Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Thiền luận năm: Ý nghĩa của Tâm kinh Bát-nhã trong Phật giáo Thiền tông

28/12/201115:18(Xem: 5184)
Thiền luận năm: Ý nghĩa của Tâm kinh Bát-nhã trong Phật giáo Thiền tông

THIỀN VÀ BÁT NHÃ

Daisetz Teitaro Suzuki

Bản dịch Việt: Tuệ Sỹ

---o0o---

THIỀNLUẬN NĂM

Ý NGHĨA CỦATÂM KINH BÁT-NHÃ
TRONG PHẬT GIÁO THIỀN TÔNG

I.PHẠN VĂN TÂM KINH BÁT-NHÃ VÀ HÁN DỊCH

Bát-nhã tâm kinh (prajñāpāramitāhṛdayasūtra)là một bản văn ngắn nhất về Bát-nhã ba-la-mật (prajñā-pāramitā). Trongbản Hán dịch của Huyền Trang, kinh gồm 262 chữ. Đây là bản lưu hành phổ biếnnhất trong giới Phật tử Nhật bản, Chân ngôn tông (Shingon), Thiên thai tông(Tendai) và Thiền tông (Zen).[42]Chủ đích của thiên luận này là khảosát xem Tâm kinh giữ một địa vị quan trọng như thế nào trong giáo pháp củaThiền tông. Do đó, cũng nên có một kiến thức khá về chính bản kinh đó. Vì ngắn,nên dưới đây sẽ giới thiệu toàn thể nguyên bản Sanskrit cùng với bản Hán dịchcủa Huyền Trang, kèm theo là bản dịch Anh ngữ từ nguyên bản Sanskrit.

F. Max Muller đã hiệu đính và ấn hành Tâm kinh Bát-nhã vàonăm 1884, từ bản lá bối cổ lưu trữ ở Nhật.[43]Nhưng bản dưới đây căn cứ trên bản Phạn Hán[44]củaHuyền Trang với một ít thay đổi dựa trên các bản Hán dịch khác. Huyền Trangdịch Tâm kinh (Hṛdaya) ra chữ Hán vào năm 649,được soạn tập vào ấn bản Đại tạng kinh Taishō, số hiệu 251,[45]với bài tựa ngự chế của Vua nhà Minh. Nhưng bản này hình như không được dịch từbản Sanskrit của Huyền Trang, số hiệu 256, vì cả hai không phù hợp nhau mấy.

TÂMKINH LƯỢC BẢN: PHẠN VĂN VÀ CÁC BẢN HÁN DỊCH

1. Bản Devanāgarī

(Essays III 190)

clip_image002

2. Bản phiên âm Latin
prajñāpāramitāhṛdayasūtram
[46]

[ saṃkṣiptamātṛkā ]

// namaḥ sarvajñāya //

āryāvalokiteśvarabodhisattvogambhīrāṃ[47]prajñāpāramitācaryāṃ[48]caramāṇo vyavalokayati sma / pañcaskandhāḥ, tāṃśca svabhāvaśūnyān paśyati sma //

ihaśāriputra rūpaṃ śūnyatā, śūnyataiva rūpam / rūpān na pṛthakśūnyatā, śūnyatāyā na pṛthag rūpam / yad rūpaṃsā śūnyatā, yā śūnyatā tad rūpam //

evameva vedanāsaṃjñāsaṃskāravijñānāni //

iha śāriputra sarvadharmāḥ śūnyatālakṣaṇāanutpannā aniruddhā amalā na vimalā nonā na paripūrṇāḥ/ tasmāc chāriputra śūnyatāyāṃ na rūpam, na vedanā, na saṁjñā,na saṃskārāḥ,na vijñānāni / na cakṣuḥśrotraghrāṇajihvākāyamanāṃsi,na rūpaśabdagandharasaspraṣṭavyadharmāḥ / na cakṣurdhāturyāvan na manodhātuḥ //na vidyā nāvidyā na vidyākṣayonāvidyākṣayo yāvan na jarāmaraṇaṃ na jarāmaraṇakṣayona duḥkhasamudayanirodhamārgāna jñānaṃ na prāptir nābhisamayas tasmād aprāptitvāt[49]//

boddhisattvasya[50]prajñāpāramitām āśritya viharato’cittāvaraṇaḥ[51]/ cittāvaraṇanāstitvādatrasto viparyāsātikrānto niṣṭhanirvāṇaḥ/ tryadhvavyavasthitāḥ sarvabuddhāḥprajñāpāramitām āśritya anuttarāṃṃbodhimabhisaṃbuddhāḥsamyaksa

tasmājjñātavyaḥ prajñāpāramitā mahāmantro mahāvidyāmantro‘nuttaramantro ‘samasamamantraḥ

sarvaduḥkhapraśamanaḥsatyam amithyatvāt/ prajñāpāramitāyām ukto mantraḥ / tadyathā gate gate pāragatepārasaṃgate bodhi svāhā //

itiprajñāpāramitāhṛdayasūtraṃ samāptam

3. Hán dịch của Huyền Trang

BÁT-NHÃ BA-LA-MẬT-ĐATÂM KINH

般若波羅蜜多心

(Taishō No 251)

觀自在菩薩。行深般若波羅蜜多時。照見五蘊皆空。度一切苦厄。舍利子。色不異空。空不異色。色即是空。空即是色。受想行識亦復如是。舍利子。是諸法空相。不生不滅。不垢不淨不增不減。是故空中。無色。無受想行識。無眼耳鼻舌身意。無色聲香味觸法。無眼界。乃至無意識界。無無明。亦無無明盡。乃至無老死。亦無老死盡。無苦集滅道。無智亦無得。以無所得故。菩提薩埵。依般若波羅蜜多故。心無罣礙。無罣礙故。無有恐怖。遠離顛倒夢想。究竟涅槃。三世諸佛。依般若波羅蜜多故。得阿耨多羅三藐三菩提。故知般若波羅蜜多。是大神咒。是大明咒是無上咒。是無等等咒。能除一切苦。真實不虛故。說般若波羅蜜多咒即咒曰

揭帝揭帝 般羅揭帝 般羅僧揭帝菩提僧莎

般若波羅蜜多心經


II.BÁT-NHÃ TÂM KINH VIỆT DỊCH

1. Việt dịch theo bản Anh của Suzuki[52]

Khi (1)Bồ-tát Quán Tự tại (Avalokitésvara)thực hành tu tập Bát-nhã ba-la-mật sâu thẳm,[53]trực nhận rằng, có năm uẩn (skandha)(2); và thấy năm uẩn đó không cótự tính trong chúng(3).

“Này Xá-lợi-phất (Śāriputra), sắc ở đây là không(4),không là sắc; sắc không khác không, không không khác sắc; sắc tức thị là không,không tức thị là sắc. Thọ, tưởng, hành và thức cũng vậy.”

“Này Xá-lợi-phất, hết thảy các pháp ở đây có đặc tướng làkhông : chúng không sinh, không diệt; không cấu nhiễm, không không cấu nhiễm;không tăng, không giảm. Vì vậy, này Xá-lợi-phất, trong tính Không không có sắc,không có thọ, tưởng, hành, thức(5), không có mắt, tai, mũi, lưỡi,thân, ý; không có sắc(6), thanh, hương, vị, xúc, pháp; không có nhãngiới(7), cho đến(8)không có ý thức giới; không có minh,không có vô minh(9), không có sự diệt tận của minh, không có sự diệttận vô minh[54]cho đến không có tuổi già và sự chết, không có sự diệt tận của tuổi già và sựchết; không có khổ(10),tập, diệt, đạo; không có trí, không có đắc,và không có chứng,++bởi vì không có đắc.[55]Không có những chướng ngại+++trong tâm của Bồ-tát an trụ doy chỉ trên Bát-nhã ba-la-mật;[56]và bởi vì không có những chướngngại trong tâm mình, Ngài không có sợ hãi, và vượt ngoài những tà kiến điênđảo, đạt đến Niết-bàn. Hết thảy chư Phật trong quá khứ, hiện tại, và vị lai, doy trên Bát-nhã ba-la-mật, mà chứng đắc giác ngộ viên mãn tối thượng.”

“Vì vậy, nên biết Bát-nhã ba-la-mật là đại thần chú(mantra), là chú của đại minh huệ, là thần chú cao tuyệt, thần chú vô giá, cóthể trừ diệt hết mọi khổ đau; đó là chân lý vì không sai lầm; đây là thần chúđược công bố trong kinh Bát-nhã ba-la-mật: gate, gate, pāragate, pārasaṅgate,bodhi, svāhā!” (Này Bodhi, đi qua, đi qua, qua bờ bên kia, qua đến bờ bên kia,Svāha!).


CHÚ THÍCH(Suzuki)

(1) Có hai bản kinh cùng nhan đề là Hṛdaya(Tâm kinh): một bản được gọi là Lược bản, và bản khác được gọi là Quảng bản.Bản dịch ở trên, của bản lược, thông dụng ở Trung hoa và Nhật bản.

Đoạn mở đầu của Quảng bản trong nguyên bản Phạn ngữ và Tạngngữ được tiết lược trong bản Lược như sau:

[Bản Tạng ngữ có thêm một đoạn: “Kính lễ Bát-nhã ba-la-mậtvượt ngoài ngôn thuyết, tư tưởng và tán ngữ, vì tự tính như hư không, khôngsinh, không diệt, là cảnh giới của huệ và giới, hiển nhiên trong nội tâm chúngta, và là mẹ của hết thảy các đấng Thế Tôn trong quá khứ, hiện tại và vị lai.”]“Tôi nghe như vậy. Một thời, đức Thế Tôn ngự tại thành Vương xá (Rājagṛha),trên đỉnh Linh thứu (Gṛdhrakūta), cùng với đại chúng Tìkhưu và Bồ-tát. Bấy giờ đức Thế Tôn nhập vào tam-muội Chánh giác thậm thâm.[57]Vàcùng lúc đó Đại Bồ-tát Thánh Quán Tự tại (Āryāvalokiteśvara) đang thực hành tutập trong Bát-nhã ba-la-mật sâu xa.”[58]

Đoạn kế tiếp, cũng tiết lược trong bản lược, như sau:

Này Xá-lợi-phất, như thế Bồ-tát phải tự mình thực hànhtrong Bát-nhã ba-la-mật sâu xa.” Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn rời khỏi Tam muội vàtán dương Đại Bồ-tát Thánh Quán Tự tại rằng: “Lành thay, lành thay, thiện namtử! đúng như vậy! Sự tu tập Bát-nhã ba-la-mật sâu thẳm cần phải được thực hànhnhư vậy. Đúng như lời ông đã giảng thuyết, các đức Như Lai và [59]A-la-hán cũng tán dương như thế.” Đức Thế Tôn hoan hỉ nói như thế. Trưởng lãoXá-lợi-phất và Đại Bồ-tát Thánh Quán Tự tại cùng với toàn thể chúng hội, và thếgiới của chư Thiên, loài người, A-tu-la (Asura) và Càn-thát-bà (Gandharva), tấtcả đều ca ngợi lời của đức Thế Tôn.”

(2) Nhìn từ quan điểm khoa học hiện đại, khái niệm về Skandha(uẩn) có vẻ quá mơ hồ và bất định. Nhưng chúng ta phải nhớ rằng nguyên tắc phântích của đạo Phật không phát xuất từ hứng thú khoa học suông; nó có mục đíchgiải cứu chúng ta ra khỏi ý tưởng về một thực tại cá biệt với ảo tưởng là nóhiện hữu như thế suốt mọi thời. Vì khi ý tưởng này được nhận làm cứu cánh, thìvướng mắc phải cái sai lầm của sự chấp trước,và chính do chấp trước đó đã từngbắt chúng ta làm tôi mọi cho bạo lực ngoại giới. Năm uẩn (skandha) (cáctập hợp thể, hay các yếu tố) là: sắc chất (rūpa), cảm thọ hay tri giácgiác quan (vedanā), suy tưởng (saṁjñā),tập thành hay sự tác thành (saṁskāra), và thức (vijñāna).Uẩn thứ nhất là thế giới vật chất hay chất thể của mọi vật; bốn uẩn còn làthuộc về tâm giới. Vedanāxuất hiện qua các quan năng của chúng ta; saṁjñā,suy tưởng hay tư duy (thought) theo nghĩa rộng nhất, không có từ ngữ tương xứngở Anh ngữ; hay nó là cái mà tâm phức biến; saṁskāralà một từ rất khó, không có tương đương trong Anh ngữ; nó chỉ cho cái tạo nênhình chất, là nguyên lý tạo hình; vijñānalà thức hay tâm thái. Có nhữnghình thái của tâm thái khá rõ như thấy, nghe, ngửi, nếm, xúc chạm, và nghĩtưởng.

(3) Bản dịch của Huyền Trang có thêm: “(Vị ấy) thoát khỏi tấtcả khổ ách 度一切苦厄.”

(4) Không (śūnya) hay “tính Không” (śūnyatā) làmột trong những khái niệm quan trọng nhất trong triết lý Đại thừa và đồng thờicũng gây nhiều rắc rối khó hiểu nhất cho những độc giả ngoài đạo Phật. TínhKhông không có nghĩa là “tương đối tính“ (relativity) hay “hiện tượng tính“(phenomenality), hay “cái không chi.” (nothingness). Nó chỉ cho Tuyệt đối thể,hay cái gì có bản tính siêu việt, dù nói thế cũng dẫn đến sai lầm như chúng tasẽ thấy ở sau. Khi các nhà Phật học tuyên bố hết thảy mọi vật đều Không, họkhông xướng xuất một quan điểm hư vô luận; ngược lại nó hàm ngụ một thực tạitối hậu, vốn không thể đặt dưới các phạm trù luận lý. Với các phạm trù đó, nếunói đến tính cách hữu vi của vạn hữu thì cũng nói luôn hiện hữu của cái hoàntoàn vô vi siêu việt tất cả mọi xác định. Śūnyatā như thế thông thường cũngđược diễn dịch rất chính xác là Tuyệt đối thể. Khi kinh nói rằng năm uẩn có đặctướng (yếu tính) là Không (Không tướng), hay trong tính Không, không có sinh vàdiệt, không có nhiễm, tịnh, v.v…, thì có nghĩa rằng: đừng có gán cho Tuyệt đốithể những phẩm tính quyết định; trong khi nó tiềm tại trong tất cả mọi vật thểcụ thể và cá biệt, nó hoàn toàn không thể định tính. Do đó, phủ định toàn diệntrong triết lý Bát-nhã là một hệ quả tất yếu.

(5) “Không có mắt, tai, v.v…” chỉ cho sáu quan năng. Trongtriết học Phật giáo, ý thức (manovijñāna) là quan năng đặc biệt để trinhận các pháp (dharma) hay các đối tượng của tư tưởng.

(6) “Không có sắc, thanh. v.v…” là sáu phẩm chất của ngoạigiới, chúng làm đối tượng cho sáu quan năng.

(7) “Nhãn giới v.v…,” chỉ cho mười tám giới (dhātu)hay các yếu tố của hiện hữu, chúng gồm sáu giác năng (indriya: căn), sáuphẩm tính (viṣaya: cảnh) và sáu thức (vijñāna).

(8) “Cho đến” (Skt: yāvat; Hán: nãi chí 乃至), rất thông dụng trong văn học Phật giáodùng để tránh lặp lại những đề tài đã biết. Những lối phân loại này hơi có vẻphức tạp và chồng chéo.

(9) “Không có minh, không có vô minh…” là phủ định toàn bộ 12chi duyên khởi (pratītyasamutpāda), gồm vô minh (avidyā), hành (saṁskāra),thức (vijñāna), danh sắc (nāma-rūpa), sáu xứ (ṣaḍāyatana),ái (tṛṣṇā), thủ (upādāna), hữu (bhava),sinh (jāti), già và chết (jarāmaraṇa). 12chi duyên khởi này đã được các học giả đạo Phật thảo luận rất nhiều.

(10) Đương nhiên ám chỉ bốn Thánh đế (satya): 1. Đờisống là đau khổ (duḥkha); 2. Do sự tích tập (samudaya)của các nghiệp xấu; 3. Có thể diệt tận nguyên nhân của khổ (nirodha); 4.Có con đường (mārga) dẫn tới diệt nguyên nhân của khổ.

2. Việt dịch theo bản Hán của Huyền Trang

A.Phiên âm Hán-Việt

Quán Tự tại Bồ-tát, hành thâm Bát-nhã ba-la-mật-đa thời,chiếu kiến ngũ uẩn giai Không, độ nhất thiết khổ ách.

Xá-lợi Tử, Sắc bất dị Không, Không bất dị sắc, sắc tức thịKhông, Không tức thị sắc; thọ, tưởng, hành, thức diệc phục như thị.

Xá-lợi Tử, thị chư pháp Không tướng bất sinh, bất diệt,bất cấu, bất tịnh, bất tăng, bất giảm; thị cố Không trung vô sắc, vô thọ,tưởng, hành, thức; vô nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý; vô sắc, thanh, hương, vị,xúc, pháp; vô nhãn giới nãi chí vô ý thức giới; vô vô minh, diệc vô vô minhtận, nãi chí vô lão tử diệc vô lão tử tận; vô khổ, tập, diệt, đạo; vô trí, diệcvô đắc. Dĩ vô sở đắc cố. Bồ-đề-tát-đỏa y Bát-nhã ba-la-mật-đa cố, tâm vô quáingại; vô quái ngại cố, vô hữu khủng bố, viễn ly điên đảo mộng tưởng, cứu cánhNiết-bàn. Tam thế chư Phật y Bát-nhã ba-la-mật-đa cố đắc A-nậu-đa-latam-miệu-tam-bồ-đề

Cố tri Bát-nhã ba-la-mật-đa thị đại thần chú, thị đại minhchú, thị vô thượng chú, thị vô đẳng đẳng chú, năng trừ nhất thiết khổ, chânthật, bất hư cố; thuyết Bát-nhã ba-la-mật-đa. Tức thuyết chú viết: Yết-đế,yết-đế, ba-la-yết-đế, ba-la-tăng-yết-đế, Bồ đề, tăng sa-ha.

B.Việt dịch[60]

Bồ-tát Quán Tự tại trong khi thực hành Bát-nhã ba-la-mật-đathậm thâm, soi thấy năm uẩn đều Không, vượt qua tất cả mọi khổ ách.

-lợi Tử, sắc không khác Không; Không không khác sắc.Thọ, tưởng, hành, thức cũng vậy. Xá-lợi Tử, đặc tướng Không của các pháp ấykhông sinh,[61]không diệt, không cấu, không tịnh, không tăng, không giảm; do đó, trong Khôngkhông có sắc, thọ, tưởng, hành, thức; không có mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý;không có sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp; không có giới của con mắt, cho đếnkhông có giới của ý thức; không có vô minh, cũng không có sự diệt tận của vôminh, cho đến, không có già và chết, cũng không có sự diệt tận của già và chết;không có khổ, tập, diệt, đạo; không có trí, cũng không có đắc. Vì vô sở đắc.

Bồ-đề-tát-đỏa, do y chỉ Bát-nhã ba-la-mật-đa, tâm không bịbưng kín. Do không bị bưng kín, nên không có sự sợ hãi, xa lìa tất cả điên đảovà mộng tưởng, đạt đến Niết-bàn cứu cánh. Chư Phật trong ba đời do y chỉBát-nhã ba-la-mật-đa mà chứng đắc A-nậu-đa-la tam-miệu-tam-bồ-đề

Do đó nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đa là thần chú vĩ đại, làminh chú vĩ đại, là chú vô thượng, là chú không gì có thể so sánh, diệt trừ tấtcả khổ, chân thật, vì không hư dối, được gọi là chú Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Tứcthuyết chú rằng: yết-đế, yết-đế, ba-la-yết-đế, ba-la-tăng-yết-đế, bồ-đề, tăngsa-bà-ha.


* Các chú thích một phầndo chính tác giả; một số khác là tham chiếu của dịch giả. Những chú thích thamchiếu này đều có ghi TS.

[42]Nhật bản, kinh được gọi là Hannya Shingyô般若心經 hay nói gọn là Shingyô心經. Tại một thiền viện, kinh được tụng trong mọi thời. Có nhiều bản chú giải vàcác thiền sư thường cho một khóa giảng về kinh này.

[43]Thủ bản lưu trữ từ năm 609 tại chùaHôryoji (法隆寺 Pháp long tự), Yamato, một trong những ngôi chùa tối cổ ở Nhật. Nókhá hấp dẫn về mặt khảo cổ vì cung cấp chúng ta “dạng bản tối cổ của mẫu tựSanskrit được dùng cho các mục đích văn học.” Người ta nói thủ bản này được Bồ-đềđạt-ma mang vào Trung hoa, rồi sau đó tới Nhật bản.

[44]Bản Phạn-Hán, có nghĩa là bản phiên âmtừ tiếng Sankrit sang tiếng Trung hoa, ấn hành trong Đại tạng Taishô, tập VIII,số hiệu 256: Đường Phạn phiên đối tự âm Bát-nhã ba-la-mật-đa tâm kinh唐梵翻對字音般若波羅蜜多心經, Quán Tự tại Bồ táttrực tiếp truyền cho Tam tạng Pháp sư Huyền Trang bản Phạn không nhuận sắc. TS

[45]T8n251, tr. 848c4 Bát-nhã ba-la-mật-đatâm kinh般若波羅蜜多心經,Đường Tam tạng Pháp sư Huyền Trang dịch 唐三藏法師玄奘譯. )

[46]Phiên âm theo bản Devanāgari củaSuzuki, tham chiếu Mahāyāna-sūtra-saṁgraha, ed. By Vaidya, The MithilaInstitute, 1961, p.97.

[47]Vaidya: gambjīrāyāṃ. TS

[48]Vaidya: prajñāpāramitāyāṃcaryāṃ.TS

[49]Vaidya: na jñānaṁ na prāptitvam.TS

[50]Vaidya: bodhisattvasya(śca?). TS

[51]Vaidya: viharati cittāvaraṇaḥ.TS

[52]Bản Việt này cố gắng dịch sát theo bảnAnh làm cơ sở tham chiếu cho các bản Hán dịch. Các chú thích trong phần cướcchú là của người dịch được đánh dấu hoa Ả-rập (không ngoặc). Một số cước chú củatác giả (Suzuki) được đánh dấu thập (+). Chú thích của tác giả (Suzuki) được đượcđánh số Ả-rập trong ngoặc đơn ghi ở cuối bản dịch Việt này.

+Có hai điểm đáng lưu ý trong đoạn dịchnày: 1) Bản Hán của Huyền Trang: chiếu kiến ngũ uẩn giai không 照見五蘊皆空; bản Hán của Cưu-ma-la-thập: chiếukiến ngũ ấm không照見五陰空;khác với lối nói: soi thấy có năm uẩn (ấm) rồi mới thấy tự tánh của chúng làkhông. 2) Cả hai bản Hán vừa dẫn đều có câu: vượt qua mọi khổ ách 度一切苦厄, tức nói tới hiệu lực của Bát-nhã. BảnSanskrit hiện hành và bản phiên âm Taishô VIII, No 256 đều không có câu này. TS

[53]Chữ Hán: thị chư pháp Không tướng 是諸法空相. Phạn: iha …sarvadharmāḥ śūnyatālakṣaṇā, “ở đây, tất cả các pháp vốn có đặc tướng(=yếu tính) là tính không.” Ý nghĩa chữ này, có thể đọc nơi luận VI, đoạn nói về8 cái Không. (TS).

[54]Các bản Hán đã dẫn: vô vô minh, diệc vôvô minh tận 無無明。亦無無明盡,không có vô minh và cũng không có sự chấm dứt của vô minh. Đoạn dịch trên tươngđương với bản phiên âm Phạn Hán đọc được trong Taishō như sau: na vidyā nāvidya na vidyākṣhayo nāvidyākṣayo. TS.

++ Nābhisamayaḥ(không hiện quán hay hiện chứng - TS),không có trong các bản Hán dịch cũng như trong thủ bản chùa Pháp long.

[55]Hán: dĩ vô sở đắc cố (Skt. aprāptitvāt), một số chú giải đặt nhân do này lên đoạntrên như bản dịch Anh; một số khác đưa xuống đoạn sau. Prāpti(đắc) và aprāpti(phi đắc) là hai trong số các hànhkhông tương ưng tâm (citta-viprayuktāḥ saṁskārāḥ).Kośa-Bhāṣya, k. ii. 36c-d: dvidhā hi prāptir aprāptaviḥīnasyaca lābhaḥ pratilabdhena ca samanvāgamaḥ, “đắc có hai: 1. sự thu hoạch(thủ đắc) những gì chưa có được hay những gì đã mất; 2. sự sở hữu (thành tựu, cụtúc) những gì đã có được mà chưa mất.” Chỉ khái niệm về sự hiện hữu của một phẩmtính nơi một nhân cách. Nói một người “đắc quả A-la-hán” là khi phẩm tínhA-la-hán hiện hữu nơi vị ấy do đó nhân cách vị ấy được biết như là một Thánh giảA-la-hán. Trong bản Hán, prāptiđược dịch là sở đắc, “cái được thủ đắc.”TS

+++Chữ varaṇa, tất cả các bản Hán đềunói “quái ngại” và như thế hoàn toàn hợp với giáo pháp của Bát nhã. Max Mullerdịch Anh ngữ “envelop”, bao trùm.

[56]Hán: Bồ-tát y Bát-nhã ba-la-mật-đa cốtâm vô quái ngại 依般若波羅蜜多故。心無罣礙:Bồ tát do nương trên Bát-nhã ba-la-mật-đa nên tâm không quái ngại. Skt. bodhisattvasya prajñāpāra­mi­tām āśritya viharato’ cittāvaraṇaḥ,sau khi y chỉ trên Bát-nhã ba-la-mật-đa của Bồ tát, (vị ấy=hành giả) an trụ vớitâm không bị chướng ngại (trùm kín). TS

[57]Skt. gambīrāvasaṁbodhaṁ nāma samādhiṁ;Hán, T8n253: tam-muội tên là Quảng đại thậm thâm 三昧名廣大甚深; T8n254: tam-ma-địa danh Quảng đại thậmthâm chiếu kiến; 三摩地名廣大甚深照見;T8n255: Nhập thậm thâm minh liễu tam-ma-địa pháp 入甚深明了三摩地法. TS

[58]Skt. gambīrayāṁ prajñāpāramitāyāṁcaryāṁ caramaṇo, ngữ pháp, biến cách số 6, chỉ nơi chốn. Ở đây được hiểu làsự tu tập trongBát-nhã ba-la mật-đa, là sở ychứ không phải đốitượng. TS

[59]Dịch sát bản Anh: by Tathāgatas andArhats. Skt. tathāgatair arhadbhiḥ, trong đây, A-la-hán được hiểu làmột phẩm đức của Như Lai. TS

[60]Bản dịch Việt này cố dịch sát theo bảnHán, theo sự lãnh hội phổ thông để có thể so sánh với một vài dị biệt có thể cótrong bản Phạn hiện hành. TS

[61]Dịch theo cách ngắt câu khắc: “Xá-lợi-phất,các pháp, mà yếu tính là Không (Không tướng), vốn không sinh,… „

---o0o---

Tựa tái bản

Tập sách Thiền và Bát-nhã này là phần trích Luận Năm và Luận Sáu, trong bộền luận, tập hạ, của D. T. Suzuki. Tập này gồm các thiên luận vềộđược xuất bản lầnđầu do An tiêm, năm 1972. Sởĩản toàn bộ, vì người dịch thấy cần phảiđọc lại bản dịch trướcđó,đểửa chữa và bổững sai lầm và thiếu sót nhấtđịnh phải có; mà công việc này chưa gặpđược thuận duyênđểực hiện. Vì vậy, chúng tôi sẽửa chữa từng phần, từng thiên luận, và sẽản dần.Thi Hoa nghiêm và Bát-nhã. Toàn bd không tái b s túc nh th s tái b

Nhân dịpđọc lại và sửa chữa, chúng tôi cũng thêm vào khá nhiều văn bản, tưệu liên quan đến Tâm kinh Bát-nhã. Các văn bản tưệu này giúp các độc giảơởđểựưệm những ý nghĩa tiềmẩn của Tâm kinh Bát-nhã mà các bản luận giải không thểếđểận thứcđược. Các tưệuđược cung cấp trongđây cũng chỉởừng mức có tính cách gợi ý. Vì nền văn học Bát-nhã, riêng trong Hán tạng, gồm các bản dịch và chú giải, quảật vô cùng đồộ, mà trong điều kiện hiện tại của trình độứu Phật học Việt nam thì công trình phiên dịch khó có thểực hiện chođầyđủươngđối chính xácđược. Dođó, người dịch mong độc giảếu cảm thấy cóđôi chút hứng thú với các tưệuđược cung cấpởđây, thì cũng chỉứng thú trong chừng mực vừa phải với nhận thức văn tự, ngoài ra thì tựưếu,đểượt qua giới hạn ngôn ngữ,đạtđược cho mình nhữngđiều ý tại ngôn ngoại.li li có thêm c st mình t duy và chiêm nghi thay thnh lich th s nghiên c th và t n linên h mình t duy quán chi v

Phật lịch 2547

Quảng Hương Già-lam

Tuệ S

cẩn chí

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567