THIỀN VÀ BÁT NHÃ
Daisetz Teitaro Suzuki
---o0o---
THIỀNLUẬN NĂM
Ý NGHĨA CỦATÂM KINH BÁT-NHÃ TRONG PHẬT GIÁO THIỀN TÔNG
IV. TÂM KINH VÀ BIỂU HIỆNTÂM LÝ CỦA KINH NGHIỆM THIỀN
Theo ý tôi, có thể giải quyết tất cảnhững khúc mắc để thấu triệt Tâm kinh bằng cách sau đây.
Khi giáo nghĩa Bát-nhã hoàn toàn đồngnhất với kinh nghiệm Phật giáo, Tâm kinh được viết ra để nói lên những điểm cốtyếu của Bát-nhã trong một hình thức rất giản ước, đồng thời để chỉ định tiếntrình tâm lý của hành giả tu tập Bát-nhã ba-la-mật uyên áo này. Khi kinh bắtsang trào lưu phát triển khác, nó mở rộng thành một nền văn học rất phồn tạp,rườm rà, đồ sộ, mà tại Trung hoa được biết dưới danh hiệu Đại Bát-nhã ba-la-mật-đa(mahāprajñāpāramitā-sūtra) 600 quyển; trong số đó, 400 quyển đầu đại để tươngđương với bản Sanskrit Śatasāhasrikā prajñāpāramitā, Bát-nhã bách thiên tụng, bảnkinh gồm 100.000 bài tụng.[75]Bản kinh nào sớm nhất, bản rút ngắn hay bản mở rộng , chúng ta chưathể biết được. Nhưng, bản rút ngắn không có nghĩa chỉ là cô đọng; đồng thời vớilúc cô đọng, nó chuyển hướng bản kinh thành một tài liệu tâm lý học về kinhnghiệm Bát-nhã. Đây là sự thay đổi đáng chú ý, vì rằng khi thêm vào câu thầnchú “Gate!” là đã thay đổi toàn diện sắc thái của việc giản ước. Nếu không cócâu thần chú, giản ước vẫn là một sự kiện đơn giản, không có nghĩa gì hết, và tầmquan trọng nặng ký của nền văn học đó đến đây biến mất hẳn.
Trong lúc tôi chưa thể tìm thấy mộtcách chính xác là Tâm kinh trở thành một khóa bản của Thiền tại Trung hoa vàolúc nào, các Thiền sư hẳn đã khá sáng suốt, trong lịch sử của Thiền, thấy kinhcòn có yếu tố khác chứ không chỉ là một cố gắng cô đọng. Cho đến về sau, kinhKim cương (vajracchedikā) đã đáp ứng cho chủ đích đó, và ngay cả trước thời HuệNăng cũng vậy. Khi Huyền Trang kể những chuyện linh ứng của mình do đọc Tâmkinh, các Thiền sư lưu ý ngay, và đồng thời còn thấy bên trong có yếu tố khác nữa.Cái “yếu tố khác” đó có thể không lọt vào tầm mắt của các luận sư Duy thức học(vijñaptimātra), nhưng không trốn khỏi các Thiền sư, họ xem trọng kinh nghiệmhơn triết lý, và rất mẫn cảm với giá trị tâm lý của tất cả nền văn học Phậtgiáo. Họ hiểu ý nghĩa của thần chú khác hẳn các tín đồ Chân ngôn tông.
Một sự kiện đáng lưu ý là thần chú“Gate!” cũng thấy có ở cuối bộ Đại Bát-nhã bản Hán dịch của Huyền Trang. Hìnhnhư nó được thêm vào đời Nguyên, vì ấn bản đời Nguyên mới có nó. Phải chăng ýtưởng phụ thêm thần chú nên coi là xuất phát từ Tâm kinh khi nó bắt đầu lưuhành rộng rãi trong giới Phật tử? Kinh Bát thiên tụng (aṣṭasāharikā) nói rằngBát-nhã ba-la-mật là một minh chú (vidyā) lớn, không lường được, không dò được,không sánh được, và tối thượng; nếu vậy, nên coi “Gate!” như là lối tán dương củaTâm kinh bằng những từ ngữ chói sáng của Thần chú.
Trở lại chủ đề chính, việc tu tậpBát-nhã uyên áo cũng là việc thực tập công án, mà tôi đã đề cập trong Thiền luậnbộ trung. Quán Tự Tại (Avalokiteśvara, hoặc Quán Thế Âm) là người học Thiền, vàđức Phật trong Tâm kinh cho biết ngài Quán Tự Tại đã học Bát-nhã như thế nào.Vì Bát-nhã là công án được đề ra cho Ngài giải quyết, làm phương tiện chứng quảgiác ngộ tối thượng. Quá trình chứng ngộ của Ngài xuôi theo dòng phủ định. Phủđịnh bất cứ thứ gì có thể đem trí óc mà hiểu như là một đối tượng của tư tưởng.Thiền tông cũng làm như thế. Nó bắt đầu bằng trí óc. Phải trừ diệt vô minh cố hữutrong tâm từ vô thủy quá khứ. Đó là bước thứ nhất hướng tới giác ngộ. Vô minh tứckhông thấy sự thực (dharma, pháp) như thế là như thế, yathābhūta (như thật). Vậyrồi, Tâm kinh đề ra một tràng phủ định, chối bỏ luôn cả nhận thức, hay trí. Bởivì, chừng nào thức còn có chỗ bám, đó thực là một trở ngại trên đường đi vềgiác ngộ tối thượng. Tự chủ và tự tại có nghĩa là có đường đi hoàn toàn dẹp sạchtất cả các chướng ngại vật chúng có thể chận ngang dòng suối tự do và tự tác chủcủa Bát-nhã. Phủ định là dọn sạch, là thanh lọc như thế. Trong thực tập côngán, dọn sạch như thế cũng là phương sách tiên quyết.
Chúng ta biết rằng, phủ định chỉ làphương tiện nhờ đó để thành tựu cái khác. Trong Bát-nhã ba-la-mật, nó cũng làcái dẫn chúng ta đi tới mục đích của pháp môn này. Thiền, ngay từ khởi thủy, đềra cho chúng ta một công án coi thường sự giải thích của trí óc, và do đó chỉcon đường phủ định cho chúng ta đi mà không cần nói một cách công khai. Tâmkinh, trực thuộc văn học Bát-nhã, diễn theo cái đà diễn tiến chung này, và chứađầy tiếng không! Nhưng chúng ta cắm dùi vào đâu sau khi vứt bỏ hết mọi kho tàngtrí năng, khái niệm? Là cái Không trơ trọi, là khoảng trời trống trơn, là cáitrống rỗng hoàn toàn, đó là ý nghĩa của Śūnyatā ư? Nếu đúng vậy, chúng ta vẫn ởnguyên trong cảnh vực của những khái niệm. “Cái không chi” (ngoan không) vẫncòn là một trong những đối tượng tư tưởng của chúng ta. Phải vứt bỏ cái đó, vìđó là “điên đảo và mộng tưởng.”
Trong Phật giáo Chân tông, bỏ “tự lực“cốt để vãng sinh về quốc độ của Phật A-di-đà (Amitābha). Phủ định cũng là khẳngđịnh ngay đó. Chân tông tránh dùng trí năng. Chủ trương phủ định của nó khônggây kinh hãi và thất vọng cho bằng Bát-nhã ba-la-mật. Tuy nhiên, ngay đây, mộttâm trạng gọi là “không bố úy,” “không quái ngại” được trỗi lên làm mục tiêu. Mụctiêu đó là gì? Giác ngộ tối thượng này là gì? Nó ở đâu? Khi nào đạt đến?
Đạt đến, lúc ngài Quán Tự Tại xướngtụng, “Gate, gate, pāragate, pārasaṅgate!” Vì đó là sự phóng xuất vọt ra từ nộitâm của Ngài khi Ngài sang ngang dòng phủ định. Ngài là hành giả của Bát-nhãba-la-mật-đa, không thể vĩnh viễn quanh quẩn trong một vòng tròn phủ định. Mộtkhi Ngài đi đến đích, kiệt sức và vô vọng, chẳng còn ước mong nào trước mặt, vàNgài biết những gì đã bị bỏ lại đằng sau. Nhưng vẫn có cái thúc đẩy bước tới.Trí năng và xúc cảm hoàn toàn cùng tận, Ngài thực hiện bước nhảy tối hậu. Bứtlìa đoạn dây cuối cùng trói buộc Ngài vào thế giới của đối đãi và “tự lực.”Ngài thấy mình đứng trên bờ bên kia. Bị áp đảo bởi các tình cảm của mình, Ngàichỉ có thể đọc lên “Gate!”. Rồi thì, Gate trở thành câu thần chú của Ngài, Gatetrở thành thần chú của Bát-nhã ba-la-mật-đa. Với sự phóng xuất đó, mọi vật bừngsáng, và Quán Tự Tại đã tu tập Bát-nhã đến chỗ cuối cùng.
Tôi kết luận rằng, đây là ý nghĩa củaTâm kinh. Do giải thích bản kinh như thế, chúng ta có thể hiểu tại sao Gate làkết luận, và tại sao kết luận này diễn tả nội dung của Tâm kinh một cách triệtđể. Để riêng thần chú ra, nó chẳng có nghĩa gì hết, và khó mà hiểu tương quansinh tử của nó với kinh Bát-nhã ba-la-mật. Đừng có bước tới Tâm kinh bằng conđường tắt của trí năng, dù thoạt trông nó như chỉ ra lối đi đó. Phải tiến tớitheo đường dây của kinh nghiệm tôn giáo, tức là, bằng đường dây mà chúng ta giữchặt trong lối tham cứu công án. Ý nghĩa của thần chú như thế vén mở những bí mậtcủa nó, và kết quả Tâm kinh trở thành một tài liệu hoàn toàn dễ hiểu có giá trịtôn giáo rất lớn.
Nếu Tâm kinh là một sản phẩm củathiên tài Trung hoa, câu thần chú có thể không mang hình thái Gate! Như chúngta đã thấy qua nhiều trường hợp khác nhau rồi, thần chú của các Thiền sư đãkhoác những màu sắc khác hẳn. Nhưng, trên phương diện tâm lý mà nói, quá trìnhtâm linh được chứng nghiệm bởi người Trung hoa và Ấn độ rõ ràng cũng thế và hiểnnhiên phải thế. Khi một người Trung hoa được hỏi Phật là ai, y trả lời: “Đó làmột cái thùng đầy nước bị thủng đáy.” Phê phán theo tiêu chuẩn thường của luậnlý, nói thế nghe như là một Đà-la-ni. So sánh Phật với thùng nước coi có vẻ phạmthượng, nhưng trong con mắt của Thiền thì phải là cái thùng thủng đáy, nướctuôn ra ngoài hết và không có trăng rọi bóng vào trong đó. Rồi Phật mới hiệnthân với 32 tướng tốt. Tâm kinh không cụ thể mức này, nhưng nó mô tả kinh nghiệmThiền khá sáng sủa.
Trong “Gate!” những phủ định của Tâmkinh đã vươn tới khẳng định lớn, mà trong tất cả các kinh điển Đại thừa gọi làChân như (tathatā). Những phủ định ấy cốt dẫn các hành giả của Bát-nhã đi tới kếtcuộc này. Lối tụng đọc của Huyền Trang, đọc trong hình thức chú thuật, bây giờtrở nên chứa đựng những giá trị tôn giáo có tầm vóc lớn. Do sức mạnh của câu thầnchú kết thúc, giác ngộ tối thượng, mà các học giả quen hiểu bằng trí năng, trởthành một biến cố vĩ đại của kinh nghiệm tâm linh.
Địa vị của Tâm kinh trong giáo nghĩacủa Thiền được định đúng mức ở đây.
Vẫn còn phải cắt nghĩa trường hợpnào thần chú đặc biệt đó được đọc lên. Điều này đòi hỏi dài dòng hơn, mà ở đâythì không đủ; tôi chỉ có thể nói vắn tắt là, ý niệm “bờ bên kia“ có chất Ấnriêng biệt, và nó xuất hiện sớm trong văn học tôn giáo của Ấn độ. Lấy thí dụ từvăn học Phật giáo khởi thủy, trong kinh Pháp cú chúng ta có câu này:
Appakā te manussesu ye janāpāragāmino,
Athāyam itarā pajā tīramevānudhāvati.[76]
Có thể nói, Tathāgata là Pārāgata,Như Lai là Người Qua bên kia. Nhưng, ý niệm tathā đã trở nên có ưu thế trongtriết học Phật giáo hơn pāram, và Pārāgata được thay thế bằng Tathāgata. Dấu vếtý niệm pāram còn lưu lại trong chữ pāramitā, chỉ cho những đức tính dẫn hành giảsang bờ bên kia của giác ngộ. Pāramitā thường được dịch là “đáo bỉ ngạn,” sangđến bờ bên kia, mà thực tế chỉ cùng sự kiện như pārāgata; hai thành ngữ khácnhau là về hướng đi. Tùy theo chỗ đứng, nhìn từ đích điểm này thì nó là “đi;”nhìn từ đích điểm kia, thì là “đến.” Trong Bát-nhã ba-la-mật-đa, dòng tiến củaQuán Tự Tại mà diễn tả như đã “cập bờ bên kia“ (pārasaṁgate), thì rất là chínhxác.
Động Sơn Lương Giới[77]thuở còn là chú tiểu, một Luật sư dạy học Tâm kinh, và Sư cố cắtnghĩa câu này: “Không mắt, không mũi…” Nhưng Lương Giới đưa mắt nhìn chăm chúSư, rồi sờ vào thân thể mình, và sau hết nói: “Thầy có hai mắt, hai tai, và cáccăn khác, và con cũng có như thế. Tại sao Phật dạy là không có?” Luật sư nghe hỏi,ngạc nhiên bảo: “Ta làm thầy con không nổi. Con phải được một Thiền tăng độcho, vì sau này sẽ là một đại sư của Đại thừa.”
Khi một tâm hồn trẻ trung hay thắc mắcnhư Lương Giới mà vấp phải phủ định luận của Bát-nhã, đó là dấu hiệu tốt. Nếu cứtiếp tục thắc mắc, nhất định sẽ có ngày bùng vỡ. Nhưng sau khi bùng vỡ nên bướctrở lui lại con đường phủ định để thử xem trong con đường dẫn vào chứng nghiệmcó thứ gì. Cái gì mà khởi thủy không nắm bắt được, bây giờ sẽ được thấy chất chứađầy ý nghĩa. Giáo nghĩa tính Không chẳng còn là phủ định luận thuần túy nữa. Rồitôi sẽ giảng giải trong các trang sau; đó là cách giản dị nhìn các pháp mộtcách như thật (yathābhūta), nhìn chúng dưới sắc thái Tathatā, Như tính, củachúng. Nó không chối bỏ thế giới vạn thù; núi non vẫn đó, hoa anh đào đang nở rộ,ánh trăng tỏa rạng trong đêm thu; nhưng đồng thời chúng không chỉ y nguyên lànhững cái đặc thù, chúng gợi cho ta một ý nghĩa sâu thẳm, chúng được thấu hiểutrong cái không là chúng. Tâm kinh nằm trên nền tảng này.
Nhân lúc bước qua dòng nước, thấybóng mình trong đó, Động Sơn làm một bài thơ, có thể cho ta điểm tựa dò vàokinh nghiệm nội tại của sư về Bát-nhã:
Thiết kị tùng tha mịch切忌從他覓
Thiều thiều dữ ngã sơ 迢迢與我疏
Ngã kim độc tự vãng我今獨自往
Xứ xứ đắc phùng cừ 處處得逢渠
Cừ kim chánh thị ngã 渠今正是我
Ngã kim bất thị cừ 我今不是渠
Ưng tu chẩm ma hội 應須恁麼會
Phương đắc khế như như.方得契如如
Đừng nhờ ai tìm kiếm [Chân lý][78]
Lần hồi lơ với ta
Giờ một mình ta bước
Đâu đâu cũng gặp mi
Nay mi chính là ta
Ta không phải là mi
Nên hiểu được như thế
Mới gặp trúng Như như.
[62]Hán: não hoại tướng 惱壞相. Cf. Samyutta iii. 86: ruppatīti khobhikkhave tasmā rūpaṁ ti vuccati. kena ruppati, sītena pi ruppati uṇhena piruppati jighacchāya pi ruppati pipāsāya pi ruppati daṁsa-makasa-vātā-tāpa-siriṁsapa-samphassenapi ruppati. “Nó bị hủy hoại, này các tỳ kheo, vì vậy nó được gọi là sắc. Bị hủyhoại bởi cái gì? Nó bị hủy hoại bởi lạnh, bởi nóng, bởi đói, khát, bởi xúc chạmvới muỗi mòng, gió, nắng…” Sắc, Skt. rūpa, hiểu do gốc động từ Rup (rupyate): hủyhoại hay bức hại, não hoại. Cf. Câu xá 1 (T29n1558, tr. 3b23): “Gọi là sắc, vìnó bị biến hoại 變壞… Cáigì làm cho biến hoại? Tức là, tay xúc chạm đến nó liền bị biến hoại.”
[63]Câu-xá, ibid., thọ, lãnh nạp tùy xúc 受領納隨觸; Skt. k. i 14c: vedanānubhavaḥ.
[64]Ibid., tưởng thủ tượng vi thể 想取像為體; Skt. ki. 14c-d: saṁjñānimittodgrahaṇātmikā.
[65]Ibid., hành danh tạo tác行名造作 , hành là cái tạo tác.
[66]Ibid., thức vị các liễu biệt 識謂各了別.
[68]Bát nhã bách thiên tụng (Thập vạn tụng).Tương đương Hán dịch, Đại Bát-nhã ba-la-mật-đa kinh, quyển 1 – 400, Huyền Trang(No 220). TS
[69]Bát-nhã nhị vạn ngũ thiên tụng. Hán dịchtương đương, 1. Phóng quang Bát-nhã kinh, 20 quyển, Vô-la-xoa (Taishō No 221);2. Quang tán kinh, 10 quyển, Thi Hộ (Taishō No 222); 3. Ma-ha Bát-nhã ba-la-mậtkinh, 27 quyển, Cưu-ma-la-thập (Taishō No 223); 4. Đại Bát-nhã ba-la-mật-đakinh, hội thứ 2 (quyển 401 – 479), Huyền Trang (No 220.2). TS
[70]Bát-nhã bát thiên tụng. Hán dịch tươngđương, 1. Đạo hành Bát-nhã kinh, 10 quyển, Chi-lâu-ca-sấm (No 224); 2. Đại minhđộ kinh, 6 quyển, Chi Khiêm (No 225); 3. Ma-ha Bát-nhã sao kinh, 5 quyển,Đàm-ma-đề & Trúc Phật Niệm (No 226); 4. Ma-ha Bát-nhã ba-la-mật kinh, 10quyển, Cưu-ma-la-thập (No 227); 5. Đại Bát-nhã ba-la-mật-đa kinh, hội thứ 4/5(quyển 538 – 555, 556 - 565), Huyền Trang (No 220.4/5); Cf. Phật thuyết Phật mẫuxuất sinh tam pháp tạng Bát-nhã ba-la-mật-đa kinh, 25 quyển, Thi Hộ (No 228).
[71]Bát-nhã thất bách tụng. Hán dịch tươngđương, Đại Bát-nhã ba-la-mật-đa kinh, hội VII, “Mạn-thù-thất-lị phần” (quyển574 – 574), Huyền Trang, Taishō 8, No 220.7. Biệt dịch, Văn-thù-sư-lị sở thuyếtMa-ha Bát-nhã ba-la-mật kinh, 2 quyển, Mạn-đà-la-tiên, No 232; Văn-thù-sư-lị sởthuyết Bát-nhã ba-la-mật kinh, 1 quyển, Tăng-già-bà-la, No 233. TS
[72]Đại Bát-nhã ba-la-mật-đa kinh, 600 quyển,Huyền Trang (No 220). TS
[73]Giáo nghĩa Bát nhã được viết riêng nơi LuậnVI, dưới đề mục “Triết học và tôn giáo trong kinh Bát-nhã ba-la-mật-đa.”
[74]Theo bài Tựa của Từ Ân cho Tâm kinh.Taishō, No. 256飜 對字音般若波羅蜜多心經 (并序[燉煌出S. 700] ).
[75]Cần giải thích. Ngày nay đa số học giả đồngý rằng bản kinh Bát nhã sớm nhất gần như Bát thiên tụng (aṣṭasāhasrikā) trongtiếng Phạn và Đạo hành kinh (No 224) hay Tiểu phẩm Bát-nhã của Cưu-ma-la-thập(No 227) trong Hán văn. Từ bản coi như nguyên thủy này, văn học được phát triểnthành Bách thiên tụng (Śatasāhasrikā, Đại Bát nhã của Huyền Trang (No 220) v.v…Trong lúc lối mở rộng đang diễn trong một mục đích khác, lối rút ngắn cũng diễntheo hướng khác nữa. Khó xác định niên sử cho các kinh điển Phật giáo, cũng nhưhầu hết các tác phẩm khác của Ấn độ. Nhưng, như tôi đã nói ở trước, câu chúGate được thêm vào hình như cho biết Tâm kinh thuộc sau này mặc dù chúng takhông biết chắc lúc nào thần chú ấy cũng được gắn vào bộ Đại Bát nhã của Hánvăn.
[76]Dhp. 85: Một số ít người sang đến bờ bênkia; số đông còn lại lang thang bờ bên này.
[77]洞山良价 807-769 A.D. Truyền đăng lục 15 (T51n2076, tr. 321b20).
[78]Ibid., T51n2076, tr. 321c21. Rõ ràng bàithơ nói tới một người lội qua khe và cái bóng của mình. Tác giả dịch Anh ngữ rồichua thêm chữ “chân lý,” mặc dù đã cẩn thận để trong ngoặc vuông. Ở đây cứ ytheo tiếng Anh mà dịch. TS.