Phẩm Bạt-Xà-Tử: Kết tập Pháp tạng.
-ooOoo-
Bấy giờ, theo thời gian ngày đêm, thánh chúng tuần tự ra đi. Sau khi Thế Tôn Niết-bàn 100 năm (Vassasataparinibbute Bhagavati), trong nhóm Tỳ-kheo Bạt-Xà-Tử ở thành Tỳ-Xá-Ly (Vesàlikà Vajjiputtakàbhikkhù) phát sinh mười điều phi pháp ở Tỳ-Xá-Ly. Mười điều ấy là:
- Một, diêm tịnh - muối tịnh. (kappati singilonakappo)
- Hai, nhị chỉ tịnh - hai ngón tay (kappati dvangulakappo)
- Ba, tụ lạc gian tịnh - giữa hai làng xóm tịnh (kappati gàmantarakappo)
- Bốn, trú xứ tịnh (kappati àvàsakappo)
- Năm, tùy ý tịnh (kappati anumatikappo)
- Sáu, cửu trú tịnh (kappati àcinnakappo)
- Bảy, sinh hòa hợp tịnh (kappati amathitakappo)
- Tám, thủy tịnh (kappati jalogi pàtum)
- Chín, bất ích lũ ni-sư đàn tịnh - tọa cụ không biên tịnh (kappati adasakam nisidànam)
- Mười, kim ngân tịnh (kappati jàtarùparajatam).
Mười điều phi pháp này xuất hiện tại Tỳ-Xá-Ly. Có người con của Tu-Na-Ca thuộc giòng Bạt-Xà-Tử tên là A-Tu ( Tesam Susunàgaputto Kàlàsoko nàma ràjà pakkho ahosi) làm vua và ủng hộ phe Bạt-Xà-Tử. Khi ấy, trưởng lão Da-Tu-Câu-Ca (Yasa Kàkandakaputta) là con của Ca-Càn-Đà, đang đi dần vào vùng Bạt-Xà, nghe xuất hiện mười điều phi pháp tại thành Tỳ-Xá-Ly do nhóm Tỳ-kheo Bạt-Xà-Tử. Vì nghĩ rằng ta không nên ở mãi đây mà để cho pháp đức Thập-lực bị phá hoại, hãy tìm phương tiện diệt ác pháp ấy nên trưởng lão đi đến Tỳ-Xá-Ly. Khi ấy, trưởng lão Da-Tu-Câu Ca-Kiền-Đà-Tử trú ở giảng đường Cưu-tá-già-la thuộc rừng Đại-Lâm.
Trong lúc thuyết giới, các Tỳ-kheo Bạt-Xà-Tử đem bát đựng đầy nước đặt giữa Tỳ-kheo tăng. Khi các Ưu-bà-tắc (upàsaka) ở Tỳ-Xá-Ly đến, những Tỳ-kheo ấy bảo họ tùy ý cúng dường tiền cho chúng tăng, nửa tiền (màsaka), hay một tiền để tăng sắm y phục... tất cả nhu cầu được nói ra. Sự việc kết tập Tỳ-ny tạng này với đúng số 700 Tỳ-kheo nên gọi là Bảy trăm Tỳ-kheo kết tập Tỳ-ny tạng. Có hai vạn Tỳ-kheo tập họp trong hội này. Trưởng lão Tỳ-kheo Da-Tư-Na đứng ra vận động tổ chức việc này. Giữa chúng Tỳ-kheo Bạt-Xà-Tử, trưởng lão Ly-Bà-Đa (Revata) hỏi và Tát-Bà-Ca (Sabbakàmin) đáp, cùng nhau đem luật tạng ra để quyết đoán mười việc phi pháp và dập tắt sự tranh chấp.
Sau đó, Tát-Bà-Ca thưa: - Đại đức, giờ đây chúng ta nên kết tập pháp và luật.
Họ chọn lựa những vị Tỳ-kheo thông suốt ba tạng cho đến những vị chứng ba đạt trí. Sau khi chọn xong, tại vườn Bà-Lỵ-Ca (Vàtukàràma) ở Tỳ-Xá-Ly, khi đại chúng đã tập họp, tiến hành theo đúng như lúc Ca-Diếp kết tập pháp tạng lần đầu. Tất cả sự cấu bẩn trong Phật pháp đều bị loại trừ, y cứ vào tạng để hỏi, y cứ A-hàm để hỏi, y cứ chi tiết để hỏi, y cứ các pháp-tụ để hỏi (Pitakavasena, Nikàyavasena, Angavasena Dhammakkhandhavasena); tất cả pháp-tạng và Tỳ-ny tạng đều được kết tập hết. Như vậy, vào tháng tám, đại chúng này đã kết tập xong.
Có kệ khen ngợi:
Bảy trăm vị trong đời,
Gọi Bảy-trăm kết tập,
Như đã nói ở trước,
Các vị nên biết vậy.
Khi ấy, Tát-Bà-Ca-My (Sabbakàmin), Tô-Mị (Sàlha), Ly-Bà-Đa, Quật-Xà-Tu-Tỳ-Đa, Da-Tu (Revata, Khujjasobhita, Yasa), Bà-Na-Tham-Phục-Đa (Sànasambhùta) đều là đệ tử của đại đức A-Nan-Đà. Hai vị Tu-Ma-Nậu-Bà (Sumana), Ta-Già-Mi (Vàsabhagàmin) đều là đệ tử của A-Nậu-Lưu-Đà (Anurudha), đã từng gặp đức Phật; nói kệ:
Đại chúng họp lần hai,
Nói lại hết đại pháp,
Pháp được kết tập lại,
Làm xong việc cần làm,
Các Tỳ-kheo lậu tận,
Gọi kết tập lần hai.
Gửi ý kiến của bạn