạo tội Phỉ báng Chánh Pháp.

Vì sao? Phàm phu, Nhị thừa chưa thấy Tánh vốn không thể tiếp nhận nổi Kinh này.Vì phàm phu Chấp Ngã và Pháp, Nhị thừa chấp Pháp còn nặng nề, vẫn còn phải nương theo pháp tu tập, tích lũy thiện căn mới có thể phá mây mù Vô minh thấy được Chân tánh.

Vì thế căn cơ tiếp nhận trong kinh Kim cang nói rõ phần nhiều là thuộc về thời kỳ Chánh pháp, Tượng pháp.

Như trong kinh Kim Cang, đức Phật bảo ngài Tu Bồ Đề: "Sau khi đức Như Lại diệt độ, năm trăm năm sau cuối (tức thời Chánh pháp cuối cùng) có người trì giới tu phước có thể sinh lòng tin nơi những câu trong kinh này mà cho đó là thật, thời phải biết rằng người ấy chẳng phải chỉ vun trồng căn lành nơi một Đức Phật, hai Đức Phật, ba bốn năm Đức Phật mà người đó đã vun trồng căn lành nơi vô lượng nghìn muôn Đức Phật rồi."

Bây giờ đang là thời Mạt pháp, cách Phật diệt độ đã hơn 2500 năm, phải chăng căn cơ chúng sinh không thể tiếp nhận nổi kinh này?

Kinh Niệm Phật Ba la mật, đức Thế Tôn dạy:

"Này Diệu-Nguyệt, Thâm Trọng Tâm nghĩa là đem tấm lòng sâu xa và cẩn trọng mà cảm mộ ân đức của Tam-Bảo, tưởng nhớ công lao của cha mẹ, thiện-tri-thức và của hết thảy chúng sanh.

Trong quá khứ vô lượng vô biên na-do-tha vi trần kiếp, chư Phật vì thương xót chúng sanh mà xả bỏ đầu, mắt, tay, chân, thân mạng, tài sản, quyến thuộc ... để tìm cầu Chánh pháp, tu Bồ-tát-đạo, giáo hóa muôn loài, làm cho ai nấy đều được lợi ích. Đời đời kiếp kiếp, chư Phật hằng theo dõi và thương tưởng đến mỗi một chúng sanh, luôn luôn tìm cách nhổ bật gốc rễ tham ái, đập tan gômg cùm sanh tử, làm khô cạn biển khổ vô minh, mãi phát tâm quảng đại, tâm kim cang, tâm vô phân biệt mà rọi sáng lối về cho mọi hữu tình. Vì thế mà người niệm Phật phải phát khởi cái tâm chí sâu xa và cẩn trọng để tưởng niệm, cảm mộ ân đức ấy.

Nhưng chư Phật muốn tế độ tất cả chúng sanh, thì cũng phải lấy Chánh pháp làm phương thuốc hữu hiệu trị dứt những bịnh tham ái, dùng Chánh pháp làm thuyền bè đưa chúng sanh qua đến bờ giác ngộ, dùng Chánh pháp làm tuệ kiếm chặt đứt mọi trăng trói phiền não, làm ngọn đuốc dẫn dắt ra khỏi đêm dài vô minh, làm chất đề hồ chữa lành mọi thứ sanh, già, bịnh, chết, ưu, bi, khổ, não, dùng Chánh pháp làm đôi mắt cho chúng sanh nhìn rõ Thật Tướng.

Người Niệm Phật phải biết cảm mộ ân đức cao dày của Chánh Pháp, phải luôn luôn báo đáp ân đức ấy bằng cách đọc tụng kinh điển Đại thừa và giảng nói cho kẻ khác, khuyên bảo mọi người quy y, bố thí trì giới, thiền định. Khiến sao cho Chánh Pháp được lưu hành rộng rãi khắp nhân gian, ai nấy đều được hưởng dụng cam lồ vị."

Đó là pháp Niệm Phật quá khứ.

Lại nữa, Kinh Lăng Nghiêm, chương Đại Thế Chí niệm Phật Viên thông, Bồ tát Đại Thế Chí có dạy: Nếu tâm chúng sinh nhớ Phật, tưởng Phật, thì hiện nay hay về sau nhất định thấy Phật, cách Phật không xa.

Đó là pháp Niệm Phật hiện tại.

Kinh Kim Cang cũng nói: Chẳng phải do nơi ba mươi hai tướng hảo mà thấy được Như Lai.

Nếu trong thời kỳ Mạt pháp này có người nào khởi lên tư duy thế này: Tất cả mọi chúng sinh ta thấy bây giờ đều là Phật sẽ thành, mọi người đều là Phật, Bồ tát thị hiện đến ngay cả kẻ trộm, dâm nữ, kẻ sát nhân cũng là các Đại Bồ tát thị hiện nghịch hạnh hóa độ chúng sinh. Vì sao? Vì chư Phật, chư Bồ tát hay làm được việc khó làm. Cũng là thị hiện lý nhân quả tương tục dung thông ba đời nên bày ra vậy.

Đối với tất cả chúng sinh, chẳng dám khởi tâm khinh thường kiêu mạn. Đó cũng là hạnh Bồ tát Thường Bất Khinh. Cũng là hạnh đầu tiên trong 10 đại nguyện vương của Phổ hiền Bồ tát: Lễ kính chư Phật.

Đó gọi là pháp Niệm Phật tương lai.

Như thế người đó là người thường thấy Phật, thường được Phật hộ niệm, người ấy ở gần Phật nên người ấy đang trong thời Chánh pháp, chẳng phải ở thời Mạt pháp này. Người ấy là đương cơ tiếp nhận kinh Kim Cang.

Như con sâu bướm, nó hàng ngày tích lũy năng lượng, đến một lúc nào đó từ từ biến thành cái kén rồi chuyển hóa thành Bướm, bay lượn tự tại. Chẳng phải sâu nào cũng có thể chuyển hóa thành bướm mà phải là sâu bướm.

Cũng vậy, mọi chúng sinh bổn lai là Phật, chỉ vì một niệm bất giác bỏ quên Chân tánh, trái giác hiệp trần mà trôi lăn lục đạo luân hồi không có ngày ra. Kinh Pháp Hoa dụ là Cùng tử, vì rằng chẳng có đủ công đức nuôi dưỡng Pháp thân huệ mạng vậy. Nay quyết tâm trái trần hiệp lại giác, dũng mãnh tu tập tích công lũy đức, thấy được Chân tánh, nhất định thành Phật.

Lục vị Tổ sư Thiền tông Trung Hoa thường khuyên người tu đọc tụng kinh Kim Cang để nhận được Chân tánh.

B. Tiểu luận kinh Kim Cang

1. Pháp hội nhân do

Mở đầu kinh Kim Cang tả lại việc hàng ngày của Phật:

"Một hôm, tại nước Xá Vệ, Phật và 1250 vị Ðại Tỳ Kheo, đều ở Tinh xá Kỳ Hoàn, trong vườn của Thái tử Kỳ Ðà và ông Trưởng giả Cấp Cô Ðộc.

Sắp đến giờ ngọ trai, Phật và chúng tăng đều đắp y, mang bình bát vào thành Xá Vệ, theo thứ lớp khất thực. Khất thực xong, Phật và chúng tăng đồng về Tinh xá để thọ trai. Sau khi thọ trai xong, Phật xếp y, cất bình bát và rửa chân, rồi trải tọa cụ, ngồi yên tịnh."

Kinh Kim Cang là bộ kinh hàm chứa giáo lý cao siêu của Phật pháp nhưng mở đầu bằng những hoạt động giản dị thường nhật của đức Phật, hàm ý cho chúng ta thấy mọi sự mọi việc trong cuộc sống này không đâu chẳng phải là Phật pháp.

Cũng lại mang ý nghĩa, nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân nào trong từng công việc bình thường hàng ngày hằng sanh tâm tưởng Phật, người đó thật đang thọ trì kinh Kim Cang vậy

Nên nhà Thiền có câu: Tâm bình thường là Đạo.

2. Trưởng lão Tu Bồ Đề bạch Phật:

Thông thường mỗi bộ kinh đức Phật thuyết đều có duyên khởi.

Người duyên khởi kinh này là Trưởng lão Tu Bồ Đề, là 1 trong 10 Đại đệ tử của đức Thế Tôn, được xưng tán là "Giải Không đệ nhất", là đương cơ tiếp nhận Lý Bát Nhã của kinh.

Trong kinh Thủ Lăng Nghiêm, ngài Tu Bồ Đề tự thuật: "Từ nhiều kiếp đến nay, tâm con được vô ngại, lúc còn trong thai mẹ cũng liền biết tính Không tịch, như thế cho đến mười phương thế giới đều thành rỗng không và cũng khiến chúng sinh chứng được tính Không".

Lại nữa, sau 3 tháng lên cung trời Đao Lợi thuyết pháp báo ân cho Thánh Mẫu Maha Maya (mẹ ruột đức Thế Tôn), đức Phật trở lại nhân gian. Về đến cổng làng có đại đức Mục Kiền Liên, sư cô Uppalavannà là hai đệ tử thần thông đệ nhất đến trước, đại đức Xá Lợi Phất và đông đảo các vị khất sĩ khác đến sau đón tiếp Phật.

Sư cô Uppalavannà vui mừng bước đến đảnh lễ Phật và nói :

Bạch Thế Tôn, đệ tử là Uppalavannà, người đầu tiên đến nghênh đón Thế Tôn, xin Thế Tôn chứng minh cho.

Đức Phật mỉm cười nói :

Này Uppalavannà, người nghênh đón Như Lai trước nhất chẳng phải là sư cô đâu.

Uppalavannà lấy làm lạ hỏi :

Bạch Thế Tôn, nếu chẳng phải con vậy là ai ?

Đức Phật nhìn các đệ tử, ôn tồn nói :

Cám ơn quý vị khất sĩ đã từ xa xôi đến đây tiếp đón Như Lai, nhưng người gặp Như Lai trước nhất chính là Tu Bồ Đề. Thầy Tu Bồ Đề hiện đang quán Tánh Không của các pháp và thực hành Tâm Không trong hang núi ở Griddhakùta, do đó Tu Bồ Đề mới là người thấy Phật trước nhất.

Vì những lý do trên, ngài Tu Bồ Đề là đương cơ duyên khởi kinh, lưu thông kinh này.

Câu đầu tiên ngài xưng tán Như Lai: "Hy hữu thay, Thế Tôn. Đức Như Lai khéo hay hộ niệm các vị Bồ tát, khéo hay phó chúc các vị Bồ tát".

Thế nào là "Hy hữu thay, Thế tôn"? Vì rằng, được thân người là khó như con rùa mù gặp bộng cây nổi, gặp được Phật ra đời còn khó hơn muôn lần. Gặp Phật đã khó, lại còn được tin, nghe Chánh Pháp khó thêm muôn lần nữa. Được nghe Chánh pháp đã rất hiếm có, làm thế nào để nương theo Chánh pháp tu tập đạt lợi ích chân thật lại khó trăm ngàn lần nữa. Vì sao? Vì giáo pháp của Phật thậm thâm vi diệu, bao la rộng lớn như hư không khó có chỗ lần dò.

Lại nữa, Phật ra đời như hoa Ưu đàm thoáng hiện, nên gọi là Phật bảo. Lời của Phật là lời chân thật, không hư dối, là chân lý luôn đem lại lợi ích an lạc cho tất cả chúng sinh nên gọi là Pháp Bảo. Chư tăng là bậc dũng mãnh lìa bỏ tất cả gia tài, địa vị, quyến thuộc cầu Pháp Bảo đem hương vị giải thoát mọi khổ đau đến với chính mình và muôn loài nên gọi là Tăng bảo. Nói gộp lại gọi là Tam Bảo, quý báu hiếm có nên gọi là Hy hữu.

"Thế Tôn" chỉ đức Thích Ca Mâu Ni Phật, Phật là đấng Tôn quý nhất thế gian nên gọi là Thế Tôn. Lại nữa, Phật đủ tất cả các đức tốt, được đời tôn trọng nên hiệu là Thế Tôn.

Nên ngài Tu Bồ Đề mới cảm khái vậy.

Thế nào là Như Lai khéo hay hộ niệm các vị Bồ tát, khéo hay phó chúc các vị Bồ tát?

Khi đức Phật thuyết kinh này đã ở thời kỳ thứ 4. Qua 2 thời A Hàm và Phương Đẳng đức Phật đã thiết lập căn cơ Đại, Tiểu vững vàng. Giới luật Bồ tát đã hoàn bị.

Thế nào là Bồ tát? Bồ tát vốn là chữ Phạn nói tắt của chữ 'Maha Bồ đề Chất đế tát đỏa'. Maha dịch là Đại, Bồ đề dịch là Đạo, cũng dịch là Giác, Chất đế dịch là Tâm, Tát đỏa dịch là Chúng sinh hay Hữu tình; nói gọn thì là Bồ đề Tát đỏa, dịch lối cũ là Đại Đạo Tâm Chúng sinh, dịch theo lối hiện nay là Giác Hữu Tình.

Sách Di Đà sớ sao của Tổ Liên Trì viết:

"Giác hữu tình là: Đồng chứng chỗ Phật chứng thì gọi là Giác, nhưng vô minh chưa hết gọi là Hữu tình.

Lại có 3 nghĩa là:

1. Giác là chỗ tu đạo Phật, tình là chỗ độ các chúng sinh. Nghĩa là trên dùng trí cầu Phật quả, dưới dùng lòng bi cứu độ chúng sinh.

2. Giác là cái quả sở cầu, Hữu tình là người năng cầu. Nghĩa là lấy tâm mình mà cầu ngộ lý Phật

3. Nghĩa lợi sanh: phát tâm rộng giác ngộ tất cả chúng sinh hữu tình. Ngài A Nan nói: Tự mình chưa được độ, trước đã lo độ người, ấy là chỗ phát tâm Bồ tát vậy."

Vì Bồ tát là người phát nguyện tự độ mình để độ tất cả chúng sinh, tiếp nối dòng giống Bồ đề Phật, gánh vác trách nhiệm lợi sanh vĩ đại của Phật nên luôn được chư Phật hộ niệm.

Thế nào là hộ niệm? Hộ là bảo hộ, chở che; niệm là luôn nhớ nghĩ đến chẳng hề quên sót. Sao kinh này lại đặc biệt nhắc đến sự hộ niệm của chư Phật đối với Bồ tát?

Vì thời Phương Đẳng đức Phật đã thành lập căn cơ vững chắc cho Bồ tát thông qua hệ thống kinh điển Đại thừa. Chư Bồ tát sơ phát tâm nương theo giáo lý đã xây dựng tín căn vững vàng, đã có tư lương đầy đủ lợi ích quần sanh. Nay đến thời kỳ trí Bát Nhã, lại phải biết lìa văn tự, ngôn ngữ thâm nhập Tánh Không vạn pháp, được trí vô ngại để cứu độ chúng sinh không hạn lượng.

Như người ngồi trên thuyền đang được an ổn nay bảo bỏ thuyền lên bờ không khỏi bỡ ngỡ, nên chư Phật mới nói: Đã đến bờ bên kia rồi! Hãy dũng cảm rời thuyền mà lên bờ, đừng sợ, ta luôn ở bên cạnh che chở, động viên.

Lại như cha mẹ dạy con tập đi. Ban đầu phải trườn, bò, ngồi rồi mới đến lúc bám vào xe đẩy mà đi.

Sau khi đã thấy con cứng cáp vững vàng, cha mẹ mới bỏ tay ra để con tự bước đi những bước đi chập chững đầu tiên trong cuộc đời. Cha mẹ mới động viên rằng: "Con yêu, hãy yên tâm cha mẹ luôn ở bên cạnh nâng đỡ, đừng có sợ hãi."

Nếu chẳng có cha mẹ bên cạnh, con bé sẽ chẳng dám bước đi.

Cũng thế, nếu không có chư Phật luôn khéo hộ niệm, Bồ tát chẳng thể dám rời bỏ Pháp mà có thể trụ Tâm nơi Vô trụ.

Thế nào là phó chúc?

Phó là giao phó, đề nghị, giao cho nhiệm vụ, trách nhiệm; chúc là di chúc, chuyển giao gia tài, địa vị.

Trong đạo Phật thì Phó chúc có nghĩa là sự giao phó trọng trách truyền bá giáo pháp của đức Phật cho đệ tử, là sự thọ ký cho chư Bồ tát sẽ tiếp nối dòng giống Bồ đề, tiếp nối địa vị Thiên Nhân Sư, viên thành Phật đạo.

Chánh kinh: Bạch đức Thế Tôn, thiện nam tử, thiện nữ nhân phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác thời phải trụ tâm như thế nào, nên hàng phục tâm như thế nào?

Chánh Đẳng: Đẳng là bình đẳng, Chánh Đẳng là cái thấy biết rốt ráo bình đẳng mọi vật mọi loài khắp pháp giới, cũng là Vô Sai Biệt Trí của Phật.

Chánh Giác: là thấy biết mọi sự mọi vật đúng như Thật, còn gọi là Diệu quán sát Trí của Phật, lại thấy biết vạn pháp chẳng thể sở hữu nên cũng là Vô sở Hữu Trí.

Như vậyVô thượng Chánh Đẳng Chánh Giác gồm đủ 4 trí: Vô sai biệt trí, Diệu quán sát trí, Vô sở hữu trí và Đại viên kính Trí.

Lại nữa, Chánh Đẳng Chánh Giác nói gọn là Đẳng Giác là địa vị cùng tột của hàng Bồ tát, nên Vô thượng Chánh Đẳng Chánh Giác chính là quả vị Diệu Giác, giác viên mãn.

Khi còn Vô minh thì còn Tình, hết sạch Vô minh Tình chuyển thành Trí.

Vậy thời muốn đạt quả đức siêu việt tối thượng, ngài Tu Bồ Đề hỏi Phật chỉ dạy phải gieo nhân, chăm sóc vun bồi như thế nào là đúng pháp?

Chánh kinh:"Hay thay, hay thay! Này Tu Bồ Đề. Đúng như lời của ông vừa nói. Đức Như Lai khéo hay hộ niệm các vị Bồ tát, khéo hay phó chúc cho các vị Bồ tát."

Chư Phật xuất thế chẳng ngoài một Đại sự Nhân duyên, đó là thuyết pháp độ sanh khiến tất cả chúng sinh lìa khổ được vui, đồng chứng chỗ Phật chứng. Nay ngài Tu Bồ Đề lại thưa thỉnh làm thế nào để chúng sinh phát Đại tâm Bồ Đề Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, cầu quả vị Phật thật đúng với Bản hoài chư Phật, nên Phật vui sướng mà khen "Hay thay"đến hai lần.

Sau đó, đức Thế tôn xác nhận lại lời của ngài Tu Bồ Đề về sự lưu tâm đặc biệt của Phật đối với chư Bồ tát.

Đức Thế Tôn hứa khả sẽ vì ông thuyết pháp chỉ dạy:

"Nay ông nên lắng nghe. Ta sẽ vì ông mà nói. Trang thiện nam, người thiện nữ phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác phải trụ tâm như thế này, phải hàng phục tâm mình như thế này."

Ngài Tu Bồ Đề thưa: "Vâng, bạch Thế Tôn! Con xin vui thích muốn nghe."

Vì pháp Phật thuyết là quý báu, lời Phật nói là dòng nước cam lồ dập tắt tất cả ngọn lửa khổ đau thiêu đốt chúng sinh. Ngài là bậc Đại Tỳ kheo xả bỏ mọi sở hữu mà đi tìm nguồn nước Pháp nuôi dưỡng Pháp thân huệ mạng, bằng tất cả sự hân ngưỡng tôn kính, bằng tất cả trí tuệ sáng suốt ngài biết được giá trị chân thật nơi Pháp Phật, nên ngài vui thích muốn nghe.

3. Đại thừa Chánh tông

Đức Thế Tôn dạy tiếp rằng:"Các vị đại Bồ tát phải hàng phục tâm mình thế này: Bao nhiêu những loài chúng sinh, hoặc loài noãn sinh, hoặc loài thai sinh, hoặc loài thấp sinh, hoặc loài hóa sinh, hoặc loài có hình sắc, hoặc loài không hình sắc, hoặc loài có tư tưởng, hoặc loài không có tư tưởng, hoặc loài chẳng phải có tư tưởng cũng chẳng phải không có tư tưởng, thời ta đều diệt độ mà làm cho vào nơi Vô dư Niết Bàn. "

Vì sao ban đầu phải hàng phục tâm? Vì tâm chúng sinh như loài khỉ vượn luôn phan duyên theo lục trần: sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp bên ngoài; niệm niệm chưa từng dừng nghỉ. Vì vậy bước đầu phải hàng phục nó, cho nó vào giới luật rồi mới có thể an trụ được.

Khi xưa, thiền sư Ngưỡng Sơn đi đến chỗ thiền sư Trung Ấp hỏi đạo:

- Bạch Hòa thượng, thế nào là Phật tánh.

- Ta nói cho ông một ví dụ, nếu khéo ông sẽ nhận ra. Như một con khỉ nhốt trong cái lồng sáu cửa, bên ngoài có con khỉ khác đứng kêu chóe chóe. Con khỉ bên trong đáp lại chóe, chóe.

Ngài Ngưỡng Sơn liền thưa:

- Nếu con khỉ bên trong ngủ thì sao?

Ngài Trung Ấp từ trên tòa bước xuống nắm vai ngài Ngưỡng Sơn nói:

- Chúng ta thấy nhau rồi.

Đó là lý do vì sao trước hết phải hàng phục tâm.

Như đức Thế tôn đã dạy trong kinh Lăng Nghiêm, muốn hàng phục được nó phải xét kỹ cội gốc lục trần nó phan duyên hư vọng điên đảo như thế nào?

Kinh Lăng Nghiêm đức Thế Tôn dạy :

"Các ông quyết muốn phát tâm Bồ Đề, nơi thừa Bồ tát, sinh lòng đại dũng mãnh, quyết định rời bỏ các tướng hữu vi, thì nên xét rõ cội gốc phiền não, những cái vô minh phát nghiệp và nhuận sinh vô thỉ đó, là ai làm ai chịu? A Nan, ông tu đạo Bồ Đề, nếu không suy xét cội gốc phiền não, thì không thể biết những căn trần hư vọng, có điên đảo ở chỗ nào; chỗ điên đảo còn không biết, thì làm sao uốn dẹp được nó và chứng quả Như Lai?”

Phật dạy: Chúng sinh bổn lai là Phật, vì một niệm bất giác nổi lên ngăn cách Lý Tánh mà trôi lăn lục đạo, khởi hoặc tạo nghiệp không có ngày ra. Kinh Lăng Nghiêm gọi Tánh đó là Chân Như diệu Tánh, mọi chúng sinh vốn đầy đủ. Chân như diệu Tánh này thường Biết, hay sinh các pháp, do một niệm bất giác, tách rời cái Biết khỏi Diệu tánh, thành cái Năng tri, rồi chấp cái Biết dính vào các pháp tạo nên cái bị biết, gọi là Sở tri. Năng Tri, Sở Tri đã thành lập thì vốn trong Chân tánh chẳng có cái đồng và khác thoạt nổi lên như có đồng, có khác; rồi quay trở lại lập ra cái không đồng không khác, rối loạn như vậy phát sinh ra trần tướng, phiền não. Nổi lên thì thành thế giới, lặng xuống thì là hư không... Cái đồng nghiệp ràng buộc lẫn nhau mà hợp, mà ly, mà thành, mà hóa. Chấp vào cái thấy thì sắc tướng phát ra, nhận rõ nơi sự thấy thành ra tư tưởng yêu ghét nảy sinh. Lan cái yêu thì thành hạt giống, thu nạp tưởng niệm thì thành cái thai, mà có thai sinh, noãn sinh, thấp sinh và hóa sinh. Noãn sinh do tưởng niệm mà sinh, thai sinh do ái tình mà có, thấp sinh do cơ cảm mà hợp lại còn hóa sinh do phân ly mà ứng hiện. Khi tình khi tưởng khi hợp khi ly thay đổi lẫn nhau, do nhân duyên ấy chúng sinh tiếp tục.

Lại do vọng niệm tương tục nối nhau không dứt mà biến hiện đủ loại hình tướng, sắc thân thọ mạng, ẩm thực quyến thuộc để hưởng dụng trong các cảnh giới sai biệt.

Như vậy nguyên nhân chính yếu của vô minh, phiền não là TÁCH RỜI CÁI HAY BIẾT KHỎI CHÂN NHƯ DIỆU TÁNH, QUÊN MẤT TỰ TÁNH.

Vậy nên trong kinh Kim Cang, đức Phật nhấn mạnh ý nghĩa hai chữ Diệt độ:

Diệt là tiêu dung, diệt mọi chấp trước nơi huyễn tướng, nơi pháp sinh diệt giả dối.

Độ là độ thoát, giải thoát mọi trói buộc, vượt dòng sinh tử mà trở về với Chân tánh, tức là Vô dư Niết bàn. Tự tánh chính là Vô dư Niết bàn vì Tự tánh thường vắng lặng, thanh tịnh, thường đầy đủ.

Vậy diệt độ là tiêu dung Huyễn Tướng về Tự tánh. Là sự dung hợp Tướng vào Tánh, Tánh và Tướng không hai, trả tướng về Tánh.

Vì sao? Vì phàm phu, Nhị thừa chấp Tướng, tâm trụ nơi Tướng trôi lăn theo phù trần mà bỏ quên Tánh.

Nên nói phải lìa Tướng mới nhận được Tánh. Thế nào là Lìa?

Kinh Viên giác dạy: TRI HUYỄN TỨC LY, LY HUYỄN TỨC GIÁC.

Biết tướng chính là huyễn tướng, chẳng phải thật tướng; chẳng thể nắm bắt tức là Lìa. Lìa được huyễn tướng thì thấy Tánh tức giác ngộ được Chân tướng.

Lại nữa, Niết Bàn, dịch theo lối cũ chính là Diệt Độ, dịch theo lối mới là Viên Tịch.

Diệt Độ là diệt tất cả dòng lũ sinh tử. Kinh Niết Bàn dạy: Diệt tất cả phiền não gọi là Niết Bàn. Lìa các Hữu lậu cũng gọi là Niết Bàn.

Sách Tâm Kinh lược sớ của ngài Hiền Thủ chép: Niết Bàn, dịch là Viên Tịch, ý nói: không đức gì chẳng đủ nên bảo là Viên, không chướng nào chẳng tận nên bảo là Tịch.

Kinh Duy Ma Cật, ngài Duy Ma Cật bảo Bồ tát Di Lặc: "Tất cả chúng sinh đều là Chân như, tất cả pháp cũng là Chân như, tất cả hiền thánh cũng là như cho đến nhân giả cũng là như. Nếu nhân giả được thọ ký, tất cả chúng sinh lẽ ra cũng được thọ ký. Vì sao vậy? Vì đã là Chân như thì chẳng hai chẳng khác. Nếu nhân giả đắc quả Vô thượng Bồ đề tất cả chúng sinh lẽ ra cũng đều đắc quả. Tại sao vậy? Vì tất cả chúng sinh là tướng Bồ đề. Nếu nhân giả được diệt độ, tất cả chúng sinh lẽ ra cũng sẽ được diệt độ. Tại sao vậy? Chư Phật biết rằng tất cả chúng sinh triệt để diệt độ, tức là tướng Niết Bàn, chẳng còn sự diệt độ nào khác nữa".

Chánh kinh: Diệt độ vô lượng vô số vô biên chúng sinh như thế mà thật không có chúng sinh nào được diệt độ.

Vì rằng tướng tất cả chúng sinh đều là huyễn hóa, như có như không, nay tiêu dung tất cả trở về Tự tánh, lìa hết Năng Sở đối đãi nên vốn thật chẳng hề có chúng sinh nào được độ. Như tấm gương chiếu sum la vạn tượng mà thật chẳng có cái gì thuộc về nơi tấm gương. Lại nữa, phát tâm cứu độ chúng sinh của Bồ tát thuộc về Sự, về Lý thì vạn pháp Tánh Không vốn thật chẳng có chúng sinh nào được độ. Vì chỗ phát tâm cầu quả đức Viên mãn nên chỗ gia công dụng hạnh cũng phải cân xứng, Lý Sự viên dung, chẳng thể thiên lệch.

Lại nữa, nói:" Diệt độ vô lượng vô số vô biên chúng sinh" là Quyền, đến được chỗ "Thật không có chúng sinh nào được diệt độ" là Thật; thiện nam tử, thiện nữ nhân nào cầu quả vị Vô thượng cần phải trọn vẹn 2 đức Quyền Thật này.

Cụ Nguyễn Du xưa cũng đã qua bao nhiêu trải nghiệm thăng trầm của thế sự, nhưng mãi tới khi về lại với chính mình mới tìm được Chân Kinh:

Ngã độc Kim Cang thiên biến linh...

Kim Cang vô tự thị Chân Kinh.

(Nghìn lần ta đọc Kim Cang...

Kim Cang thật nghĩa là trang không lời.)

Nếu cứ mãi chỉ bàn nơi Thật Nghĩa thì Thật nghĩa vốn dứt tuyệt nói năng, văn tự, chỉ bày; như thế sự hóa độ chúng sinh sẽ tuyệt, sự truyền thừa giáo pháp Như Lai sẽ dứt.

Chánh kinh: Tại sao vậy? Nếu vị Bồ tát còn có tướng ngã, tướng nhân tướng chúng sinh tướng thọ giả thời chẳng phải là Bồ tát.

Bồ tát là vị gánh vác trọng trách Giác hữu tình, khiến cho tất cả chúng sinh được giác ngộ mà ngay giác ngộ cái gì mình còn mê mờ làm sao giác ngộ chúng sinh? Nên nói người đó chẳng phải Bồ tát.

Kinh Duy Ma, ngài Duy Ma Cật dạy: Nhân có cái Ta mà khởi ra 2 pháp: đó là pháp trong và pháp ngoài.

Pháp trong chấp có thân và tâm trong thân.

Pháp ngoài chấp có cảnh và chúng sinh ngoài tâm.

Như vậy gốc từ chấp ngã mà sinh ra tướng ngã, tướng nhân, tướng chúng sinh, tướng thọ giả. Do vậy các tướng đều là giả tướng, không thật như hoa đốm trong hư không.

Muốn dứt 4 tướng phải làm thế nào?

Ngài dạy: Chẳng nhớ nghĩ pháp trong và pháp ngoài thi hành lẽ bình đẳng. Thế nào là bình đẳng? Đó thi hành là cái Ta và Niết bàn (cũng gọi Diệt độ, cũng gọi là Tự tánh) bình đẳng, cũng là huân tập cái Trí Vô sai biệt của Phật vậy. Vì sao? Vì cái Ta và Niết bàn đều chỉ là Danh tự, mà Danh tự vốn là Không, tánh của văn tự là Lìa.

Lại nữa, kinh Duy Ma có bài kệ:

Trí độ là mẹ Bồ tát

Tùy nghi phương tiện là cha

Chúng tăng là thầy hướng dẫn

Bồ tát do đó sinh ra

.......

Tuy biết rằng các nước Phật

Với chúng sinh đều là Không

Nhưng thường tu tập môn Tịnh độ

Siêng giáo hóa khắp chúng sinh.

Cái biết "thật không có chúng sinh nào" chính là Trí Bát Nhã, biết như thế mà thường tùy nghi cứu độ, chẳng bỏ rơi chúng sinh, đó gọi là Phương tiện, như thế mới được gọi là Bồ tát.

Tóm lại đoạn kinh này, đức Như Lai dạy chư Bồ tát phải thấy biết đúng như thật, thấy được Chân tướng vũ trụ nhân sinh mà khởi tu, đó gọi là Toàn Tánh khởi tu, khởi tu chẳng lìa Tự tánh; như thế mới có thể đạt đến quả vị giác ngộ viên mãn.

4. Diệu hạnh Vô trụ

Thấy biết như thế, tâm thời được an ổn nên tiếp đến Phật dạy cách an trụ tâm.

Chánh kinh: Tu Bồ Đề! Lại nữa, vị Bồ tát , đúng nơi pháp, phải nên không có chỗ trụ trước mà làm việc Bố thí. Nghĩa là không trụ trước nơi hình sắc mà làm việc bố thí, không trụ trước nơi thanh, hương, vị, xúc, pháp mà làm việc bố thí.

Thế nào là "nên đúng như pháp mà không có chỗ trụ trước"?

Đức Thế tôn thường nói kệ:

Tất cả pháp hữu vi

Như mộng huyễn, cũng như sương

Như bọt nước, ảnh tượng

Nên thường xét suy như thế

Trí Độ Luận cũng nói: "Quán các pháp Không, gọi là Không. Trong cái Không ấy chẳng thể giữ lấy Tướng. Ngay khi ấy chuyển được cái Không nên gọi là Vô tướng."

Đó gọi là cái trí nhận biết đúng nơi pháp.

Chúng sinh làm bất cứ việc gì đều móng tâm khởi niệm, do đó tâm thường trụ nơi nào đó.

Trụ nghĩa là đứng cố định, dính mắc nơi nào đó, nên cũng gọi là chấp trước.

Phật dạy "trụ tâm", vì rằng tâm chúng sinh luôn dính mắc chấp, nếu bảo chẳng trụ tâm thì chúng sinh chẳng làm được, đó là Quyền nói đối với chúng sinh. Lại vì các pháp vốn Không, không có tự tánh, vốn thật chẳng thể trụ nơi đâu, đó là Thật trí.

"Đúng như pháp, phải nên trụ nơi không có chỗ trụ trước" : một câu nêu đủ Quyền, Thật trí, nên cũng gọi là Viên mãn trí.

Vì rằng lục trần: sắc, thanh, hương vị xúc pháp, là pháp sinh diệt biến đổi từng sát na. Nếu trụ trước nơi lục trần, thì tâm ấy là tâm sanh diệt.

Hội Lăng Nghiêm, đức Thế tôn đã từng dạy 2 nghĩa quyết định trước khi phát tâm cầu quả vị Vô thượng là: Nên xét kỹ chỗ phát tâm trong lúc tu nhân với chỗ giác ngộ trong lúc chứng quả là đồng hay khác? A Nan, nếu trong lúc tu nhân, đem cái tâm sinh diệt, để cầu cho được cái quả bất sinh bất diệt của Phật thừa thì thật không thể được.

Phật dụ như nấu cát mà muốn thành cơm, trải qua muôn ức kiếp cũng chỉ la cát nóng, chẳng thể thành cơm.

Đến đây, ngài A Nan nghi rằng: cái thấy chẳng ngoài sáng tối, cái nghe chẳng ngoài động tĩnh vốn không có tự thể, như cái tâm niệm rời tiền trần ra vốn không có gì, rốt ráo đoạn diệt, vậy lấy cái gì làm nhân để tu được quả thường trụ Như Lai; rốt cuộc trở thành hý luận, làm sao tin nhận lời Như Lai là chân thật?

Ngài A Nan khởi nghi như vậy cũng là do tùy theo căn cơ mọi chúng sinh, tâm luôn trụ nơi lục trần, cái thấy luôn ở sắc, cái nghe luôn ở thanh, cái ngửi luôn ở hương, cái nếm luôn ở vị, cái thân luôn ở cảm xúc, cái ý luôn trụ nơi pháp trần, nói tóm lại là lục căn luôn trụ nơi lục trần nên chẳng nhận hiểu nổi lời Phật dạy.

Nên Phật dạy tiếp: do người tu chỉ biết suông cái nhân điên đảo trong tâm mà cái nhân điên đảo hiện tiền lại không biết. Đó là vì thường quên mất Tự tánh thường trụ, tách rời Pháp khởi Tánh, do đó mê lầm cái tiếng với cái nghe, cái sắc với cái thấy, lộn lạo ngọn thành gốc, đem bản tâm thường trụ Như Lai theo sắc thanh mà thành tâm sinh diệt.

Nếu biết bỏ cái sinh diệt, giữ tính Chân thường, cái sáng suốt chân thường hiện tiền thì các tâm niệm căn trần thức liền tiêu; tướng vọng tưởng là trần, tính phân biệt là cấu, xa rồi hai cái đó thì thành được đạo Vô thượng giác.

Nhắc lại truyện xưa, Lục Tổ Huệ Năng vừa nghe Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn giang kinh Kim Cang đến câu "Ưng vô sở trụ" liền đại ngộ, ngay đó ngài thấy được Chân tánh thường trụ, vạn pháp chẳng lìa Tự tánh mà đọc bài kệ:

Ðâu ngờ tự tánh vốn tự thanh tịnh,

Ðâu ngờ tự tánh vốn chẳng sanh diệt,

Ðâu ngờ tự tánh vốn tự đầy đủ,

Ðâu ngờ tự tánh vốn chẳng lay động,

Ðâu ngờ tự tánh hay sanh vạn pháp!

Pháp tu của chư Bồ tát là Lục độ: Bố thí, Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Thiền định, Trí huệ.

Bố thí tức là xả bỏ. Tất cả Phật pháp có thể tóm vào một chữ "Xả". Hạng trung hạ căn cần phải xả bỏ phi pháp mà nắm giữ Chánh pháp để thấy được Tự tánh Chân như. Đến khi thấy được Tự tánh Chân như thì ngay đến Chánh pháp cũng phải xả bỏ để nhập vào được Tự tánh.

Thực hành Bố thí hay xả bỏ gọi là phương tiện, cũng là công dụng của trí, cũng lại là tu nhân để đạt quả Đại giác.

Kinh Đại Tập chép: Điều phục được chúng sinh quy hướng Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác thì gọi là Phương tiện.

Phương tiện cũng lại có 2 thứ:

- Một là hiểu sâu lẽ Không mà chẳng chấp tướng thọ chứng.

- Hai là do lý Thật tướng thẳm sâu không ai tin nhận nổi nên phải dùng phương tiện dẫn dắt quần sanh khiến được giác ngộ dần dần.

Như Phẩm Thí dụ kinh Pháp Hoa dạy:

"Như Lai có vô lượng trí huệ, lực vô sở úy, các pháp tạng có thể ban cho hết thảy chúng sinh pháp Đại thừa nhưng chúng sinh chẳng nhận lãnh hết nổi.

Này Xá Lợi Phật! Bởi nhân duyên đó, phải biết rằng: chư Phật do sức phương tiện nơi Phật thừa phân biệt thành ba."

Lại nữa, trong Chú giải kinh Vô Lượng Thọ, lão cư sĩ Hoàng Niệm Tổ viết: "Hễ tâm dính mắc thì bị vật chuyển, thành ra bị phiền não trói buộc. Phàm phu chấp Có, Nhị thừa trệ Không, đều là bị đọa trong Tình chấp, đều là Tâm bị vật chuyển."

Bồ tát vượt trên hàng phàm phu, Nhị thừa, mang trọng trách giáo hóa chúng sinh, điều phục Nhị thừa nên tâm không được dính mắc.

Cũng lại do chẳng trụ nơi sắc thanh,.., pháp nên Bát phong chẳng thổi động tâm, do đó tâm được an trụ.

Một lần nữa, đức Thế Tôn xác nhận lại ý trên:

"Này Tu Bồ Đề! Vị Bồ tát phải nên bố thí như thế, chẳng trụ trước nơi tướng."

Lợi ích của sự không chấp trước nơi tướng:

Phật dạy: "Tại vì sao? Vì nếu vị Bồ tát không trụ trước nơi tướng mà bố thí thời phúc đức nhiều không thể suy lường.

-Tu Bồ Đề! Ý ông nghĩ sao? Có thể suy lường được cõi hư không ở phương Đông chăng?

- Bạch đức Thế Tôn, không thể suy lường được.

- Tu Bồ Đề! Có thể suy lường được cõi hư không ở phương: Nam, Tây Bắc cõi hư không ở bốn hướng cạnh và cõi hư không ở trên dưới chăng?

- Bạch đức Thế Tôn, không thể suy lường được.

- Tu Bồ Đề! Vị Bồ tát không trụ trước nơi tướng mà bố thí, thời phước đức cũng lại như thế, không thể suy lường được.

- Tu Bồ Đề! Vị Bồ tát chỉ phải nên đúng như lời Ta đã dạy đó mà trụ."

Đoạn trên đã nói, tất cả Phật pháp có thể tóm vào một chữ 'Xả', cũng nghĩa là 'Bố thí'. Nên Lục độ vạn hạnh trang nghiêm của Bồ tát cũng đều thu nhiếp vào hai chữ 'Bố thí'. Vị Bồ tát thực hành bố thí, tức là đang tu lục độ vạn hạnh.

Phàm phu Nhị thừa chấp Tướng bỏ quên Tánh, nên tâm thường trụ nơi lục trần, tức là Trái Giác Hợp Trần; đem nhân sinh diệt mà tu tâm nên vô thỉ kiếp chẳng đến được Phật quả. Nay vị Bồ tát Trái Trần Hợp Giác, dũng mãnh cầu quả vị Phật tất phải từ nơi Tâm không sanh diệt mà khởi tu, nghĩa là phải dũng mãnh lìa bỏ Tướng mà trở về Tánh.

Vậy nên vị Bồ tát không trụ trước nơi tướng mà bố thí chính là từ Tánh khởi Tu, toàn Tu nơi Tánh. Lấy Nhân không thể nghĩ bàn mà cầu Quả vị tối thắng không thể nghĩ bàn mới hợp lý Nhân Qủa, do đó sản sinh phước đức cũng không thể nghĩ bàn, không thể suy lường, quá số suy lường.

Phật dụ phước đức sinh ra khi vị Bồ tát từ Tánh khởi Tu như hư không. Hư không như không mà có, chẳng thể bảo là Không cũng chẳng thể chấp là Có.

Hư không không dính mắc lục trần, lục trần do gá nơi hư không mà hiện ảnh tượng. Nhưng hư không không hay biết, khác với Trí Vô thượng giác, hư không sinh ra trong Tự tánh cũng như mặt biển nổi lên một bọt nước vậy. Tự tánh chẳng phải hư không nên tự tánh chẳng dính mắc vào hư không, chỉ lấy hư không ví dụ cho phước đức mà thôi. Vì Tự tánh vốn tự trang nghiêm, đầy đủ tất cả vô lượng vô biên phước đức, nên từ Tự tánh mà sinh ra phước đức thì cũng như có như không, nhiều vô lượng chẳng thể suy lường.

Vậy muốn đạt quả vị Diệu giác, tiếp nối giống Phật, chư Bồ tát phải nên tu hành Lục độ chẳng dính mắc chẳng chấp trước khiến tự mình và tất cả chúng sinh đều được diệt độ, được an vui trong Vô dư Niết Bàn mà chẳng hề có tướng diệt độ.

Vì sao? Vì tướng Diệt độ đó chính là Không tướng, cũng lại là Thật tướng nên chẳng thể bám chấp vào tướng diệt độ đó.

Hòa thượng Thích Thanh Từ cũng nói: có thể tóm gọn toàn bộ kinh Kim Cang qua 4 phần đầu này, các phần sau của bản kinh là sự mở rộng và xác nhận nhận tư tưởng qua 2 câu hỏi làm thế nào hàng phục và trụ tâm của ngài Tu Bồ Đề mà thôi. Lại nói, xuyên suốt bộ kinh là hai tư tưởng nòng cốt:

1. Ưng vô sở trụ: nên không có chỗ trụ mà an trụ tâm, tức tâm không dính mắc, không chấp trước vào tướng hư vọng, pháp hư vọng; cũng là quả vị người tu tâm hướng đến là Thật tướng vô tướng, hay nói cách khác là nhập Tâm tánh Như Lai thường trụ.

2. Xả bỏ tướng nhân, ngã, chúng sinh, thọ giả:là phương tiện tu hành, là tu Nhân đạt Quả.

Với bậc thượng căn Nhân chính là Qủa, Qủa chính là Nhân, Nhân Qủa đồng thời chẳng sai biệt, thì ngay khi xả bỏ tướng nhân, ngã, chúng sinh, thọ giả thì đồng thời nhập vào nơi Ưng vô sở trụ; ngay khi trụ tâm nơi không chỗ trụ thì xả bỏ được 4 tướng: nhân, ngã, chúng sinh, thọ giả.

Nhưng đối với bậc trung hạ thì phải lần hồi từng bước từ Nhân đến Qủa, thi hành pháp Xả dần dần từ phi pháp đến chánh pháp, xả đến rốt ráo mới nhập được Tự tánh. Vì Chánh pháp như ngọn đuốc sáng dẫn dắt người tu hành đi trong đêm tối vô minh, như con thuyền vững chắc chở người tu vượt qua biển khổ sinh tử. Khi cập bến Chân như diệu tánh thường trụ sáng suốt tất phải bỏ đuốc, bỏ thuyền lại. Đấy là lẽ đương nhiên vậy.

Qua đó, ta có thể thấy kinh Kim cang là bộ kinh cô đọng toàn bộ giáo lý kinh điển Đại thừa, là Trí tuệ Bát Nhã như chất kim cương, năng đoạn tất cả trần cấu, chấp trước, chấp trước tướng cho đến chấp trước tri kiến, là Trí tuệ đưa thấu đến bờ bên kia, bờ giải thoát, giải thoát tri kiến.

Vì năng lực hèm kém, tâm trí si ám, xin được dừng tiểu luận tại đây. Vì lấy trí đóm mà suy xét ánh mặt trời, ếch đáy giếng mà bàn chuyện đất trời, ắt hẳn bài viết phạm phải nhiều sai sót không thể tha thứ. Ngưỡng mong chư Phật, chư đại Bồ tát từ bi gia hộ cho tâm phàm lời tục con mà thầm thông trí thánh, thầm hợp đạo mầu, được đúng như pháp, chẳng đến nỗi tạo tội vô lượng.

Nếu bài viết được chút công đức nào, xin nguyện hồi hướng cho hết thảy chúng sinh nương theo lời chân thật của đức Thích Ca, nương theo Đại nguyện đấng Đạo sư tiếp dẫn A Di Đà Phật phát khởi Tín Nguyện đồng sanh An Lạc quốc, đồng thành Phật đạo.

Nam mô Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật.

Nam mô A Di Đà Phật.

Đệ tử Pháp Đức kính viết.

Viết xong Xuân Giáp Ngọ 2014

Tiểu luậnKinh Kim Cang

A. Vị trí, căn cơ tiếp nhận kinh Kim Cang

Giáo pháp một đời Đấng Từ Phụ tám vạn bốn ngàn, nhằm độ tận chúng sinh, do căn cơ chúng sinh sai biệt mà 'chúng sinh đa bệnh, Phật pháp đa phương,' đều vì lòng Đại bi vô hạn trị dứt tâm bệnh mỗi mỗi chúng sinh rốt ráo đưa tất cả chúng sinh đồng chứng quả vị Diệu giác.

Ấn Quang đại sư nói: Thuốc không quý tiện, lành bệnh là thuốc hay; pháp không cao thấp, hợp cơ là Diệu pháp.

Lại như người mới ốm dậy thể trạng còn yếu phải ăn cháo loãng, phục các loại thuốc nhẹ, đến khi phủ tạng điều hòa mới ăn uống bồi bổ dùng các loại thuốc mạnh thì mói trị dứt gốc bệnh, chứ nếu dùng ngay các loại đại bổ nhân sâm, nhung hươu dược tính quá mạnh, bổ quý chưa thấy đâu, e chẳng toàn mạng.

Người tu cũng lại như vậy, phải tự mình quán xét căn cơ, lại cần hiểu được rành rẽ các pháp môn của Phật, hòng có thể lựa chọn pháp môn tu thích ứng căn cơ chẳng để lầm lạc, đó gọi là trí Trạch Pháp.

Thiên Thai đại sư dựa vào kinh Niết Bàn, chia cả đời giáo pháp Như Lai thành năm thời:

1. Trong 21 ngày đầu tiên, nói kinh Hoa Nghiêm, là thời Hoa Nghiêm.

2. Trong 12 năm kế tiếp, nơi vườn Lộc Dã,... giảng 4 kinh A Hàm cho căn cơ Tiểu thừa, gọi là thời A Hàm.

3. Trong 8 năm kế tiếp, nói các kinh Duy Ma, Đại Tập, Lăng Nghiêm, Vô Lượng Thọ,...chê bai Tiểu giáo, khen ngợi Đại thừa, cổ vũ Viên giáo. Nói rộng 4 giáo: Tạng, Thông, Biệt, Viên (Phương); bình đẳng (Đẳng) độ khắp các căn cơ nên gọi là thời Phương Đẳng.

4. Trong 12 năm tiếp nữa, nói các kinh Đại Bát Nhã, gọi là thời Bát Nhã. Kinh này ở thời Bát Nhã thứ 4.

5. Trong 8 năm sau cùng nói kinh Pháp Hoa, một ngày một đêm nói kinh Niết Bàn, cửu giới tam thừa đều được thọ ký, chẳng luận Đại Tiểu đều được thành Phật. Thời này gọi là thời Pháp Hoa- Niết Bàn.

Kinh Kim Cang thuộc về kinh Tối thượng thừa Đệ nhất nghĩa dành riêng cho các bậc Bồ tát, hay nói rộng ra là tất cả thiện nam tử, thiện nữ nhân nào dũng mãnh phát Đại tâm Vô thượng Chánh Đẳng giác quyết cầu quả vị Diệu giác tối thượng. Kinh chuyên luận về thể tánh các pháp, dẫn dắt Bồ tát ngộ nhập Thể tánh vạn pháp, hay còn gọi là Tánh Không; cũng gọi là ngộ nhập Tri Kiến Phật theo cách nói của kinh Pháp Hoa.

Tông Hiền Thủ phân định giáo pháp Như Lai như sau: "Thánh giáo muôn phần sai khác, nhưng chính yếu chỉ có 5 loại: Tiểu thừa giáo, Đại thừa Thỉ giáo, Chung giáo, Đốn giáo và Viên giáo.

1. Tiểu thừa giáo: Chỉ nói về Nhân Không, dù có nói đôi chút về Pháp Không cũng chưa được minh xác, do chưa tột cùng nguồn Pháp.

2. Đại thừa Thỉ giáo: thông từ Tiểu thừa lên đến Đại thừa, nhưng chưa dạy nghĩa lý: tất cả chúng sinh đều có Phật tánh, chưa hứa khả định tánh Xiển đề đều sẽ thành Phật, chưa bàn đến điểm cùng tột của Đại thừa nên gọi là Thỉ: Bắt đầu.

3. Chung giáo: Do Trung đạo diệu Hữu, định tánh Xiển đề đều sẽ thành Phật mới là nói đến chỗ cùng tột của Đại thừa; nên gọi là Chung: Cuối cùng,

4. Đốn giáo: Chỉ thuần nói về Chân tánh, một vọng niệm chẳng sanh gọi là Phật. Chẳng nương theo địa vị để nói thứ lớp, nên gọi là Đốn.

5. Viên giáo: Gộp chung cả 4 loại trên, viên mãn đầy đủ, giảng về vô tận pháp giới, tánh hải viên dung, duyên khởi vô ngại, một là hết thảy, hết thảy là một. Vì vậy thập tín mãn tâm chính là gồm trọn hết thảy địa vị, viên thành Chánh giác".

Ngũ giáo Chương chép: "Hoặc chia làm hai, tức là Tiệm và Đốn. Do trong 2 giáo Thỉ Chung, tất cả hạnh giải đều ở ngôn thuyết, địa vị có thứ lớp, nhân quả nương dựa vào nhau, từ nhỏ nhiệm đến phức tạp nên gọi chung là Tiệm.

Ngôn thuyết dứt tuyệt, lý tánh đốn hiển, giải hạnh đốn thành, một vọng niệm chẳng sanh chính là Phật ... thì gọi là Đốn."

Trong Pháp Bảo Đàn kinh, phẩm Định Huệ, Lục Tổ dạy chúng rằng: Thiện tri thức, CHÁNH GIÁO vốn chẳng đốn tiệm, tánh người tự có lợi độn, kẻ mê tiệm tu, người ngộ đốn khế. Ðốn tiệm chỉ là giả danh kiến lập mà thôi, nếu tự nhận được bổn tâm, tự thấy được bổn tánh thì chẳng sai biệt vậy.

Ba giáo đầu, tức là Tiểu giáo, Đại thừa Thỉ và Chung giáo đều bắt buộc phải nương nơi Pháp, ví như đang đi trên sông không thể bỏ thuyền vậy.

Đến khi chạm đến bờ bên kia, tức đến được Chân tánh thì phải bỏ thuyền:

Đó là ý ƯNG VÔ SỞ TRỤ, NHI SINH KỲ TÂM.

Như thế bộ kinh Kim Cang là bước chuyển căn cơ từ Tiệm sang Đốn.

Do vậy nên nói căn cơ hóa độ của kinh này là bậc Thượng căn của ba giáo sau (tức là Đại thừa chung giáo, Đốn và Viên giáo).

Hàng phàm phu, Nhị Thừa nếu cố tiếp nhận, suy diễn kinh này sẽ dễ chấp Không; không ta, không người, không Nhân quả mà tạo tội Phỉ báng Chánh Pháp.

Vì sao? Phàm phu, Nhị thừa chưa thấy Tánh vốn không thể tiếp nhận nổi Kinh này.Vì phàm phu Chấp Ngã và Pháp, Nhị thừa chấp Pháp còn nặng nề, vẫn còn phải nương theo pháp tu tập, tích lũy thiện căn mới có thể phá mây mù Vô minh thấy được Chân tánh.

Vì thế căn cơ tiếp nhận trong kinh Kim cang nói rõ phần nhiều là thuộc về thời kỳ Chánh pháp, Tượng pháp.

Như trong kinh Kim Cang, đức Phật bảo ngài Tu Bồ Đề: "Sau khi đức Như Lại diệt độ, năm trăm năm sau cuối (tức thời Chánh pháp cuối cùng) có người trì giới tu phước có thể sinh lòng tin nơi những câu trong kinh này mà cho đó là thật, thời phải biết rằng người ấy chẳng phải chỉ vun trồng căn lành nơi một Đức Phật, hai Đức Phật, ba bốn năm Đức Phật mà người đó đã vun trồng căn lành nơi vô lượng nghìn muôn Đức Phật rồi."

Bây giờ đang là thời Mạt pháp, cách Phật diệt độ đã hơn 2500 năm, phải chăng căn cơ chúng sinh không thể tiếp nhận nổi kinh này?

Kinh Niệm Phật Ba la mật, đức Thế Tôn dạy:

"Này Diệu-Nguyệt, Thâm Trọng Tâm nghĩa là đem tấm lòng sâu xa và cẩn trọng mà cảm mộ ân đức của Tam-Bảo, tưởng nhớ công lao của cha mẹ, thiện-tri-thức và của hết thảy chúng sanh.

Trong quá khứ vô lượng vô biên na-do-tha vi trần kiếp, chư Phật vì thương xót chúng sanh mà xả bỏ đầu, mắt, tay, chân, thân mạng, tài sản, quyến thuộc ... để tìm cầu Chánh pháp, tu Bồ-tát-đạo, giáo hóa muôn loài, làm cho ai nấy đều được lợi ích. Đời đời kiếp kiếp, chư Phật hằng theo dõi và thương tưởng đến mỗi một chúng sanh, luôn luôn tìm cách nhổ bật gốc rễ tham ái, đập tan gômg cùm sanh tử, làm khô cạn biển khổ vô minh, mãi phát tâm quảng đại, tâm kim cang, tâm vô phân biệt mà rọi sáng lối về cho mọi hữu tình. Vì thế mà người niệm Phật phải phát khởi cái tâm chí sâu xa và cẩn trọng để tưởng niệm, cảm mộ ân đức ấy.

Nhưng chư Phật muốn tế độ tất cả chúng sanh, thì cũng phải lấy Chánh pháp làm phương thuốc hữu hiệu trị dứt những bịnh tham ái, dùng Chánh pháp làm thuyền bè đưa chúng sanh qua đến bờ giác ngộ, dùng Chánh pháp làm tuệ kiếm chặt đứt mọi trăng trói phiền não, làm ngọn đuốc dẫn dắt ra khỏi đêm dài vô minh, làm chất đề hồ chữa lành mọi thứ sanh, già, bịnh, chết, ưu, bi, khổ, não, dùng Chánh pháp làm đôi mắt cho chúng sanh nhìn rõ Thật Tướng.

Người Niệm Phật phải biết cảm mộ ân đức cao dày của Chánh Pháp, phải luôn luôn báo đáp ân đức ấy bằng cách đọc tụng kinh điển Đại thừa và giảng nói cho kẻ khác, khuyên bảo mọi người quy y, bố thí trì giới, thiền định. Khiến sao cho Chánh Pháp được lưu hành rộng rãi khắp nhân gian, ai nấy đều được hưởng dụng cam lồ vị."

Đó là pháp Niệm Phật quá khứ.

Lại nữa, Kinh Lăng Nghiêm, chương Đại Thế Chí niệm Phật Viên thông, Bồ tát Đại Thế Chí có dạy: Nếu tâm chúng sinh nhớ Phật, tưởng Phật, thì hiện nay hay về sau nhất định thấy Phật, cách Phật không xa.

Đó là pháp Niệm Phật hiện tại.

Kinh Kim Cang cũng nói: Chẳng phải do nơi ba mươi hai tướng hảo mà thấy được Như Lai.

Nếu trong thời kỳ Mạt pháp này có người nào khởi lên tư duy thế này: Tất cả mọi chúng sinh ta thấy bây giờ đều là Phật sẽ thành, mọi người đều là Phật, Bồ tát thị hiện đến ngay cả kẻ trộm, dâm nữ, kẻ sát nhân cũng là các Đại Bồ tát thị hiện nghịch hạnh hóa độ chúng sinh. Vì sao? Vì chư Phật, chư Bồ tát hay làm được việc khó làm. Cũng là thị hiện lý nhân quả tương tục dung thông ba đời nên bày ra vậy.

Đối với tất cả chúng sinh, chẳng dám khởi tâm khinh thường kiêu mạn. Đó cũng là hạnh Bồ tát Thường Bất Khinh. Cũng là hạnh đầu tiên trong 10 đại nguyện vương của Phổ hiền Bồ tát: Lễ kính chư Phật.

Đó gọi là pháp Niệm Phật tương lai.

Như thế người đó là người thường thấy Phật, thường được Phật hộ niệm, người ấy ở gần Phật nên người ấy đang trong thời Chánh pháp, chẳng phải ở thời Mạt pháp này. Người ấy là đương cơ tiếp nhận kinh Kim Cang.

Như con sâu bướm, nó hàng ngày tích lũy năng lượng, đến một lúc nào đó từ từ biến thành cái kén rồi chuyển hóa thành Bướm, bay lượn tự tại. Chẳng phải sâu nào cũng có thể chuyển hóa thành bướm mà phải là sâu bướm.

Cũng vậy, mọi chúng sinh bổn lai là Phật, chỉ vì một niệm bất giác bỏ quên Chân tánh, trái giác hiệp trần mà trôi lăn lục đạo luân hồi không có ngày ra. Kinh Pháp Hoa dụ là Cùng tử, vì rằng chẳng có đủ công đức nuôi dưỡng Pháp thân huệ mạng vậy. Nay quyết tâm trái trần hiệp lại giác, dũng mãnh tu tập tích công lũy đức, thấy được Chân tánh, nhất định thành Phật.

Lục vị Tổ sư Thiền tông Trung Hoa thường khuyên người tu đọc tụng kinh Kim Cang để nhận được Chân tánh.

B. Tiểu luận kinh Kim Cang

1. Pháp hội nhân do

Mở đầu kinh Kim Cang tả lại việc hàng ngày của Phật:

"Một hôm, tại nước Xá Vệ, Phật và 1250 vị Ðại Tỳ Kheo, đều ở Tinh xá Kỳ Hoàn, trong vườn của Thái tử Kỳ Ðà và ông Trưởng giả Cấp Cô Ðộc.

Sắp đến giờ ngọ trai, Phật và chúng tăng đều đắp y, mang bình bát vào thành Xá Vệ, theo thứ lớp khất thực. Khất thực xong, Phật và chúng tăng đồng về Tinh xá để thọ trai. Sau khi thọ trai xong, Phật xếp y, cất bình bát và rửa chân, rồi trải tọa cụ, ngồi yên tịnh."

Kinh Kim Cang là bộ kinh hàm chứa giáo lý cao siêu của Phật pháp nhưng mở đầu bằng những hoạt động giản dị thường nhật của đức Phật, hàm ý cho chúng ta thấy mọi sự mọi việc trong cuộc sống này không đâu chẳng phải là Phật pháp.

Cũng lại mang ý nghĩa, nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân nào trong từng công việc bình thường hàng ngày hằng sanh tâm tưởng Phật, người đó thật đang thọ trì kinh Kim Cang vậy

Nên nhà Thiền có câu: Tâm bình thường là Đạo.

2. Trưởng lão Tu Bồ Đề bạch Phật:

Thông thường mỗi bộ kinh đức Phật thuyết đều có duyên khởi.

Người duyên khởi kinh này là Trưởng lão Tu Bồ Đề, là 1 trong 10 Đại đệ tử của đức Thế Tôn, được xưng tán là "Giải Không đệ nhất", là đương cơ tiếp nhận Lý Bát Nhã của kinh.

Trong kinh Thủ Lăng Nghiêm, ngài Tu Bồ Đề tự thuật: "Từ nhiều kiếp đến nay, tâm con được vô ngại, lúc còn trong thai mẹ cũng liền biết tính Không tịch, như thế cho đến mười phương thế giới đều thành rỗng không và cũng khiến chúng sinh chứng được tính Không".

Lại nữa, sau 3 tháng lên cung trời Đao Lợi thuyết pháp báo ân cho Thánh Mẫu Maha Maya (mẹ ruột đức Thế Tôn), đức Phật trở lại nhân gian. Về đến cổng làng có đại đức Mục Kiền Liên, sư cô Uppalavannà là hai đệ tử thần thông đệ nhất đến trước, đại đức Xá Lợi Phất và đông đảo các vị khất sĩ khác đến sau đón tiếp Phật.

Sư cô Uppalavannà vui mừng bước đến đảnh lễ Phật và nói :

Bạch Thế Tôn, đệ tử là Uppalavannà, người đầu tiên đến nghênh đón Thế Tôn, xin Thế Tôn chứng minh cho.

Đức Phật mỉm cười nói :

Này Uppalavannà, người nghênh đón Như Lai trước nhất chẳng phải là sư cô đâu.

Uppalavannà lấy làm lạ hỏi :

Bạch Thế Tôn, nếu chẳng phải con vậy là ai ?

Đức Phật nhìn các đệ tử, ôn tồn nói :

Cám ơn quý vị khất sĩ đã từ xa xôi đến đây tiếp đón Như Lai, nhưng người gặp Như Lai trước nhất chính là Tu Bồ Đề. Thầy Tu Bồ Đề hiện đang quán Tánh Không của các pháp và thực hành Tâm Không trong hang núi ở Griddhakùta, do đó Tu Bồ Đề mới là người thấy Phật trước nhất.

Vì những lý do trên, ngài Tu Bồ Đề là đương cơ duyên khởi kinh, lưu thông kinh này.

Câu đầu tiên ngài xưng tán Như Lai: "Hy hữu thay, Thế Tôn. Đức Như Lai khéo hay hộ niệm các vị Bồ tát, khéo hay phó chúc các vị Bồ tát".

Thế nào là "Hy hữu thay, Thế tôn"? Vì rằng, được thân người là khó như con rùa mù gặp bộng cây nổi, gặp được Phật ra đời còn khó hơn muôn lần. Gặp Phật đã khó, lại còn được tin, nghe Chánh Pháp khó thêm muôn lần nữa. Được nghe Chánh pháp đã rất hiếm có, làm thế nào để nương theo Chánh pháp tu tập đạt lợi ích chân thật lại khó trăm ngàn lần nữa. Vì sao? Vì giáo pháp của Phật thậm thâm vi diệu, bao la rộng lớn như hư không khó có chỗ lần dò.

Lại nữa, Phật ra đời như hoa Ưu đàm thoáng hiện, nên gọi là Phật bảo. Lời của Phật là lời chân thật, không hư dối, là chân lý luôn đem lại lợi ích an lạc cho tất cả chúng sinh nên gọi là Pháp Bảo. Chư tăng là bậc dũng mãnh lìa bỏ tất cả gia tài, địa vị, quyến thuộc cầu Pháp Bảo đem hương vị giải thoát mọi khổ đau đến với chính mình và muôn loài nên gọi là Tăng bảo. Nói gộp lại gọi là Tam Bảo, quý báu hiếm có nên gọi là Hy hữu.

"Thế Tôn" chỉ đức Thích Ca Mâu Ni Phật, Phật là đấng Tôn quý nhất thế gian nên gọi là Thế Tôn. Lại nữa, Phật đủ tất cả các đức tốt, được đời tôn trọng nên hiệu là Thế Tôn.

Nên ngài Tu Bồ Đề mới cảm khái vậy.

Thế nào là Như Lai khéo hay hộ niệm các vị Bồ tát, khéo hay phó chúc các vị Bồ tát?

Khi đức Phật thuyết kinh này đã ở thời kỳ thứ 4. Qua 2 thời A Hàm và Phương Đẳng đức Phật đã thiết lập căn cơ Đại, Tiểu vững vàng. Giới luật Bồ tát đã hoàn bị.

Thế nào là Bồ tát? Bồ tát vốn là chữ Phạn nói tắt của chữ 'Maha Bồ đề Chất đế tát đỏa'. Maha dịch là Đại, Bồ đề dịch là Đạo, cũng dịch là Giác, Chất đế dịch là Tâm, Tát đỏa dịch là Chúng sinh hay Hữu tình; nói gọn thì là Bồ đề Tát đỏa, dịch lối cũ là Đại Đạo Tâm Chúng sinh, dịch theo lối hiện nay là Giác Hữu Tình.

Sách Di Đà sớ sao của Tổ Liên Trì viết:

"Giác hữu tình là: Đồng chứng chỗ Phật chứng thì gọi là Giác, nhưng vô minh chưa hết gọi là Hữu tình.

Lại có 3 nghĩa là:

1. Giác là chỗ tu đạo Phật, tình là chỗ độ các chúng sinh. Nghĩa là trên dùng trí cầu Phật quả, dưới dùng lòng bi cứu độ chúng sinh.

2. Giác là cái quả sở cầu, Hữu tình là người năng cầu. Nghĩa là lấy tâm mình mà cầu ngộ lý Phật

3. Nghĩa lợi sanh: phát tâm rộng giác ngộ tất cả chúng sinh hữu tình. Ngài A Nan nói: Tự mình chưa được độ, trước đã lo độ người, ấy là chỗ phát tâm Bồ tát vậy."

Vì Bồ tát là người phát nguyện tự độ mình để độ tất cả chúng sinh, tiếp nối dòng giống Bồ đề Phật, gánh vác trách nhiệm lợi sanh vĩ đại của Phật nên luôn được chư Phật hộ niệm.

Thế nào là hộ niệm? Hộ là bảo hộ, chở che; niệm là luôn nhớ nghĩ đến chẳng hề quên sót. Sao kinh này lại đặc biệt nhắc đến sự hộ niệm của chư Phật đối với Bồ tát?

Vì thời Phương Đẳng đức Phật đã thành lập căn cơ vững chắc cho Bồ tát thông qua hệ thống kinh điển Đại thừa. Chư Bồ tát sơ phát tâm nương theo giáo lý đã xây dựng tín căn vững vàng, đã có tư lương đầy đủ lợi ích quần sanh. Nay đến thời kỳ trí Bát Nhã, lại phải biết lìa văn tự, ngôn ngữ thâm nhập Tánh Không vạn pháp, được trí vô ngại để cứu độ chúng sinh không hạn lượng.

Như người ngồi trên thuyền đang được an ổn nay bảo bỏ thuyền lên bờ không khỏi bỡ ngỡ, nên chư Phật mới nói: Đã đến bờ bên kia rồi! Hãy dũng cảm rời thuyền mà lên bờ, đừng sợ, ta luôn ở bên cạnh che chở, động viên.

Lại như cha mẹ dạy con tập đi. Ban đầu phải trườn, bò, ngồi rồi mới đến lúc bám vào xe đẩy mà đi.

Sau khi đã thấy con cứng cáp vững vàng, cha mẹ mới bỏ tay ra để con tự bước đi những bước đi chập chững đầu tiên trong cuộc đời. Cha mẹ mới động viên rằng: "Con yêu, hãy yên tâm cha mẹ luôn ở bên cạnh nâng đỡ, đừng có sợ hãi."

Nếu chẳng có cha mẹ bên cạnh, con bé sẽ chẳng dám bước đi.

Cũng thế, nếu không có chư Phật luôn khéo hộ niệm, Bồ tát chẳng thể dám rời bỏ Pháp mà có thể trụ Tâm nơi Vô trụ.

Thế nào là phó chúc?

Phó là giao phó, đề nghị, giao cho nhiệm vụ, trách nhiệm; chúc là di chúc, chuyển giao gia tài, địa vị.

Trong đạo Phật thì Phó chúc có nghĩa là sự giao phó trọng trách truyền bá giáo pháp của đức Phật cho đệ tử, là sự thọ ký cho chư Bồ tát sẽ tiếp nối dòng giống Bồ đề, tiếp nối địa vị Thiên Nhân Sư, viên thành Phật đạo.

Chánh kinh: Bạch đức Thế Tôn, thiện nam tử, thiện nữ nhân phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác thời phải trụ tâm như thế nào, nên hàng phục tâm như thế nào?

Chánh Đẳng: Đẳng là bình đẳng, Chánh Đẳng là cái thấy biết rốt ráo bình đẳng mọi vật mọi loài khắp pháp giới, cũng là Vô Sai Biệt Trí của Phật.

Chánh Giác: là thấy biết mọi sự mọi vật đúng như Thật, còn gọi là Diệu quán sát Trí của Phật, lại thấy biết vạn pháp chẳng thể sở hữu nên cũng là Vô sở Hữu Trí.

Như vậyVô thượng Chánh Đẳng Chánh Giác gồm đủ 4 trí: Vô sai biệt trí, Diệu quán sát trí, Vô sở hữu trí và Đại viên kính Trí.

Lại nữa, Chánh Đẳng Chánh Giác nói gọn là Đẳng Giác là địa vị cùng tột của hàng Bồ tát, nên Vô thượng Chánh Đẳng Chánh Giác chính là quả vị Diệu Giác, giác viên mãn.

Khi còn Vô minh thì còn Tình, hết sạch Vô minh Tình chuyển thành Trí.

Vậy thời muốn đạt quả đức siêu việt tối thượng, ngài Tu Bồ Đề hỏi Phật chỉ dạy phải gieo nhân, chăm sóc vun bồi như thế nào là đúng pháp?

Chánh kinh:"Hay thay, hay thay! Này Tu Bồ Đề. Đúng như lời của ông vừa nói. Đức Như Lai khéo hay hộ niệm các vị Bồ tát, khéo hay phó chúc cho các vị Bồ tát."

Chư Phật xuất thế chẳng ngoài một Đại sự Nhân duyên, đó là thuyết pháp độ sanh khiến tất cả chúng sinh lìa khổ được vui, đồng chứng chỗ Phật chứng. Nay ngài Tu Bồ Đề lại thưa thỉnh làm thế nào để chúng sinh phát Đại tâm Bồ Đề Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, cầu quả vị Phật thật đúng với Bản hoài chư Phật, nên Phật vui sướng mà khen "Hay thay"đến hai lần.

Sau đó, đức Thế tôn xác nhận lại lời của ngài Tu Bồ Đề về sự lưu tâm đặc biệt của Phật đối với chư Bồ tát.

Đức Thế Tôn hứa khả sẽ vì ông thuyết pháp chỉ dạy:

"Nay ông nên lắng nghe. Ta sẽ vì ông mà nói. Trang thiện nam, người thiện nữ phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác phải trụ tâm như thế này, phải hàng phục tâm mình như thế này."

Ngài Tu Bồ Đề thưa: "Vâng, bạch Thế Tôn! Con xin vui thích muốn nghe."

Vì pháp Phật thuyết là quý báu, lời Phật nói là dòng nước cam lồ dập tắt tất cả ngọn lửa khổ đau thiêu đốt chúng sinh. Ngài là bậc Đại Tỳ kheo xả bỏ mọi sở hữu mà đi tìm nguồn nước Pháp nuôi dưỡng Pháp thân huệ mạng, bằng tất cả sự hân ngưỡng tôn kính, bằng tất cả trí tuệ sáng suốt ngài biết được giá trị chân thật nơi Pháp Phật, nên ngài vui thích muốn nghe.

3. Đại thừa Chánh tông

Đức Thế Tôn dạy tiếp rằng:"Các vị đại Bồ tát phải hàng phục tâm mình thế này: Bao nhiêu những loài chúng sinh, hoặc loài noãn sinh, hoặc loài thai sinh, hoặc loài thấp sinh, hoặc loài hóa sinh, hoặc loài có hình sắc, hoặc loài không hình sắc, hoặc loài có tư tưởng, hoặc loài không có tư tưởng, hoặc loài chẳng phải có tư tưởng cũng chẳng phải không có tư tưởng, thời ta đều diệt độ mà làm cho vào nơi Vô dư Niết Bàn. "

Vì sao ban đầu phải hàng phục tâm? Vì tâm chúng sinh như loài khỉ vượn luôn phan duyên theo lục trần: sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp bên ngoài; niệm niệm chưa từng dừng nghỉ. Vì vậy bước đầu phải hàng phục nó, cho nó vào giới luật rồi mới có thể an trụ được.

Khi xưa, thiền sư Ngưỡng Sơn đi đến chỗ thiền sư Trung Ấp hỏi đạo:

- Bạch Hòa thượng, thế nào là Phật tánh.

- Ta nói cho ông một ví dụ, nếu khéo ông sẽ nhận ra. Như một con khỉ nhốt trong cái lồng sáu cửa, bên ngoài có con khỉ khác đứng kêu chóe chóe. Con khỉ bên trong đáp lại chóe, chóe.

Ngài Ngưỡng Sơn liền thưa:

- Nếu con khỉ bên trong ngủ thì sao?

Ngài Trung Ấp từ trên tòa bước xuống nắm vai ngài Ngưỡng Sơn nói:

- Chúng ta thấy nhau rồi.

Đó là lý do vì sao trước hết phải hàng phục tâm.

Như đức Thế tôn đã dạy trong kinh Lăng Nghiêm, muốn hàng phục được nó phải xét kỹ cội gốc lục trần nó phan duyên hư vọng điên đảo như thế nào?

Kinh Lăng Nghiêm đức Thế Tôn dạy :

"Các ông quyết muốn phát tâm Bồ Đề, nơi thừa Bồ tát, sinh lòng đại dũng mãnh, quyết định rời bỏ các tướng hữu vi, thì nên xét rõ cội gốc phiền não, những cái vô minh phát nghiệp và nhuận sinh vô thỉ đó, là ai làm ai chịu? A Nan, ông tu đạo Bồ Đề, nếu không suy xét cội gốc phiền não, thì không thể biết những căn trần hư vọng, có điên đảo ở chỗ nào; chỗ điên đảo còn không biết, thì làm sao uốn dẹp được nó và chứng quả Như Lai?”

Phật dạy: Chúng sinh bổn lai là Phật, vì một niệm bất giác nổi lên ngăn cách Lý Tánh mà trôi lăn lục đạo, khởi hoặc tạo nghiệp không có ngày ra. Kinh Lăng Nghiêm gọi Tánh đó là Chân Như diệu Tánh, mọi chúng sinh vốn đầy đủ. Chân như diệu Tánh này thường Biết, hay sinh các pháp, do một niệm bất giác, tách rời cái Biết khỏi Diệu tánh, thành cái Năng tri, rồi chấp cái Biết dính vào các pháp tạo nên cái bị biết, gọi là Sở tri. Năng Tri, Sở Tri đã thành lập thì vốn trong Chân tánh chẳng có cái đồng và khác thoạt nổi lên như có đồng, có khác; rồi quay trở lại lập ra cái không đồng không khác, rối loạn như vậy phát sinh ra trần tướng, phiền não. Nổi lên thì thành thế giới, lặng xuống thì là hư không... Cái đồng nghiệp ràng buộc lẫn nhau mà hợp, mà ly, mà thành, mà hóa. Chấp vào cái thấy thì sắc tướng phát ra, nhận rõ nơi sự thấy thành ra tư tưởng yêu ghét nảy sinh. Lan cái yêu thì thành hạt giống, thu nạp tưởng niệm thì thành cái thai, mà có thai sinh, noãn sinh, thấp sinh và hóa sinh. Noãn sinh do tưởng niệm mà sinh, thai sinh do ái tình mà có, thấp sinh do cơ cảm mà hợp lại còn hóa sinh do phân ly mà ứng hiện. Khi tình khi tưởng khi hợp khi ly thay đổi lẫn nhau, do nhân duyên ấy chúng sinh tiếp tục.

Lại do vọng niệm tương tục nối nhau không dứt mà biến hiện đủ loại hình tướng, sắc thân thọ mạng, ẩm thực quyến thuộc để hưởng dụng trong các cảnh giới sai biệt.

Như vậy nguyên nhân chính yếu của vô minh, phiền não là TÁCH RỜI CÁI HAY BIẾT KHỎI CHÂN NHƯ DIỆU TÁNH, QUÊN MẤT TỰ TÁNH.

Vậy nên trong kinh Kim Cang, đức Phật nhấn mạnh ý nghĩa hai chữ Diệt độ:

Diệt là tiêu dung, diệt mọi chấp trước nơi huyễn tướng, nơi pháp sinh diệt giả dối.

Độ là độ thoát, giải thoát mọi trói buộc, vượt dòng sinh tử mà trở về với Chân tánh, tức là Vô dư Niết bàn. Tự tánh chính là Vô dư Niết bàn vì Tự tánh thường vắng lặng, thanh tịnh, thường đầy đủ.

Vậy diệt độ là tiêu dung Huyễn Tướng về Tự tánh. Là sự dung hợp Tướng vào Tánh, Tánh và Tướng không hai, trả tướng về Tánh.

Vì sao? Vì phàm phu, Nhị thừa chấp Tướng, tâm trụ nơi Tướng trôi lăn theo phù trần mà bỏ quên Tánh.

Nên nói phải lìa Tướng mới nhận được Tánh. Thế nào là Lìa?

Kinh Viên giác dạy: TRI HUYỄN TỨC LY, LY HUYỄN TỨC GIÁC.

Biết tướng chính là huyễn tướng, chẳng phải thật tướng; chẳng thể nắm bắt tức là Lìa. Lìa được huyễn tướng thì thấy Tánh tức giác ngộ được Chân tướng.

Lại nữa, Niết Bàn, dịch theo lối cũ chính là Diệt Độ, dịch theo lối mới là Viên Tịch.

Diệt Độ là diệt tất cả dòng lũ sinh tử. Kinh Niết Bàn dạy: Diệt tất cả phiền não gọi là Niết Bàn. Lìa các Hữu lậu cũng gọi là Niết Bàn.

Sách Tâm Kinh lược sớ của ngài Hiền Thủ chép: Niết Bàn, dịch là Viên Tịch, ý nói: không đức gì chẳng đủ nên bảo là Viên, không chướng nào chẳng tận nên bảo là Tịch.

Kinh Duy Ma Cật, ngài Duy Ma Cật bảo Bồ tát Di Lặc: "Tất cả chúng sinh đều là Chân như, tất cả pháp cũng là Chân như, tất cả hiền thánh cũng là như cho đến nhân giả cũng là như. Nếu nhân giả được thọ ký, tất cả chúng sinh lẽ ra cũng được thọ ký. Vì sao vậy? Vì đã là Chân như thì chẳng hai chẳng khác. Nếu nhân giả đắc quả Vô thượng Bồ đề tất cả chúng sinh lẽ ra cũng đều đắc quả. Tại sao vậy? Vì tất cả chúng sinh là tướng Bồ đề. Nếu nhân giả được diệt độ, tất cả chúng sinh lẽ ra cũng sẽ được diệt độ. Tại sao vậy? Chư Phật biết rằng tất cả chúng sinh triệt để diệt độ, tức là tướng Niết Bàn, chẳng còn sự diệt độ nào khác nữa".

Chánh kinh: Diệt độ vô lượng vô số vô biên chúng sinh như thế mà thật không có chúng sinh nào được diệt độ.

Vì rằng tướng tất cả chúng sinh đều là huyễn hóa, như có như không, nay tiêu dung tất cả trở về Tự tánh, lìa hết Năng Sở đối đãi nên vốn thật chẳng hề có chúng sinh nào được độ. Như tấm gương chiếu sum la vạn tượng mà thật chẳng có cái gì thuộc về nơi tấm gương. Lại nữa, phát tâm cứu độ chúng sinh của Bồ tát thuộc về Sự, về Lý thì vạn pháp Tánh Không vốn thật chẳng có chúng sinh nào được độ. Vì chỗ phát tâm cầu quả đức Viên mãn nên chỗ gia công dụng hạnh cũng phải cân xứng, Lý Sự viên dung, chẳng thể thiên lệch.

Lại nữa, nói:" Diệt độ vô lượng vô số vô biên chúng sinh" là Quyền, đến được chỗ "Thật không có chúng sinh nào được diệt độ" là Thật; thiện nam tử, thiện nữ nhân nào cầu quả vị Vô thượng cần phải trọn vẹn 2 đức Quyền Thật này.

Cụ Nguyễn Du xưa cũng đã qua bao nhiêu trải nghiệm thăng trầm của thế sự, nhưng mãi tới khi về lại với chính mình mới tìm được Chân Kinh:

Ngã độc Kim Cang thiên biến linh...

Kim Cang vô tự thị Chân Kinh.

(Nghìn lần ta đọc Kim Cang...

Kim Cang thật nghĩa là trang không lời.)

Nếu cứ mãi chỉ bàn nơi Thật Nghĩa thì Thật nghĩa vốn dứt tuyệt nói năng, văn tự, chỉ bày; như thế sự hóa độ chúng sinh sẽ tuyệt, sự truyền thừa giáo pháp Như Lai sẽ dứt.

Chánh kinh: Tại sao vậy? Nếu vị Bồ tát còn có tướng ngã, tướng nhân tướng chúng sinh tướng thọ giả thời chẳng phải là Bồ tát.

Bồ tát là vị gánh vác trọng trách Giác hữu tình, khiến cho tất cả chúng sinh được giác ngộ mà ngay giác ngộ cái gì mình còn mê mờ làm sao giác ngộ chúng sinh? Nên nói người đó chẳng phải Bồ tát.

Kinh Duy Ma, ngài Duy Ma Cật dạy: Nhân có cái Ta mà khởi ra 2 pháp: đó là pháp trong và pháp ngoài.

Pháp trong chấp có thân và tâm trong thân.

Pháp ngoài chấp có cảnh và chúng sinh ngoài tâm.

Như vậy gốc từ chấp ngã mà sinh ra tướng ngã, tướng nhân, tướng chúng sinh, tướng thọ giả. Do vậy các tướng đều là giả tướng, không thật như hoa đốm trong hư không.

Muốn dứt 4 tướng phải làm thế nào?

Ngài dạy: Chẳng nhớ nghĩ pháp trong và pháp ngoài thi hành lẽ bình đẳng. Thế nào là bình đẳng? Đó thi hành là cái Ta và Niết bàn (cũng gọi Diệt độ, cũng gọi là Tự tánh) bình đẳng, cũng là huân tập cái Trí Vô sai biệt của Phật vậy. Vì sao? Vì cái Ta và Niết bàn đều chỉ là Danh tự, mà Danh tự vốn là Không, tánh của văn tự là Lìa.

Lại nữa, kinh Duy Ma có bài kệ:

Trí độ là mẹ Bồ tát

Tùy nghi phương tiện là cha

Chúng tăng là thầy hướng dẫn

Bồ tát do đó sinh ra

.......

Tuy biết rằng các nước Phật

Với chúng sinh đều là Không

Nhưng thường tu tập môn Tịnh độ

Siêng giáo hóa khắp chúng sinh.

Cái biết "thật không có chúng sinh nào" chính là Trí Bát Nhã, biết như thế mà thường tùy nghi cứu độ, chẳng bỏ rơi chúng sinh, đó gọi là Phương tiện, như thế mới được gọi là Bồ tát.

Tóm lại đoạn kinh này, đức Như Lai dạy chư Bồ tát phải thấy biết đúng như thật, thấy được Chân tướng vũ trụ nhân sinh mà khởi tu, đó gọi là Toàn Tánh khởi tu, khởi tu chẳng lìa Tự tánh; như thế mới có thể đạt đến quả vị giác ngộ viên mãn.

4. Diệu hạnh Vô trụ

Thấy biết như thế, tâm thời được an ổn nên tiếp đến Phật dạy cách an trụ tâm.

Chánh kinh: Tu Bồ Đề! Lại nữa, vị Bồ tát , đúng nơi pháp, phải nên không có chỗ trụ trước mà làm việc Bố thí. Nghĩa là không trụ trước nơi hình sắc mà làm việc bố thí, không trụ trước nơi thanh, hương, vị, xúc, pháp mà làm việc bố thí.

Thế nào là "nên đúng như pháp mà không có chỗ trụ trước"?

Đức Thế tôn thường nói kệ:

Tất cả pháp hữu vi

Như mộng huyễn, cũng như sương

Như bọt nước, ảnh tượng

Nên thường xét suy như thế

Trí Độ Luận cũng nói: "Quán các pháp Không, gọi là Không. Trong cái Không ấy chẳng thể giữ lấy Tướng. Ngay khi ấy chuyển được cái Không nên gọi là Vô tướng."

Đó gọi là cái trí nhận biết đúng nơi pháp.

Chúng sinh làm bất cứ việc gì đều móng tâm khởi niệm, do đó tâm thường trụ nơi nào đó.

Trụ nghĩa là đứng cố định, dính mắc nơi nào đó, nên cũng gọi là chấp trước.

Phật dạy "trụ tâm", vì rằng tâm chúng sinh luôn dính mắc chấp, nếu bảo chẳng trụ tâm thì chúng sinh chẳng làm được, đó là Quyền nói đối với chúng sinh. Lại vì các pháp vốn Không, không có tự tánh, vốn thật chẳng thể trụ nơi đâu, đó là Thật trí.

"Đúng như pháp, phải nên trụ nơi không có chỗ trụ trước" : một câu nêu đủ Quyền, Thật trí, nên cũng gọi là Viên mãn trí.

Vì rằng lục trần: sắc, thanh, hương vị xúc pháp, là pháp sinh diệt biến đổi từng sát na. Nếu trụ trước nơi lục trần, thì tâm ấy là tâm sanh diệt.

Hội Lăng Nghiêm, đức Thế tôn đã từng dạy 2 nghĩa quyết định trước khi phát tâm cầu quả vị Vô thượng là: Nên xét kỹ chỗ phát tâm trong lúc tu nhân với chỗ giác ngộ trong lúc chứng quả là đồng hay khác? A Nan, nếu trong lúc tu nhân, đem cái tâm sinh diệt, để cầu cho được cái quả bất sinh bất diệt của Phật thừa thì thật không thể được.

Phật dụ như nấu cát mà muốn thành cơm, trải qua muôn ức kiếp cũng chỉ la cát nóng, chẳng thể thành cơm.

Đến đây, ngài A Nan nghi rằng: cái thấy chẳng ngoài sáng tối, cái nghe chẳng ngoài động tĩnh vốn không có tự thể, như cái tâm niệm rời tiền trần ra vốn không có gì, rốt ráo đoạn diệt, vậy lấy cái gì làm nhân để tu được quả thường trụ Như Lai; rốt cuộc trở thành hý luận, làm sao tin nhận lời Như Lai là chân thật?

Ngài A Nan khởi nghi như vậy cũng là do tùy theo căn cơ mọi chúng sinh, tâm luôn trụ nơi lục trần, cái thấy luôn ở sắc, cái nghe luôn ở thanh, cái ngửi luôn ở hương, cái nếm luôn ở vị, cái thân luôn ở cảm xúc, cái ý luôn trụ nơi pháp trần, nói tóm lại là lục căn luôn trụ nơi lục trần nên chẳng nhận hiểu nổi lời Phật dạy.

Nên Phật dạy tiếp: do người tu chỉ biết suông cái nhân điên đảo trong tâm mà cái nhân điên đảo hiện tiền lại không biết. Đó là vì thường quên mất Tự tánh thường trụ, tách rời Pháp khởi Tánh, do đó mê lầm cái tiếng với cái nghe, cái sắc với cái thấy, lộn lạo ngọn thành gốc, đem bản tâm thường trụ Như Lai theo sắc thanh mà thành tâm sinh diệt.

Nếu biết bỏ cái sinh diệt, giữ tính Chân thường, cái sáng suốt chân thường hiện tiền thì các tâm niệm căn trần thức liền tiêu; tướng vọng tưởng là trần, tính phân biệt là cấu, xa rồi hai cái đó thì thành được đạo Vô thượng giác.

Nhắc lại truyện xưa, Lục Tổ Huệ Năng vừa nghe Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn giang kinh Kim Cang đến câu "Ưng vô sở trụ" liền đại ngộ, ngay đó ngài thấy được Chân tánh thường trụ, vạn pháp chẳng lìa Tự tánh mà đọc bài kệ:

Ðâu ngờ tự tánh vốn tự thanh tịnh,

Ðâu ngờ tự tánh vốn chẳng sanh diệt,

Ðâu ngờ tự tánh vốn tự đầy đủ,

Ðâu ngờ tự tánh vốn chẳng lay động,

Ðâu ngờ tự tánh hay sanh vạn pháp!

Pháp tu của chư Bồ tát là Lục độ: Bố thí, Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Thiền định, Trí huệ.

Bố thí tức là xả bỏ. Tất cả Phật pháp có thể tóm vào một chữ "Xả". Hạng trung hạ căn cần phải xả bỏ phi pháp mà nắm giữ Chánh pháp để thấy được Tự tánh Chân như. Đến khi thấy được Tự tánh Chân như thì ngay đến Chánh pháp cũng phải xả bỏ để nhập vào được Tự tánh.

Thực hành Bố thí hay xả bỏ gọi là phương tiện, cũng là công dụng của trí, cũng lại là tu nhân để đạt quả Đại giác.

Kinh Đại Tập chép: Điều phục được chúng sinh quy hướng Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác thì gọi là Phương tiện.

Phương tiện cũng lại có 2 thứ:

- Một là hiểu sâu lẽ Không mà chẳng chấp tướng thọ chứng.

- Hai là do lý Thật tướng thẳm sâu không ai tin nhận nổi nên phải dùng phương tiện dẫn dắt quần sanh khiến được giác ngộ dần dần.

Như Phẩm Thí dụ kinh Pháp Hoa dạy:

"Như Lai có vô lượng trí huệ, lực vô sở úy, các pháp tạng có thể ban cho hết thảy chúng sinh pháp Đại thừa nhưng chúng sinh chẳng nhận lãnh hết nổi.

Này Xá Lợi Phật! Bởi nhân duyên đó, phải biết rằng: chư Phật do sức phương tiện nơi Phật thừa phân biệt thành ba."

Lại nữa, trong Chú giải kinh Vô Lượng Thọ, lão cư sĩ Hoàng Niệm Tổ viết: "Hễ tâm dính mắc thì bị vật chuyển, thành ra bị phiền não trói buộc. Phàm phu chấp Có, Nhị thừa trệ Không, đều là bị đọa trong Tình chấp, đều là Tâm bị vật chuyển."

Bồ tát vượt trên hàng phàm phu, Nhị thừa, mang trọng trách giáo hóa chúng sinh, điều phục Nhị thừa nên tâm không được dính mắc.

Cũng lại do chẳng trụ nơi sắc thanh,.., pháp nên Bát phong chẳng thổi động tâm, do đó tâm được an trụ.

Một lần nữa, đức Thế Tôn xác nhận lại ý trên:

"Này Tu Bồ Đề! Vị Bồ tát phải nên bố thí như thế, chẳng trụ trước nơi tướng."

Lợi ích của sự không chấp trước nơi tướng:

Phật dạy: "Tại vì sao? Vì nếu vị Bồ tát không trụ trước nơi tướng mà bố thí thời phúc đức nhiều không thể suy lường.

-Tu Bồ Đề! Ý ông nghĩ sao? Có thể suy lường được cõi hư không ở phương Đông chăng?

- Bạch đức Thế Tôn, không thể suy lường được.

- Tu Bồ Đề! Có thể suy lường được cõi hư không ở phương: Nam, Tây Bắc cõi hư không ở bốn hướng cạnh và cõi hư không ở trên dưới chăng?

- Bạch đức Thế Tôn, không thể suy lường được.

- Tu Bồ Đề! Vị Bồ tát không trụ trước nơi tướng mà bố thí, thời phước đức cũng lại như thế, không thể suy lường được.

- Tu Bồ Đề! Vị Bồ tát chỉ phải nên đúng như lời Ta đã dạy đó mà trụ."

Đoạn trên đã nói, tất cả Phật pháp có thể tóm vào một chữ 'Xả', cũng nghĩa là 'Bố thí'. Nên Lục độ vạn hạnh trang nghiêm của Bồ tát cũng đều thu nhiếp vào hai chữ 'Bố thí'. Vị Bồ tát thực hành bố thí, tức là đang tu lục độ vạn hạnh.

Phàm phu Nhị thừa chấp Tướng bỏ quên Tánh, nên tâm thường trụ nơi lục trần, tức là Trái Giác Hợp Trần; đem nhân sinh diệt mà tu tâm nên vô thỉ kiếp chẳng đến được Phật quả. Nay vị Bồ tát Trái Trần Hợp Giác, dũng mãnh cầu quả vị Phật tất phải từ nơi Tâm không sanh diệt mà khởi tu, nghĩa là phải dũng mãnh lìa bỏ Tướng mà trở về Tánh.

Vậy nên vị Bồ tát không trụ trước nơi tướng mà bố thí chính là từ Tánh khởi Tu, toàn Tu nơi Tánh. Lấy Nhân không thể nghĩ bàn mà cầu Quả vị tối thắng không thể nghĩ bàn mới hợp lý Nhân Qủa, do đó sản sinh phước đức cũng không thể nghĩ bàn, không thể suy lường, quá số suy lường.

Phật dụ phước đức sinh ra khi vị Bồ tát từ Tánh khởi Tu như hư không. Hư không như không mà có, chẳng thể bảo là Không cũng chẳng thể chấp là Có.

Hư không không dính mắc lục trần, lục trần do gá nơi hư không mà hiện ảnh tượng. Nhưng hư không không hay biết, khác với Trí Vô thượng giác, hư không sinh ra trong Tự tánh cũng như mặt biển nổi lên một bọt nước vậy. Tự tánh chẳng phải hư không nên tự tánh chẳng dính mắc vào hư không, chỉ lấy hư không ví dụ cho phước đức mà thôi. Vì Tự tánh vốn tự trang nghiêm, đầy đủ tất cả vô lượng vô biên phước đức, nên từ Tự tánh mà sinh ra phước đức thì cũng như có như không, nhiều vô lượng chẳng thể suy lường.

Vậy muốn đạt quả vị Diệu giác, tiếp nối giống Phật, chư Bồ tát phải nên tu hành Lục độ chẳng dính mắc chẳng chấp trước khiến tự mình và tất cả chúng sinh đều được diệt độ, được an vui trong Vô dư Niết Bàn mà chẳng hề có tướng diệt độ.

Vì sao? Vì tướng Diệt độ đó chính là Không tướng, cũng lại là Thật tướng nên chẳng thể bám chấp vào tướng diệt độ đó.

Hòa thượng Thích Thanh Từ cũng nói: có thể tóm gọn toàn bộ kinh Kim Cang qua 4 phần đầu này, các phần sau của bản kinh là sự mở rộng và xác nhận nhận tư tưởng qua 2 câu hỏi làm thế nào hàng phục và trụ tâm của ngài Tu Bồ Đề mà thôi. Lại nói, xuyên suốt bộ kinh là hai tư tưởng nòng cốt:

1. Ưng vô sở trụ: nên không có chỗ trụ mà an trụ tâm, tức tâm không dính mắc, không chấp trước vào tướng hư vọng, pháp hư vọng; cũng là quả vị người tu tâm hướng đến là Thật tướng vô tướng, hay nói cách khác là nhập Tâm tánh Như Lai thường trụ.

2. Xả bỏ tướng nhân, ngã, chúng sinh, thọ giả:là phương tiện tu hành, là tu Nhân đạt Quả.

Với bậc thượng căn Nhân chính là Qủa, Qủa chính là Nhân, Nhân Qủa đồng thời chẳng sai biệt, thì ngay khi xả bỏ tướng nhân, ngã, chúng sinh, thọ giả thì đồng thời nhập vào nơi Ưng vô sở trụ; ngay khi trụ tâm nơi không chỗ trụ thì xả bỏ được 4 tướng: nhân, ngã, chúng sinh, thọ giả.

Nhưng đối với bậc trung hạ thì phải lần hồi từng bước từ Nhân đến Qủa, thi hành pháp Xả dần dần từ phi pháp đến chánh pháp, xả đến rốt ráo mới nhập được Tự tánh. Vì Chánh pháp như ngọn đuốc sáng dẫn dắt người tu hành đi trong đêm tối vô minh, như con thuyền vững chắc chở người tu vượt qua biển khổ sinh tử. Khi cập bến Chân như diệu tánh thường trụ sáng suốt tất phải bỏ đuốc, bỏ thuyền lại. Đấy là lẽ đương nhiên vậy.

Qua đó, ta có thể thấy kinh Kim cang là bộ kinh cô đọng toàn bộ giáo lý kinh điển Đại thừa, là Trí tuệ Bát Nhã như chất kim cương, năng đoạn tất cả trần cấu, chấp trước, chấp trước tướng cho đến chấp trước tri kiến, là Trí tuệ đưa thấu đến bờ bên kia, bờ giải thoát, giải thoát tri kiến.

Vì năng lực hèm kém, tâm trí si ám, xin được dừng tiểu luận tại đây. Vì lấy trí đóm mà suy xét ánh mặt trời, ếch đáy giếng mà bàn chuyện đất trời, ắt hẳn bài viết phạm phải nhiều sai sót không thể tha thứ. Ngưỡng mong chư Phật, chư đại Bồ tát từ bi gia hộ cho tâm phàm lời tục con mà thầm thông trí thánh, thầm hợp đạo mầu, được đúng như pháp, chẳng đến nỗi tạo tội vô lượng.

Nếu bài viết được chút công đức nào, xin nguyện hồi hướng cho hết thảy chúng sinh nương theo lời chân thật của đức Thích Ca, nương theo Đại nguyện đấng Đạo sư tiếp dẫn A Di Đà Phật phát khởi Tín Nguyện đồng sanh An Lạc quốc, đồng thành Phật đạo.

Nam mô Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật.

Nam mô A Di Đà Phật.

Đệ tử Pháp Đức kính viết.

Viết xong Xuân Giáp Ngọ 2014

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567