KINH TRƯỜNG A HÀM
Hán Dịch: Phật Ðà Da Xá & Trúc Phật Niệm
Việt dịch: Thích Tuệ Sỹ
PHẦNIV
Phậtbảo Tỳ-kheo:
“Trênđỉnh Tu-di sơn vương có thành của trời Tam thập tam. Thànhdọc ngang rộng tám vạn do-tuần; có bảy lớp với bảy lớplan can, bảy lớp lưới, bảy lớp hàng cây, trang hoàng chungquanh bằng bảy thứ báu. Thành cao một trăm do-tuần, phầntrên rộng sáu mươi do-tuần. Cửa thành cao sáu mươi do-tuần,rộng ba mươi do-tuần. Cách nhau năm trăm do-tuần là có mộtcái cửa; tại mỗi cửa này có năm trăm quỷ thần giữ gìnbảo vệ trời Tam thập tam. Thành bằng vàng thì cửa bằngbạc, thành bạc thì cửa vàng. Cho đến vô số các loài chimcùng nhau ca hót bi thương, cũng lại như vậy.
“Trongthành lớn này lại có thành nhỏ, dọc ngang rộng sáu vạndo-tuần. Thành có bảy lớp với bảy lớp lan can, bảy lớplưới, bảy lớp hàng cây, trang hoàng chung quanh bằng bảythứ báu. Thành cao một trăm do-tuần, rộng sáu mươi do-tuần.Cửa thành cách nhau năm trăm do-tuần, cao sáu mươi do-tuần,rộng ba mươi do-tuần; tại mỗi cửa thành có năm trăm quỷthần thị vệ tại bên cửa, để giữ gìn trời Tam thậptam. Thành bằng vàng thì cửa bằng bạc, thành bằng bạc thìcửa bằng vàng; thành bằng thủy tinh thì cửa bằng lưu ly,thành bằng lưu ly thì cửa bằng thủy tinh; thành bằng xíchchâu thì cửa bằng mã não, thành bằng mã não thì cửa bằngxích châu; thành bằng xa cừ thì cửa bằng các thứ báu khác.
“Vềlan can này: nếu lan can bằng vàng thì tam cấp bằng bạc, lancan bằng bạc thì tam cấp bằng vàng; lan can bằng thủy tinhthì tam cấp bằng lưu ly, lan can bằng lưu ly thì tam cấp bằngthủy tinh; lan can bằng xích châu thì tam cấp bằng mã não,lan can bằng mã não thì tam cấp bằng xích châu; lan can bằngxa cừ thì tam cấp bằng các thứ báu khác. Trên những lancan này có lưới báu; dưới lưới vàng thì treo linh bạc,dưới lưới bạc thì treo linh vàng; lưới bằng lưu ly thìtreo linh bằng thủy tinh, lưới bằng thủy tinh thì treo linhbằng lưu ly; lưới bằng xích châu thì treo linh bằng mã não,lưới bằng mã não thì treo linh bằng xích châu; lưới bằngxa cừ thì treo linh bằng các thứ báu khác. Về cây vàng: nếurễ vàng, cành vàng thì lá hoa bằng bạc ròng. Về cây bạc:nếu rễ bạc, cành bạc thì lá hoa bằng vàng ròng. Về câythủy tinh: nếu rễ, cành bằng thủy tinh thì lá, hoa bằnglưu ly. Về cây lưu ly: nếu rễ, cành bằng lưu ly thì lá hoabằng thủy tinh. Về cây xích châu: nếu rễ, cành bằng xíchchâu thì lá hoa bằng mã não. Về cây mã não: nếu rễ, cànhbằng mã não thì lá hoa bằng xích châu. Về cây xa cừ: nếurễ, cành bằng xa cừ thì lá hoa bằng các thứ báu khác.
“Vềbảy lớp thành này: thành có bốn cửa, cửa có lan can. Trênbảy lớp thành đều có đền đài, lầu các bao bọc chungquanh, có vườn rừng ao tắm, sinh ra các loài hoa quý nhiềumàu sắc xen lẫn nhau, cây báu thành hàng, hoa trái tốt tươiđầy dẫy, hương thơm bay phảng phất khắp nơi làm đẹplòng mọi người. Có chim le, chim nhạn, uyên ương, cùng cácloài chim kỳ lạ, vô số hàng ngàn loại, cùng nhau ca hót.
“Khoảnggiữa bên ngoài thành nhỏ này có cung điện của Long vươngY-la-bát, dọc ngang rộng sáu ngàn do-tuần. Vách tường củacung điện có bảy lớp, bảy lớp lan can, bảy lớp lưới,bảy lớp hàng cây, trang hoàng chung quanh bằng bảy thứ báu.cho đến vô số các loài chim cùng nhau ca hót líu lo, cũng lạinhư vậy.
“Trongthành Thiện kiến này có Thiện pháp đường, dọc ngang mộttrăm do-tuần; có bảy lớp lan can, bảy lớp lưới, bảy lớphàng cây, trang hoàng chung quanh bằng bảy thứ báu. Nền nhàhoàn toàn bằng vàng ròng, trên mặt phủ lưu ly. Chu vi nhữngcây cột trong nhà này là mười do-tuần, cao một trăm do-tuần,dưới những trụ cột của ngôi nhà này là nơi đặt ngựtòa của Thiên đế , bề ngang rộng độ một do-tuần, cónhiều màu sắc xen lẫn nhau được tạo thành bởi bảy thứbáu. Ngự tòa này êm ái, mềm mại như lụa trời và bên tảbên hữu, giáp hai bên tòa, có mười sáu chỗ ngồi.
“Phápđường này có bốn cửa; chung quanh là lan can bằng bảy thứbáu. Đường cấp của ngôi nhà này dọc ngang năm trăm do-tuần,có bảy lớp cửa ngoài, bảy lớp lan can, bảy lớp lưới,bảy lớp hàng cây, trang hoàng chung quanh bằng bảy thứ báu...cho đến, vô số các loài chim cùng nhau ca hót líu lo, cũnglại như vậy.
“PhíaBắc ngôi nhà Thiện kiến có cung điện Đế Thích, dọc ngangmột ngàn do-tuần; tường vách cung điện có bảy lớp vớibảy lớp lan can, bảy lớp lưới, bảy lớp hàng cây, tranghoàng chung quanh bằng bảy thứ báu... cho đến, vô số cácloài chim cùng nhau ca hót líu lo, cũng lại như vậy.
“PhíađĐông ngôi nhà Thiện kiến có vườn rừng tên là Thô sáp,ngang rộng độ một ngàn do-tuần; tường vách cung điện cóbảy lớp với bảy lớp lan can, bảy lớp lưới, bảy lớphàng cây, trang hoàng chung quanh bằng bảy thứ báu... cho đếnvô số các loài chim cùng nhau ca hót líu lo, cũng lại như vậy.Trong vườn Thô sáp có hai ụ đá do vàng trời trang sức, mộtgọi là Hiền, hai gọi là Thiện hiền, bề ngang mỗi ụ rộngnăm mươi do-tuần, đá này mềm mại, độ mềm mại của nónhư vải trời.
“PhíaNam cung điện Thiện kiến có khu vườn tên là Họa lạc,ngang rộng một ngàn do-tuần; vách tường của khu vườn cóbảy lớp với bảy lớp lan can, bảy lớp lưới, bảy lớphàng cây, trang hoàng chung quanh bằng bảy thứ báu... cho đếnvô số các loài chim cùng nhau ca hót líu lo, cũng lại như vậy.Trong vườn này có hai ụ đá bằng bảy thứ báu, một làHọa, hai là Thiện họa, bề ngang mỗi ụ rộng độ năm mươido-tuần, ụ đá này mềm mại, độ mềm mại của nó nhưthiên y.
“PhíaTây ngôi nhà Thiện kiến có khu vườn tên là Tạp, ngang rộngmột ngàn do-tuần, bờ tường của khu vườn có bảy lớp,bảy lớp lan can, bảy lớp lưới, bảy lớp hàng cây, tranghoàng chung quanh bằng bảy thứ báu... cho đến vô số cácloài chim cùng nhau ca hót líu lo, cũng lại như vậy. Trong khuvườn này có hai ụ đá, một là Thiện kiến, hai là Thuậnthiện kiến, do vàng trời trang sức và do bảy báu tạo thành,bề ngang mỗi ụ rộng độ năm mươi do-tuần, ụ đá nàymềm mại và độ mềm mại của nó như thiên y.
“PhíaBắc ngôi nhà Thiện kiến có khu vườn tên là Đại hỷ, ngangrộng một ngàn do-tuần, bờ tường của khu vườn có bảylớp, bảy lớp lan can, bảy lớp võng lưới, bảy lớp hàngcây, trang hoàng chung quanh bằng bảy thứ báu... cho đến vôsố các loài chim cùng nhau ca hót líu lo, cũng lại như vậy.Trong vườn này có hai ụ đá, một gọi là Hỷ, hai gọi làĐại hỷ, do xa cừ trang sức, ngang rộng năm mươi do-tuần,ụ đá này mềm mại, độ mềm mại của nó như thiên y.
“Ởquãng giữa vườn Thô sáp và vườn Họa nhạc có ao Nan-đà,ngang rộng một trăm do-tuần; nước của nó lắng trong, khôngcó một chút bợn nhơ, chung quanh bên cạnh thềm là bảy lớphào báu, bảy lớp lan can, bảy lớp lưới, bảy lớp hàngcây, trang hoàng chung quanh bằng bảy thứ báu. Bốn phía hồnày có bốn bậc thang, chung quanh lan can làm bằng bảy báu, cho đến có vô số các loài chim cùng nhau ca hót líu lo, lạicũng như vậy.
“Lạinữa trong ao này lại sinh ra bốn loại hoa xanh, vàng, đỏ,trắng, hồng, xanh nhạt, nhiều màu xen lẫn nhau; bóng rợpcủa một lá hoa này che một do-tuần; hương thơm phảng phấtkhắp một do-tuần; rễ của nó như ổ trục xe, nhựa củanó lưu xuất ra có màu trắng như sữa, vị ngọt như mật.Bốn phía ao này lại có những khu vườn.
“Giữahai khu vườn Tạp và khu vườn Đại hỷ có cây tên là Trúđộ, chu vi độ bảy do-tuần, cao một trăm do-tuần, cành lábao trùm ra bốn phía độ năm mươi do-tuần, ngoài cây có ngôiđình trống, bề ngang rộng năm trăm do-tuần, bờ tường củacung điện có bảy lớp, bảy lớp lan can, bảy lớp võng lưới,bảy lớp hàng cây, trang hoàng chung quanh bằng bảy thứ báu...cho đến vô số các loài chim cùng nhau ca hót líu lo, cũng lạinhư vậy.
“Ngoàira các cung điện khác của Đao-lợi thiên, ngang rộng mộtngàn do-tuần, tường cung điện có bảy lớp với bảy lớplan can, bảy lớp võng lưới, bảy lớp hàng cây, trang hoàngchung quanh bằng bảy thứ báu... cho đến vô số các loài chimcùng nhau ca hót líu lo, cũng lại như vậy. Những cung điệnnày ngang rộng từ chín trăm, tám trăm cho đến nhỏ nhấtlà một trăm do-tuần, bờ tường cung điện có bảy lớp,bảy lớp lan can, bảy lớp võng lưới, bảy lớp hàng cây,trang hoàng chung quanh bằng bảy thứ báu... cho đến vô sốcác loài chim cùng nhau ca hót líu lo, cũng lại như vậy. Nhữngcung điện nhỏ, ngang rộng từ một trăm do-tuần, chín mươi,tám mươi, cho đến cực nhỏ là mười hai do-tuần, bờ tườngcủa cung điện có bảy lớp, bảy lớp lan can, bảy lớp võnglưới, bảy lớp hàng cây, trang hoàng chung quanh bằng bảythứ báu... cho đến vô số các loài chim cùng nhau ca hót líulo, cũng lại như vậy.
“PhíaBắc ngôi nhà Thiện kiến có hai đường cấp dẫn đến cungđiện Đế Thích. Phía Đông ngôi nhà Thiện kiến có hai đườngcấp dẫn đến khu vườn Thô sáp; lại có hai đường cấpdẫn đến vườn Họa lạc; lại có đường cấp dẫn đếntrong khu vườn Tạp; lại có đường cấp dẫn đến khu vườnĐại hỷ; lại có đường cấp dẫn đến ao Đại hỷ ; lạicó đường cấp dẫn đến cây Trú độ; lại có đường cấpdẫn đến cung điện Tam thập tam thiên; lại có đường cấpdẫn đến cung điện chư Thiên; lại có đường cấp dẫnđến cung điện Y-la-bát Long vương. Nếu khi Thiên Đế Thíchmuốn du ngoạn đến trong vườn Thô sáp, liền nghĩ đến vịđại thần của trời Tam thập tam, thì đại thần Tam thậptam thiên lại tự nghĩ rằng: Hiện nay Đế Thích đang nghĩđến ta. Liền tự mình sửa soạn trang bị, đóng ngựa vàoxe báu, cùng với vô số mọi người vây quanh trước sau đếnđứng một bên trước Đế Thích. Khi Đế Thích nghĩ đếnchư Thiên khác, thì chư Thiên nghĩ rằng: Hiện nay Đế Thíchđang nghĩ đến ta. Liền tự mình sửa soạn trang bị, cùngvới vô số chúng chư Thiên theo nhau đến đứng một bên trướcĐế Thích. Khi Đế Thích nghĩ đến Y-la-bát Long vương, thìY-la-bát Long vương lại tự nghĩ rằng: Hiện nay Đế Thíchđang nghĩ đến ta. Long vương liền tự biến hóa thân hìnhra ba mươi ba cái đầu, mỗi cái đầu có sáu cái răng, mỗicái răng có bảy hồ tắm, mỗi hồ tắm có bảy hoa sen lớn,mỗi hoa sen có một trăm lá, mỗi lá hoa có bảy ngọc nữ,ca nhạc, múa xướng, đánh trống, khảy đàn, vỗ nhịp ởtrên đó. Sau khi vị Long vương biến hóa như vậy rồi, điđến đứng một bên trước Đế Thích.
“Lúcnày, Thích-đề-hoàn Nhân mặc vào thân mình những đồ trangsức quý báu cùng anh lạc, ngồi trên đầu thứ nhất củaY-la-bát Long vương, kế đó, hai bên mỗi đầu còn có mườisáu vị Thiên vương ở trên đỉnh đầu Long vương này, theothứ tự mà ngồi. Bấy giờ, Thiên Đế Thích cùng với vôsố quyến thuộc chư Thiên vây quanh đến vườn Thô sáp, tựnhiên có gió thổi cửa tự động mở, tự nhiên có gió thổikhiến cho đất sạch; tự nhiên có gió thổi làm những đóahoa rơi khắp mặt đất và tích tụ hoa rụng lại ngập đếncả đầu gối. Lúc này Thiên Đế Thích ngồi trên hai ụ đáHiền và Thiện hiền theo ý thích, còn Ba mươi ba vị Thiênvương mỗi người tự theo thứ tự mà ngồi. Lại nữa, cónhững chư Thiên không được phép theo hầu để đến thamquan viên quán này, không được vào vườn để vui đùa ngũdục. Vì sao? Vì công đức mà họ vốn thực hành không đồng.Lại có những chư Thiên thấy được khu vườn mà không vàođược và không được cùng nhau vui đùa ngũ dục. Vì sao?Vì công đức mà họ vốn thực hành không đồng. Lại cónhững chư Thiên thấy được, vào được, nhưng không đượccùng nhau vui đùa ngũ dục. Vì sao? Vì công đức mà họ vốnthực hành không đồng. Lại có những chư Thiên vào được,thấy được và vui đùa ngũ dục được. Vì sao? Vì công đứcmà họ vốn thực hành đồng nhau.
“Sauthời gian du hí trong vườn, chư Thiên đã tự vui ngũ dục,từ một ngày, hai ngày, cho đến bảy ngày, họ đã cùng nhauvui đùa xong và mỗi người tự trở về cung điện. Khi ThiênĐế Thích du ngoạn vườn Họa lạc, vườn Tạp, vườn Đạihỷ cũng lại như vậy.
“Vìsao gọi là vườn Thô sáp? Vì lúc vào trong vườn này, thìthân thể trở nên thô nhám. Vì sao gọi là vườn Họa lạc?Vì lúc vào vườn này, thì thân thể tự nhiên có những sắcmàu như vẽ dùng để vui đùa. Vì sao gọi là vườn Tạp?Vì thường những ngày mùng tám, ngày mười bốn, ngày mườilăm của mỗi tháng, ngoại trừ người nữ A-tu-luân, các thểnữ được thả tự do để cùng các Thiên tử ở trong vườnnày cùng du hí hỗn tạp với nhau, cho nên gọi là vườn Tạp.Vì sao gọi là vườn Đại hỷ? Vì lúc vào vườn này, thìcó thể vui đùa một cách hoan hỷ, cho nên gọi là Đại hỷ.Vì sao gọi là nhà Thiện pháp? Vì ở trên ngôi nhà này màtư duy về pháp vi diệu, nhận lãnh cái vui thanh tịnh, cho nêngọi là nhà Thiện pháp. Vì sao gọi là cây Trú độ? Vì câynày có vị thần tên là Mạn-đà thường thường tấu nhạcđể tự vui đùa, cho nên gọi là Trú độ. Lại nữa, cànhnhánh của cây lớn này vươn ra bốn phía, hoa lá rậm rạptốt tươi như đám mây báu lớn, cho nên gọi là Trú độ.
“Haibên tả hữu của Thích Đề-hoàn Nhân thường có mười đạiThiên tử theo sau để hầu hạ và bảo vệ đó là: một tênlà Nhân-đà-la, hai tên là Cù-di, ba tên là Tỳ-lâu, bốn tênlà Tỳ-lâu-bà-đề, năm tên là Đà-la, sáu tên là Bà-la, bảytên là Kỳ-bà, tám tên là Linh-hê-nậu, chín tên là Vật-la,mười tên là Nan-đầu. Thích Đề-hoàn Nhân có thần lựclớn và oai đức như vậy.
Cácloại hoa mọc trong nước mà người Diêm-phù-đề quý như:Ưu-bát-la, Bát-đầu-ma, Câu-vật-đầu, Phân-đà-lỵ, Tu-càn-đầu,hương thơm của chúng thanh khiết nhẹ nhàng. Cũng vậy, cácloại hoa mọc ra trên đất liền; đó là: Giải thoát hoa, Đảm-bặc-hoa,Bà-la-đà-hoa, Tu-mạn-châu-na hoa, Bà-sư hoa, Đồng nữ hoa.Giống như những hoa sinh ra ở nước, ở đất liền, thì nhữnghoa sinh ra ở Câu-da-ni, Uất-đan-viết, Phất-vu-đãi, Long cung,Kim sí điểu cung cũng lại như vậy. Những hoa sinh ra ở trongthủy cung của A-tu-luân: hoa Ưu-bát-la, hoa Bát-đầu-ma, hoaCâu-vật-đầu, hoa Phân-đà-lỵ, hương thơm của chúng nhẹnhàng thanh khiết. Những hoa sinh ra nơi đất liền: hoa Thù-hảo,hoa Tần-phù, hoa đại Tần-phù, hoa Già-già-lợi, hoa đạiGià-già-lợi, hoa Mạn-đà-la, hoa đại Mạn-đà-la. Những hoasinh ra ở nước, ở đất liền này được Tứ thiên vương,Tam thập tam thiên, Diễm-ma thiên, Đâu-suất thiên, Hóa tựtại thiên, Tha hóa tự tại thiên yêu quý cũng lại như vậy.
“CõiTrời có mười loại pháp; đó là: một, bay đi không hạnsố; hai, bay đến không hạn số; ba, đi vô ngại; bốn, đếnvô ngại; năm, thân Trời không có da, xương, gân, mạch, máu,thịt; sáu, thân không có việc đại, tiểu tiện bất tịnh;bảy, thân không mệt nhọc; tám, Thiên nữ không sinh đẻ;chín, mắt Trời không nháy; mười, thân tùy thuộc vào màusắc của ý mình, như thích xanh thì hiện xanh, thích vàng thìvàng, đỏ, trắng và các màu khác tùy theo ý mình mà hiện.Đó là mười pháp của chư Thiên.
“Conngười có bảy màu sắc, đó là: có người màu lửa, có ngườimàu xanh, có người màu vàng, có người màu đỏ, có ngườimàu đen, có người màu trắng. Chư Thiên, A-tu-luân cũng cóbảy màu sắc như vậy.
“CácTỳ-kheo, ánh sáng của con đom đóm không bằng đèn, nến;ánh sáng của đèn, nến không bằng bó đuốc; ánh sáng củabó đuốc không bằng đống lửa; ánh sáng của đống lửakhông bằng ánh sáng của sắc thân, y phục, anh lạc, thànhquách, cung điện của Tứ thiên vương; ánh sáng của sắcthân, y phục, anh lạc, thành quách, cung điện của Tứ thiênvương không bằng ánh sáng của Tam thập tam thiên; ánh sángcủa Tam thập tam thiên không bằng ánh sáng của Diệm-ma thiên;ánh sáng của Diệm-ma thiên không bằng ánh sáng của Đâu-suấtthiên, ánh sáng của Đâu-suất thiên không bằng ánh sáng củaHóa tự tại thiên; ánh sáng của Hóa tự tại thiên khôngbằng ánh sáng của Tha hóa tự tại thiên; ánh sáng của Thahóa tự tại thiên không bằng ánh sáng của sắc thân, y phục,cung điện Phạm-ca-di thiên; ánh sáng của sắc thân, y phục,cung điện Phạm-ca-di thiên không bằng ánh sáng của Quang âmthiên; ánh sáng của Quang âm thiên không bằng ánh sáng củaBiến tịnh thiên; ánh sáng của Biến tịnh thiên không bằngánh sáng của Quả thật thiên; ánh sáng của Quả thật thiênkhông bằng ánh sáng của Vô tưởng thiên; ánh sáng của Vôtưởng thiên không bằng ánh sáng của Vô tạo thiên; ánh sángcủa Vô tạo thiên không bằng ánh sáng của Vô nhiệt thiên;ánh sáng của Vô nhiệt thiên không bằng ánh sáng của Thiệnkiến thiên; ánh sáng của Thiện kiến thiên không bằng ánhsáng của Đại Thiện kiến thiên; ánh sáng của Đại Thiệnkiến thiên không bằng ánh sáng của Cứu cánh thiên; ánh sángcủa Cứu cánh thiên không bằng ánh sáng của Tha hóa tự tạithiên; ánh sáng của Tha hóa tự tại thiên không bằng ánhsáng của Phật. Từ ánh sáng của con đom đóm đến ánh sángcủa Phật, mà kết hợp những thứ ánh sáng như vậy lại,thì cũng không bằng ánh sáng của Khổ đế, Tập đế, Diệtđế và Đạo đế. Cho nên, các Tỳ-kheo! Muốn tìm cầu ánhsáng, thì phải cầu ánh sáng của Khổ đế, Tập đế, Diệtđế và Đạo đế. Các ngươi nên như vậy mà tu hành.
“Thânngười ở cõi Diêm-phù-đề cao ba khuỷu tay rưỡi; y dài bảykhuỷu tay, rộng ba khuỷu tay rưỡi. Thân người ở Cù-da-ni,Phất-vu-đãi cũng cao ba khuỷu tay; y dài bảy khuỷu tay, rộngba khuỷu tay rưỡi. Thân người Uất-đan-viết cao bảy khuỷutay; y dài mười bốn khuỷu tay, rộng bảy khuỷu tay. ThânA-tu-luân cao một do-tuần; y dài hai do-tuần, rộng một do-tuần,y dày sáu lạng. Thân của Tứ thiên vương cao nửa do-tuần;y dài một do-tuần, rộng nửa do-tuần, y dày nửa lạng. Thâncủa Đao-lợi thiên cao một do-tuần; y dài hai do-tuần, rộngmột do-tuần, y dày sáu lạng. Thân của Diệm-ma thiên cao haido-tuần; y dài bốn do-tuần, rộng hai do-tuần, y dày ba lạng.Thân của Đâu-suất thiên cao bốn do-tuần; y dài tám do-tuần,rộng bốn do-tuần, y dày một lạng rưỡi. Hóa tự tại thiêncao tám do-tuần; y dài mười sáu do-tuần, rộng tám do-tuần,y dày một lạng. Thân của Tha hóa tự tại thiên cao mườisáu do-tuần; y dài ba mươi hai do-tuần, rộng mười sáu do-tuần,y dày nửa lạng. Từ chư Thiên trở lên, mỗi nơi tùy theothân hình của họ mà mặc y phục.
“Tuổithọ của người Diêm-phù-đề là một trăm năm, ít ai vượtqua khỏi; mà phần nhiều là dưới. Tuổi thọ của ngườiCâu-da-ni là hai trăm năm, ít ai vượt qua khỏi, mà phần nhiềulà dưới. Tuổi thọ của người Phất-vu-đãi là ba trăm năm,ít ai vượt qua khỏi, mà phần nhiều là dưới. Tuổi thọcủa người Uất-đan-viết là một ngàn năm, không có tănghay giảm. Tuổi thọ của ngạ quỷ là bảy vạn năm, ít aivượt qua khỏi, mà phần nhiều là dưới. Tuổi thọ củaloài rồng và Kim sí điểu là một kiếp, hoặc có giảm đi.Tuổi thọ của A-tu-luân là một ngàn năm của cõi trời, ítai vượt qua khỏi, mà phần nhiều là dưới. Tuổi thọ củaTứ thiên vương là năm trăm năm của cõi trời, ít ai vượtqua khỏi, mà phần nhiều là dưới. Tuổi thọ của Đao-lợithiên là một ngàn năm của cõi trời, ít ai vượt qua khỏi,mà phần nhiều là dưới. Tuổi thọ của Diệm-ma thiên làhai ngàn năm của cõi trời, ít ai vượt qua khỏi, mà phầnnhiều là dưới. Tuổi thọ của Đâu-suất thiên là bốn ngànnăm của cõi trời, ít ai vượt qua khỏi, mà phần nhiều làdưới. Tuổi thọ của Hóa tự tại thiên là tám ngàn nămcủa cõi trời, ít ai vượt qua khỏi, mà phần nhiều là dưới.Tuổi thọ của Tha hóa tự tại thiên là sáu ngàn năm củacõi trời, ít ai vượt qua khỏi, mà phần nhiều là dưới.Tuổi thọ của Phạm-ca-di thiên là một kiếp, hoặc có giảmbớt. Tuổi thọ của Quang âm thiên là hai kiếp, hoặc có giảmbớt. Tuổi thọ của Biến tịnh thiên là ba kiếp, hoặc cógiảm bớt. Tuổi thọ của Quả thật thiên là bốn kiếp,hoặc có giảm bớt. Tuổi thọ của Vô tưởng thiên là nămtrăm kiếp, hoặc có giảm bớt. Tuổi thọ của Vô tạo thiênlà một ngàn kiếp, hoặc có giảm bớt. Tuổi thọ của Vônhiệt thiên là hai ngàn kiếp, hoặc có giảm bớt. Tuổi thọcủa Thiện kiến thiên là ba ngàn kiếp, hoặc có giảm bớt.Tuổi thọ của Đại Thiện kiến thiên là bốn ngàn kiếp,hoặc có giảm bớt. Tuổi thọ của Sắc cứu cánh thiên lànăm ngàn kiếp, hoặc có giảm bớt. Tuổi thọ của Không xứthiên là một vạn kiếp, hoặc có giảm bớt. Tuổi thọ củaThức xứ thiên là hai vạn một ngàn kiếp, hoặc có giảmbớt. Tuổi thọ của Bất dụng xứ thiên là bốn vạn haingàn kiếp, hoặc có giảm bớt. Tuổi thọ của Hữu tưởngvô tưởng thiên là tám vạn bốn ngàn kiếp, hoặc có giảmbớt. Trong giới hạn ấy, được gọi là chúng sanh; trong giớihạn ấy được gọi làlà tuổi thọ; trong giới hạn ấyđược gọi là thế giới; trong giới hạn ấy là sự luânchuyển của tập hợp uẩn, xứ, giới, qua lại trong các cõi,sanh, già, bệnh, chết.”
Phậtbảo Tỳ-kheo:
“Tấtcả chúng sanh do bốn loại thức ăn mà tồn tại. Một làđoàn tế hoạt thực. Hai là xúc thực. Ba là niệm thực. Bốnlà thức thực. Những loại thức ăn này chúng sanh ăn khônggiống nhau. Như người cõi Diêm-phù-đề dùng các loại cơm,bún mì, cá thịt, gọi là loại đoàn thực. Y phục, tắm giặt,được gọi là tế hoạt thực. Người Câu-da-ni, Phất-vu-đãicũng ăn các loại cơm, bún mì, cá thịt được gọi là đoànthực; y phục, tắm giặt là tế hoạt thực. Người Uất-đan-viếtthì chỉ ăn lúa gạo chín tự nhiên, đầy đủ vị trời lấylà đoàn thực; cũng lấy y phục, tắm giặt làm tế hoạtthực. Loài rồng, Kim sí điểu, thì ăn các con giải, con đà,con cá, con ba-ba lấy làm đoàn thực và tắm gội, y phục làmtế hoạt thực. A-tu-luân thì ăn đoàn thực sạch lấy làmđoàn thực và lấy tắm giặt, y phục làm tế hoạt thực.Tứ thiên vương, Đao-lợi thiên, Diệm-ma thiên, Đâu-suấtthiên, Hóa tự tại thiên, Tha hóa tự tại thiên ăn loại đoànthực sạch lấy làm đoàn thực và tắm giặt, y phục làmtế hoạt thực. Chư Thiên từ đây trở lên dùng hỷ lạcthiền định làm thức ăn.
“Nhữngchúng sanh nào dùng xúc thực? Những chúng sanh, sinh ra từ trứngdùng xúc thực.
“Nhữngchúng sanh nào dùng niệm thực? Có chúng sanh nhờ vào niệmthực mà được tồn tại, tăng trưởng các căn, tuổi thọkhông dứt, đó là niệm thực.
“Nhữngchúng sanh nào dùng thức thực? Những chúng sanh ở địa ngụcvà cõi Vô sắc thiên, những loại chúng sanh này dùng thứcthực.
“Ngườicõi Diêm-phù-đề dùng các thứ vàng bạc, đồ quý báu, lúagạo, lụa là, nô bộc để mưu sinh buôn bán mà tự nuôi sống.Người Câu-da-ni dùng bò, dê, châu báu để trao đổi mà nuôisống. Người Phất-vu-đãi dùng thóc, vải, châu ngọc đểtrao đổi mà tự nuôi sống. Người Uất-đan-viết tuy khôngdùng cách trao đổi nhưng cũng mưu sinh để tự nuôi sống.
“Ngườicõi Diêm-phù-đề có sự mai mối hôn nhân, con trai lấy vợ,con gái lấy chồng. Người Câu-da-ni và người Phất-vu-đãi,cũng có mai mối hôn nhân, con trai lấy vợ, con gái lấy chồng.Người Uất-đan-viết, thì không có vấn đề hôn nhân, khôngcó sự lấy chồng, lấy vợ của con trai và con gái. Loài rồngvà Kim sí điểu cùng A-tu-luân, thì cũng có hôn nhân, có giáthú giữa con trai và con gái. Tứ thiên vương, Đao-lợi thiên.cho đến Tha hóa tự tại thiên cũng có hôn nhân và có giáthú giữa người nam và người nữ. Chư Thiên từ đây trởlên không còn có nam và nữ.
“Ngườicõi Diêm-phù-đề, vì giữa nam và nữ giao hội nhau, thân vàthân xúc chạm nhau, nên sanh ra âm dương. Những người Câu-da-ni,người Phất-vu-đãi, người Uất-đan-viết cũng dùng thânvới thân xúc chạm nhau nên cũng sanh ra âm dương. Các loàirồng, Kim sí điểu cũng dùng thân với thân xúc chạm nhaunên cũng sanh ra âm dương. Loài A-tu-luân thì thân với thângần gũi nhau phát sanh khí mà trở thành âm dương. Tứ thiênvương, Đao-lợi thiên thì cũng lại như vậy. Diệm-ma thiên,thì gần gũi nhau mà thành âm dương. Đâu-suất thiên thì cầmtay nhau mà thành âm dương. Hóa tự tại thiên thì nhìn kỹnhau mà thành âm dương. Tha hóa tự tại thiên thì láy mắtnhìn nhau mà thành âm dương. Chư Thiên từ đây trở lên thìkhông còn dâm dục nữa.
“Nếucó chúng sanh nào, với thân làm ác, miệng nói lời ác, ýnghĩ điều ác, thì sau khi thân hoại mạng chung, thức ngườiđời diệt mất; thức nê-lê bắt đầu sinh ra. Nhân thứcnên có danh sắc. Nhân danh sắc nên có sáu nhập. Hoặc cóchúng sanh với thân làm ác, miệng nói lời ác, ý nghĩ điềuác, thì sau khi thân hoại mạng chung, bị đọa vào trong loàisúc sanh; sau đó thức người đời bị diệt; thức súc sanhbắt đầu sinh ra; nhân thức nên có danh sắc; nhân danh sắcnên có sáu nhập. Hoặc có chúng sanh với thân làm ác, miệngnói lời ác, ý nghĩ điều ác, thì sau khi thân hoại mạngchung, sẽ đọa vào trong ngạ quỷ; sau đó thức người đờibịdiệt, thức ngạ quỷ bắt đầu sinh ra; nhân thức nên códanh sắc; nhân danh sắc nên có sáu nhập. Hoặc có chúng sanhvới thân làm thiện, miệng nói những lời thiện, ý nghĩđiều thiện, thì sau khi thân hoại mạng chung, sẽ đượcsinh vào trong cõi người; sau đó thức đời trước diệt,thức loài người bắt đầu sinh ra; nhân thức nên có danhsắc; nhân danh sắc nên có sáu nhập.
“Hoặccó chúng sanh với thân làm thiện, miệng nói lời thiện, ýnghĩ điều thiện, thì sau khi thân hoại mạng chung, sẽ sinhvề cõi Tứ thiên vương; sau đó thức đời trước diệt;thức loài trời Tứ thiên vương bắt đầu sinh ra; nhân thứcnên có danh sắc; nhân danh sắc nên có sáu nhập.
“Lúcbắt đầu sinh ở cõi Trời, hình dạng cũng giống hệt nhưcon nít chừng hai, ba tuổi của cõi người này, tự nhiên hóahiện, ngồi trên đầu gối Trời. Vị Trời ấy liền nói:Đây là con ta. Do quả báo của hành vi, nên tự nhiên mà cónhận thức; liền tự nghĩ rằng: Ta do đã làm những gì, mànay ta sinh ra nơi này? Rồi tự nhớ lại: Đời trước ta ởnhân gian, thân làm việc thiện, miệng nói lời thiện, ý nghĩđiều thiện. Vì đã làm những việc này nên nay được sanhvề cõi Trời. Giả như ở đây ta mạng chung, mà sinh vào cõinhân gian trở lại, thì phải thanh tịnh thân, khẩu, ý vàsiêng năng gấp đôi trong việc tu tập các hạnh lành. Sau khisinh ra chưa lâu, hài nhi tự biết đói, thì tự nhiên trướcmặt hài nhi này có đồ đựng quý, trong đó đựng thức ănthanh tịnh của cõi Trời, tự nhiên có, đủ cả trăm mùivị. Nếu phước báo nhiều thì thức ăn màu trắng. Nếu phướcbáo vừa thì thức ăn có màu xanh. Còn nếu phước báo ítthì thức ăn có màu đỏ. Đứa trẻ này dùng tay lấy thứcăn đưa vào miệng, thức ăn tự nhiên tiêu mất, như vángsữa được chế vào trong lửa. Khi đứa trẻ ăn xong, mớitự cảm thấy khát, thì tự nhiên có đồ đựng quý, đựngđầy nước cam lồ. Nếu là người có nhiều phước báo thìnước này có màu trắng; nếu người này phước báo vừavừa thì nước này có màu xanh; nếu là ngưới có phướcbáo ít thì nước này có màu đỏ. Đứa trẻ này lấy nướcuống; nước tự động tiêu mất như váng sữa được chếvào lửa vậy.
“Đứatrẻ này sau khi ăn uống xong, thì thân thể cao lớn cũng nhưcác chư Thiên khác, liền vào trong hồ nước mà tự mình thưởngthức sự tắm gội rửa ráy. Khi đã tự mình thưởng thứcxong thì ra khỏi hồ tắm, đến dưới cây hương. Cây hươngsẽ cong xuống; nó dùng tay lấy các loại hương tự thoa vàothân mình. Sau đó lại đến cây y-kiếp-bối. Cây cong xuống,nó lấy các loại y mặc vào thân mình. Tiếp đến nơi câytrang nghiêm. Cây cong xuống, nó lấy các thứ đồ trang sức,để tự trang điểm thân. Tiếp đến cây Hoa man, cây nghiêngxuống môt bên, lấy tràng hoa đội lên đầu. Tiếp đến câyđồ vật, cây nghiêng xuống một bên, để lấy các thứ đồvật báu. Tiếp đến cây có trái, cây nghiêng xuống một bên,hái trái tự nhiên, hoặc ăn hay ngậm, hoặc lọc nước màuống. Tiếp đến cây nhạc khí, cây nghiêng xuống một bên,lấy nhạc khí Trời, khảy lên âm thanh trong trẻo vi diệuhòa cùng lời ca. Khi đứa trẻ cõi Trời hướng đến cáckhu vườn, thì thấy vô số Thiên nữ đang khảy đàn đánhtrống ca hát nói cười với nhau. Bấy giờ đứa trẻ cõiTrời dạo chơi thấy những cảnh như vậy, bèn sinh lòng đắmnhiễm, nhìn Đông mà quên Tây, nhìn Tây mà quên Đông. Lúcmà đứa trẻ này mới sinh, tự biết mà tự nghĩ rằng: Dohành vi gì mà nay ta được sinh ra nơi này? Khi đang dạo chơixem cảnh nơi kia, thì lại quên hết ý nghĩ này. Thế rồi,liền có thể nữ theo hầu.
“Hoặccó chúng sanh với thân làm thiện, miệng nói lời thiện, ýnghĩ điều thiện, thì sau khi thân hoại mạng chung sẽ sinhvề cõi Đao-lợi thiên; sau đó thức đời trước diệt; thứckia bắt đầu sinh ra; nhân thức này nên có danh sắc, nhândanh sắc nên có sáu nhập. Kẻ mới bắt đầu sinh của cõiTrời kia, giống như đứa trẻ hai hay ba tuổi ở cõi Diêm-phù-đề,tự nhiên biến hiện ra ở trên đầu gối của Trời và vịTrời ấy nói: Đây là con trai của ta. Đây là con gái củata. Cũng lại như đã kể trên.
“Hoặccó chúng sanh với thân, miệng, ý đều thiện, thì sau khi thânhoại mạng chung sẽ sinh về cõi Diệm-ma thiên; kẻ mới bắtđầu sinh của cõi trời kia, giống như đứa trẻ ba, bốntuổi ở cõi Diêm-phù-đề này.
“Hoặccó chúng sanh với thân, miệng, ý đều thiện, sau khi thânhoại mạng chung sẽ sinh về cõi Đâu-suất thiên; kẻ mớisinh ở cõi Trời này, giống như đứa trẻ bốn, năm tuổiở thế gian này.
“Hoặccó chúng sanh với thân, miệng, ý đều thiện, sau khi thânhoại mạng chung sẽ sinh về cõi Hóa tự tại thiên; kẻ mớisinh ở cõi trời này, giống như đứa trẻ năm, sáu tuổiở thế gian này.
“Hoặccó chúng sanh với thân, miệng, ý đều thiện, sau khi thânhoại mạng chung sẽ sinh về cõi Tha hóa tự tại thiên; kẻmới sinh ở cõi Trời này, giống như đứa trẻ sáu, bảytuổi ở thế gian này, cũng lại như vậy.”
Phậtbảo Tỳ-kheo:
“Mỗinửa tháng có ba ngày trai, đó là: ngày mồng tám, ngày mườibốn và ngày mười lăm. Đó là ba ngày trai. Vì sao trong mỗinửa tháng lấy ngày mùng tám làm ngày trai? Vì vào ngày mồngtám của mỗi nửa tháng là ngày Tứ thiên vương thường bảosứ giả rằng: Các ngươi nên đi khảo sát thế gian, xem xétmọi người, có biết hiếu thuận với cha mẹ, có kính thuậnvới Sa-môn, Bà-la-môn, có tôn kính các bậc trưởng lão, cótrai giới, bố thí, có cứu giúp người nghèo thiếu hay không?Sau khi sứ giả nghe những lời dạy này rồi, liền đi khảosát khắp trong thiên hạ, để biết có người hiếu thuậnvới cha mẹ, tôn kính Sa-môn, Bà-la-môn, kính trọng các bậctrưởng lão, trì giới giữ trai, bố thí cho người nghèo thiếu.Sau khi xem xét đầy đủ rồi, thấy có những người bấthiếu với cha mẹ, bất kính sư trưởng, không tu trai giới,không cứu giúp người nghèo thiếu, về thưa với nhà vua rằng:Tâu Thiên vương, ở thế gian những người hiếu thuận vớicha mẹ, kính trọng sư trưởng, tịnh tu trai giới, giúp đỡnhững người nghèo thiếu thì rất ít! rất ít! Sau khi Tứthiên vương nghe xong, sầu lo không vui, đáp rằng: Than ôi!nếu người thế gian, có nhiều kẻ ác, bất hiếu với chamẹ, không kính trọng sư trưởng, không tu tập trai giới,không giúp đỡ người nghèo thiếu! thì chúng chư Thiên sẽtổn giảm và chúng A-tu-luân sẽ tăng thêm. Trường hợp nếusứ giả thấy ở thế gian mà có người hiếu kính mẹ cha,kính trọng sư trưởng, siêng tu trai giới, giúp đỡ ngườinghèo, thì trở về bạch với Thiên vương rằng: Ở thế giancó người hiếu thuận mẹ cha, kính trọng sư trưởng, siêngtu trai giới, giúp đỡ người nghèo thiếu. Thì Tứ thiên vươngsau khi nghe xong rất là hoan hỷ, xướng lên rằng: Lành thay!Ta đã nghe những lời tốt lành, thế gian nếu có những ngườicó thể hiếu thuận mẹ cha, kính trọng sư trưởng, siêngtu trai giới, giúp đỡ những người nghèo thiếu, thì chúngchư Thiên sẽ tăng thêm và chúng A-tu-luân sẽ giảm bớt.
“Vìsao lấy ngày mười bốn làm ngày trai? Vì ngày mười bốnlà ngày mà Tứ thiên vương bảo thái tử rằng: Ngươi nênđi khảo sát khắp thiên hạ, xem xét mọi người, để biếtcó người hiếu thuận mẹ cha, kính trọng sư trưởng, siêngtu trai giới, giúp đỡ người nghèo thiếu hay không? Sau khivâng lời dạy của vua xong, thái tử liền đi khảo sát thiênhạ, xem xét mọi người, có biết hiếu thuận mẹ cha, tôntrọng sư trưởng, siêng tu trai giới, giúp đỡ người nghèothiếu hay không. Khi đã quán sát tất cả rồi, nhận thấythế gian có người không hiếu thuận mẹ cha, không kính sưtrưởng, không tu trai giới, không giúp đỡ người nghèo thiếu,trở về thưa vua rằng: Tâu Thiên vương, ở thế gian ngườihiếu thuận với cha mẹ, tôn kính sư trưởng, tu hành traigiới thanh tịnh, giúp đỡ những người nghèo thiếu thì rấtít! rất ít! Tứ thiên vương nghe xong, sầu lo không vui, bảorằng: Than ôi! Nếu thế gian có nhiều kẻ ác, không hiếuthuận mẹ cha, không tôn trọng sư trưởng, không tu tập traigiới, không giúp đỡ những người nghèo thiếu, thì chúngchư Thiên sẽ giảm bớt, chúng A-tu-luân sẽ tăng thêm. Nếuthái tử nhận thấy thế gian có người hiếu thuận mẹ cha,tôn kính sư trưởng, siêng tu trai giới, giúp đỡ những ngườinghèo thiếu, thì liền trở về thưa vua rằng: Tâu Thiên vương,ở thế gian có người hiếu thuận với mẹ cha, kính trọngsư trưởng, siêng tu trai giới, giúp đỡ những người nghèothiếu. Tứ thiên vương nghe xong, lòng rất vui mừng, xướnglên rằng: Lành thay! Ta nghe được những lời tốt lành, làở thế gian nếu có những người hiếu thuận với mẹ cha,tôn trọng sư trưởng, siêng tu trai giới, giúp đỡ nhữngngười nghèo thiếu, thì chúng chư Thiên sẽ tăng thêm, chúngA-tu-luân sẽ giảm bớt. Cho nên ngày mười bốn là ngày trai.
“Vìsao lấy ngày mười lăm làm ngày trai? Vì ngày mười lăm làngày Tứ thiên vương đích thân tự đi khảo sát thiên hạ,xem xét mọi người ở trong thế gian, có hiếu thuận mẹ cha,kính trọng sư trưởng, siêng tu trai giới, giúp đỡ nhữngngười nghèo thiếu hay không? Nếu nhận thấy người thếgian phần nhiều bất hiếu với mẹ cha, không tôn trọng sưtrưởng, không siêng trai giới, không giúp đỡ kẻ nghèo thiếu,thì Tứ thiên vương đến điện Thiện pháp thưa với ĐếThích: Đại vương biết cho, chúng sanh ở thế gian phần nhiềubất hiếu với mẹ cha, không kính trọng sư trưởng, khôngtu trai giới, không giúp đỡ kẻ nghèo thiếu! Sau khi Đế Thíchvà chư Thiên Đao-lợi nghe xong lòng buồn lo không vui nói rằng:Than ôi! Nếu chúng sanh ở thế gian phần nhiều là ác, khônghiếu thuận mẹ cha, không tôn kính sư trưởng, không tu traigiới, không giúp kẻ nghèo thiếu, thì chúng chư Thiên sẽgiảm bớt, chúng A-tu-luân sẽ tăng lên. Nếu Tứ thiên vươngnhận thấy thế gian có người hiếu thuận với mẹ cha, tônkính sư trưởng, siêng tu trai giới, giúp đỡ kẻ nghèo thiếu,thì trở về điện Thiện pháp tâu với Đế Thích: Ngườithế gian có kẻ hiếu thuận với mẹ cha, tôn kính sư trưởng,siêng tu trai giới, giúp kẻ nghèo thiếu. Sau khi Đế Thíchvà chư Thiên Đao-lợi nghe xong lòng rất là hoan hỷ, xướnglên rằng: Lành thay! Nếu ở thế gian mà có kẻ hiếu thuậnmẹ cha, tôn kính sư trưởng, siêng tu trai giới, giúp kẻ nghèothiếu, thì chúng chư Thiên sẽ tăng, chúng A-tu-luân sẽ giảm.Cho nên lấy ngày mười lăm là ngày trai giới. Vì lý do trênnên có ba ngày trai. Bấy giờ, Đế Thích muốn cho chư Thiêncàng thêm hoan hỷ hơn, liền nói bài kệ:
Thườnglấy ngày mồng tám,
Mườibốn, rằm mỗi tháng,
Cảihóa, tu trai giới,
Ngườinày đồng với Ta.”
Phậtbảo Tỳ-kheo:
“ĐếThích nói bài kệ này, không phải là khéo thọ, không phảilà khéo nói; Ta cũng không ấn khả. Vì sao? Vì Đế Thích chưadứt hết dâm dục, sân hận, si mê, chưa thoát khỏi sanh, già,bệnh, chết, ưu, bi, khổ não. Ta bảo người này chưa lìakhỏi gốc khổ. Tỳ-kheo nào của Ta, nếu lậu hoặc đã hết,được A-la-hán, những gì cần làm đã làm xong, đã trút bỏgánh nặng, đã được tự lợi, đã hết kết sử các hữu,bình đẳng giải thoát, thì Tỳ-kheo đó mới đáng nói bàikệ này:
Thườnglấy ngày mồng tám,
Mườibốn, rằm mỗi tháng,
Vânglời tu trai giới,
Ngườinày đồng với Ta.”
Phậtbảo Tỳ-kheo:
“Tỳ-kheokia nói bài kệ này mới gọi là khéo thọ, mới gọi là khéonói, được Ta ấn khả. Vì sao? Vì Tỳ-kheo kia đã dứt sạchdâm dục, sân hận, si mê, đã thoát khỏi sanh, già, bệnh,chết, ưu, bi, khổ não. Ta bảo người kia đã lìa khỏi gốckhổ.”
Phậtbảo Tỳ-kheo:
“Tấtcả chỗ ở như nhà cửa của mọi người đều có quỷ thần,không có chỗ nào là không có cả. Tất cả mọi đường sá,mọi ngã tư, hàng thịt, chợ búa, cùng bãi tha ma đều cóquỷ thần, không có chỗ nào là không có cả. Phàm các loàiquỷ thần đều tùy thuộc vào chỗ nương náu mà có tên.Như nếu nương vào người thì gọi là người; nương vàothôn thì gọi là thôn; nương vào thành thì gọi là thành;nương vào nước thì gọi là nước; nương vào đất thì gọilà đất; nương vào núi thì gọi là núi, nương vào sông thìgọi là sông.”
Phậtbảo Tỳ-kheo:
“Tấtcả mọi loại cây cối dù là cực nhỏ như trục xe cũng đềucó quỷ thần nương tựa, không có chỗ nào là không có. Tấtcả mọi người nam, người nữ khi mới bắt đầu sinh ra đềucó quỷ thần theo bên ủng hộ; nếu khi nào họ chết thìquỷ thần giữ gìn họ, thu nhiếp tinh khí của họ, nên ngườinày sẽ chết ngay.”
Phậtbảo Tỳ-kheo:
“Giảnhư có Phạm-chí ngoại đạo hỏi rằng: Chư Hiền! Nếu nhưtất cả nam nữ khi bắt đầu sinh ra đều có quỷ thần theobên giữ gìn, ủng hộ; khi người kia sắp chết, quỷ thầngiữ gìn ủng hộ kia sẽ thu nhiếp tinh khí họ, thì ngườinày chết. Nhưng tại sao người hiện nay lại có người bịquỷ thần quấy nhiễu, có người không bị quỷ thần quấynhiễu? Nếu có người hỏi câu này, thì các Thầy nên trảlời cho họ rằng: Người thế gian hành động phi pháp, tàkiến điên đảo, tạo ra mười nghiệp ác, những người nhưvậy, thì trong trăm hay ngàn mới có một thần theo bảo hộthôi. Giống như đàn bò, đàn dê, trong trăm hay ngàn con cũngchỉ có một người chăn giữ; thì việc này cũng như vậy,vì hành động phi pháp, tà kiến điên đảo, tạo ra mườinghiệp ác, nên những người như vậy, trong trăm hay ngàn ngườimới có một thần bảo hộ thôi. Nếu có người nào tu hànhpháp thiện, chánh kiến, chánh tín, chánh hạnh, đầy đủmười nghiệp thiện, chỉ một người như vậy, thì cũng cótrăm ngàn thần bảo hộ rồi. Giống như quốc vương, đạithần của quốc vương có trăm ngàn người hộ vệ một người;thì việc này cũng như vậy, người tu hành pháp thiện, đầyđủ mười nghiệp thiện, như một người có trăm ngàn thầnhộ vệ. Vì nhân duyên này cho nên, người thế gian có ngườibị quỷ thần quấy nhiễu, có người không bị quỷ thầnquấy nhiễu.
“Ngườicõi Diêm-phù-đề có ba điều hơn người Câu-da-ni, đó là:một, dõng mãnh, nhớ dai, có khả năng tạo nghiệp hành; hai,dõng mãnh, nhớ dai, siêng tu phạm hạnh; ba, vì dõng mãnh, nhớdai, nên Phật ra đời ở cõi này. Do có ba điều này nên hơnngười Câu-da-ni. Người Câu-da-ni có ba điều hơn người Diêm-phù-đề,đó là: một, nhiều bò; hai, nhiều dê; ba, nhiều châu ngọc.Do có ba điều này nên hơn người Diêm-phù-đề.
“NgườiDiêm-phù-đề có ba điều hơn người Phất-vu-đãi, đó là:một, dõng mãnh, nhớ dai, có khả năng tạo ra nghiệp hành;hai, dõng mãnh, nhớ dai, thường tu phạm hạnh; ba, dõng mãnh,nhớ dai, Phật ra đời ở cõi này. Vì ba điều này nên hơnPhất-vu-đãi. Người Phất-vu-đãi có ba điều hơn ngườiDiêm-phù-đề, đó là: một, cõi này rất rộng; hai, cõi nàyrất lớn; ba, đất đai cõi này rất vi diệu. Vì ba điềunày nên hơn người Diêm-phù-đề.
“NgườiDiêm-phù-đề có ba điều hơn người Uất-đan-viết, đó là:một, mạnh mẽ, nhớ dai, có khả năng tạo ra hành nghiệp;hai, mạnh mẽ, nhớ dai, thường tu hành phạm hạnh; ba, mạnhmẽ, nhớ dai, Phật ra đời ở cõi này. Đó là ba điều hơnngười Uất-đan-viết. Người Uất-đan-viết có ba điều hơnngười Diêm-phù-đề, đó là: một, không bị ràng buộc lệthuộc; hai, không có vật sở hữu của ngã; ba, tuổi thọcố định là ngàn năm. Vì ba điều này nên hơn người Diêm-phù-đề.“Người Diêm-phù-đề cũng vì ba điều trên mà hơn đườngngạ quỷ. Đường ngạ quỷ có ba điều hơn Diêm-phù-đề,đó là: một, sống lâu; hai, thân to lớn; ba, người khác làmmà mình chịu. Vì ba điều này nên hơn Diêm-phù-đề.
“NgườiDiêm-phù-đề cũng vì ba điều trên nên hơn loài rồng, Kimsí điểu. Loài rồng, Kim sí điểu lại có ba điều hơn ngườiDiêm-phù-đề, đó là: một, sống lâu; hai, thân to lớn; ba,cung điện. Vì ba điều này nên hơn người Diêm-phù-đề.
“NgườiDiêm-phù-đề vì ba điều trên nên hơn A-tu-luân. A-tu-luânlại có ba điều hơn người Diêm-phù-đề, đó là: một, cungđiện cao, rộng; hai, cung điện trang nhiêm; ba, cung điện thanhtịnh. Vì ba điều này nên hơn người Diêm-phù-đề.
“NgườiDiêm-phù-đề vì ba điều trên mà hơn Tứ thiên vương. Tứthiên vương lại có ba điều hơn người Diêm-phù-đề, đólà: một, sống lâu; hai, đoan chánh; ba, an vui nhiều; vì bađiều này nên hơn người Diêm-phù-đề.
“NgườiDiêm-phù-đề cũng vì ba điều trên mà hơn Đao-lợi thiên,Diệm-ma thiên, Đâu-suất thiên, Hóa tự tại thiên, Tha hóatự tại thiên. Các hàng chư Thiên này lại có ba điều hơnngười Diêm-phù-đề, đó là: một, sống lâu; hai, đoan chánh;ba, an vui nhiều.”
Phậtbảo Tỳ-kheo:
“Chúngsanh cõi Dục có mười hai loại, đó là:
“1.Địa ngục.
“2.Súc sanh.
“3.Ngạ quỷ.
“4.Người.
“5.A-tu-luân.
“6.Tứ thiên vương.
“7.Đao-lợi thiên.
“8.Diệm-ma thiên.
“9.Đâu-suất thiên.
“10.Hóa tự tại thiên.
“11.Tha hóa tự tại thiên.
“12.Ma thiên.
“Chúngsanh cõi Sắc có hai mươi hai loại, đó là:
“1.Phạm thân thiên.
“2.Phạm phụ thiên.
“3.Phạm chúng thiên.
“4.Đại Phạm thiên.
“5.Quang thiên.
“6.Thiểu quang thiên.
“7.Vô lượng quang thiên.
“8.Quang âm thiên.
“9.Tịnh thiên.
“10.Thiểu tịnh thiên.
“11.Vô lượng tịnh thiên.
“12.Biến tịnh thiên.
“13.Nghiêm sức thiên.
“14.Tiểu nghiêm sức thiên.
“15.Vô lượng nghiêm sức thiên.
“16.Nghiêm thắng quả thật thiên.
“17.Vô tưởng thiên.
“18.Vô phiền thiên.
“19.Vô nhiệt thiên.
“20.Thiện kiến thiên.
“21.Đại Thiện kiến thiên.
“22.A-ca-nị-trá thiên.
“Chúngsanh cõi Vô sắc có bốn loại, đó là:
“1.Không trí thiên.
“2.Thức trí thiên.
“3.Vô sở hữu trí thiên.
“4.Hữu tưởng vô tưởng trí thiên.”
Phậtbảo Tỳ-kheo:
“Cóbốn loại Đại Thiên thần, đó là:
“1.Địa thần.
“2.Thủy thần.
“3.Phong thần.
“4.Hỏa thần.
Xưakia Địa thần nảy sinh ra nhận thức sai lầm rằng: Trong đấtkhông có nước, lửa và gió. Lúc đó Ta biết rõ tâm niệmcủa thần đất này, liền đến bảo rằng: Ngươi đang nảysanh ra ý nghĩ: Trong đất không có nước, lửa và gió phảikhông? Địa thần đáp: Trong đất quả thực không có nước,lửa và gió. Lúc ấy Ta bảo rằng: Ngươi chớ nảy sanh ýniệm này là trong đất không có nước, lửa và gió. Vì sao?Vì trong đất có nước, lửa và gió, chỉ vì yếu tố đấtnhiều nên lấy đất mà gọi tên.”
Phậtbảo Tỳ-kheo:
“Lúcấy Ta vì Địa thần mà lần lượt nói pháp, để dứt trừnhận thức sai lầm này và chỉ bày, khuyến khích, làm cholợi ích, làm cho hoan hỷ; nói về thí, về giới, về sinhthiên; nói dục là bất tịnh, là ô nhiễm, là tai họa; xuấtyếu là trên hết và trình bày khai mở phạm hạnh thanh tịnh.Lúc ấy Ta biết rõ tâm niệm Địa thần đã thanh tịnh, nhunhuyến, không còn năm ấm cái, dễ dàng khai hóa. Như phápthường của chư Phật, Ta chỉ bày giảng rộng về Khổ thánhđế, Khổ tập đế, Khổ diệt đế và Khổ xuất yếu thánhđế. Bấy giờ Địa thần liền ngay tại chỗ xa lìa trầncấu, được mắt pháp thanh tịnh. Ví như áo trắng sạch sẽdễ được nhuộm màu, Địa thần cũng như vậy, lòng tin đãthanh tịnh, nên được mắt pháp, không còn hồ nghi, thấypháp quyết định, không còn rơi vào đường ác, không theođường khác, thành tựu được pháp vô úy, mà bạch vớiTa rằng: Nay con xin quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng, suốt đờikhông sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối,không uống rượu, cho phép con được làm Ưu-bà-di ở trongChánh pháp.”
Phậtbảo Tỳ-kheo:
“Xưakia, Thủy thần nảy sanh ác kiến, nói rằng: Trong nước khôngcó đất, lửa và gió. Lúc ấy Địa thần biết rõ tâm niệmThủy thần sinh ra nhận thức này, nên đến nói với Thủythần rằng: Thật sự ngươi có sinh ra kiến giải này, làtrong nước không có đất, lửa và gió phải không? Đáp rằng:Có thật như vậy. Địa thần nói: Ngươi chớ sinh ra kiếngiải này, là trong nước không có đất, lửa và gió. Vì sao?Vì trong nước có đất, lửa và gió, nhưng chỉ vì yếu tốnước nhiều quá, nên dùng yếu tố nước để gọi tên. Bấygiờ, Địa thần liền vì y mà nói pháp, dứt trừ kiến giảisai lầm này và chỉ bày, khuyến khích, làm cho lợi ích, làmcho hoan hỷ; nói về thí, về giới, về sinh thiên; nói dụclà bất tịnh, là ô nhiễm, là tai họa; xuất yếu là trênhết và trình bày khai mở phạm hạnh thanh tịnh. Lúc ấy Địathần biết rõ tâm niệm Thủy thần đã thanh tịnh, nhu nhuyến,không còn năm ấm cái, dễ dàng khai hóa. Như pháp thườngcủa chư Phật, chỉ bày giảng rộng về Khổ thánh đế, Khổtập đế, Khổ diệt đế và Khổ xuất yếu thánh đế. Bấygiờ Thủy thần liền ngay tại chỗ xa lìa trần cấu, đượcmắt pháp thanh tịnh. Ví như áo trắng sạch sẽ dễ đượcnhuộm màu, Thủy thần cũng như vậy, lòng tin đã thanh tịnh,nên được mắt pháp, không còn hồ nghi, thấy pháp quyếtđịnh, không còn rơi vào đường ác, không theo đường khác,thành tựu được pháp vô úy, mà bạch với Địa thần rằng:Nay tôi xin quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng, suốt đời khôngsát sanh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối, khônguống rượu, xin nhận tôi là Ưu-bà-di ở trong Chánh pháp.”
Phậtbảo Tỳ-kheo:
“Xưakia Hỏa thần nảy sanh ra ác kiến, nói rằng: Trong lửa khôngcó đất, nước và gió. Lúc ấy Địa thần và Thủy thầnbiết rõ tâm niệm Hỏa thần sinh ra nhận thức này, nên cùngnói với Hỏa thần rằng: Thật sự ngươi có sinh ra kiếngiải này phải không? Đáp rằng: Có thật như vậy. Hai thầnnói: Ngươi chớ sinh ra kiến giải này. Vì sao? Vì trong lửacó đất, nước và gió, nhưng chỉ vì yếu tố lửa nhiềuquá, nên dùng yếu tố lửa để gọi tên. Bấy giờ, hai vịthần Địa và Thủy liền vì y mà nói pháp, dứt trừ kiếngiải sai lầm này và chỉ bày, khuyến khích, làm cho lợi ích,làm cho hoan hỷ; nói về thí, về giới, về sinh thiên; nóidục là bất tịnh, là ô nhiễm, là tai họa; xuất yếu làtrên hết và trình bày khai mở phạm hạnh thanh tịnh. Lúcấy hai thần biết rõ tâm niệm Hỏa thần đã thanh tịnh,nhu nhuyến, không còn năm ấm cái, dễ dàng khai hóa. Như phápthường của chư Phật, chỉ bày giảng rộng về Khổ thánhđế, Khổ tập đế, Khổ diệt đế và Khổ xuất yếu thánhđế. Bấy giờ Hỏa thần liền ngay tại chỗ xa lìa trầncấu, được mắt pháp thanh tịnh. Ví như áo trắng sạch sẽdễ được nhuộm màu, Hỏa thần cũng như vậy, lòng tin đãthanh tịnh, nên được mắt pháp, không còn hồ nghi, thấypháp quyết định, không còn rơi vào đường ác, không theođường khác, thành tựu được pháp vô úy, mà bạch vớihai thần rằng: Nay tôi xin quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng,suốt đời không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm, khôngnói dối, không uống rượu, xin nhận tôi là Ưu-bà-di ở trongChánh pháp.”
Phậtbảo Tỳ-kheo:
“Xưakia Phong thần nảy sanh ra nhận thức sai lầm rằng: Trong giókhông có đất, nước và lửa. Lúc ấy Địa thần, Thủy thần,Hỏa thần biết rõ tâm niệm Phong thần sinh ra nhận thứcnày, nên đến nói rằng: Thật sự ngươi có sinh ra kiến giảinày phải không? Đáp rằng: Có thật như vậy. Ba vị thầnnói: Ngươi chớ sinh ra kiến giải này. Vì sao? Vì trong giócó đất, nước và lửa, nhưng chỉ vì yếu tố gió nhiềuquá, nên dùng yếu tố gió để gọi tên. Bấy giờ, ba vịthần liền vì y mà nói pháp, dứt trừ kiến giải sai lầmnày và chỉ bày, khuyến khích, làm cho lợi ích, làm cho hoanhỷ; nói về thí, về giới, về sinh thiên; nói dục là bấttịnh, là ô nhiễm, là tai họa; xuất yếu là trên hết vàtrình bày khai mở phạm hạnh thanh tịnh. Lúc ấy ba thần biếtrõ tâm niệm của Phong thần đã thanh tịnh, nhu nhuyến, khôngcòn năm ấm cái, dễ dàng khai hóa. Như pháp thường của chưPhật, chỉ bày giảng rộng về Khổ thánh đế, Khổ tậpđế, Khổ diệt đế và Khổ xuất yếu thánh đế. Bấy giờPhong thần liền ngay tại chỗ xa lìa trần cấu, được mắtpháp thanh tịnh. Ví như tấm vải trắng sạch sẽ dễ đượcnhuộm màu, Phong thần cũng như vậy, lòng tin đã thanh tịnh,nên được mắt pháp, không còn hồ nghi, thấy pháp quyếtđịnh, không còn rơi vào đường ác, không theo đường khác,thành tựu được pháp vô úy, mà bạch với ba thần rằng:Nay tôi xin quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng, suốt đời khôngsát sanh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối, khônguống rượu, xin nhận tôi là Ưu-bà-di ở trong Chánh pháp.”
Phậtbảo Tỳ-kheo:
“Mâycó bốn thứ, đó là: một là màu trắng; hai là màu đen; balà màu đỏ; bốn là màu hồng. Mây có màu trắng vì yếutố đất đặc biệt nhiều; mây có màu đen vì yếu tố nướcđặc biệt nhiều hơn; mây có màu đỏ vì yếu tố lửa đặcbiệt nhiều hơn; mây có màu hồng vì yếu tố gió đặc biệtnhiều hơn. Mây cách mặt đất từ hai mươi dặm, ba mươidặm, bốn mươi dặm. cho đến bốn ngàn dặm; ngoại trừkiếp sơ, còn sau đó thì mây lên đến cõi Quang âm thiên.Chớp có bốn loại, đó là: Chớp ở phương Đông gọi làthân quang; chớp ở phương Nam gọi là nan hủy; chớp ở phươngTây gọi là lưu diễm; chớp ở phương Bắc gọi là địnhminh. Vì sao mây ở trong hư không có hiện tượng ánh chớpnày? Có lúc thân quang cùng nan hủy chạm nhau, có khi thân quangcùng với lưu diễm chạm nhau, có khi thân quang cùng với địnhminh chạm nhau, có khi nan hủy cùng với lưu diễm chạm nhau,có khi nan hủy cùng với định minh chạm nhau, có khi lưu diễmcùng với định minh chạm nhau; vì những nhân duyên này nênmây giữa hư không sinh ra ánh chớp. Và vì sao mây ở giữahư không lại sinh ra sấm chớp? Vì ở giữa hư không có khiđịa đại cùng với thủy đại chạm nhau, có khi địa đạicùng với hỏa đại chạm nhau, có khi địa đại cùng vớiphong đại chạm nhau, có khi thủy đại cùng với hỏa đạichạm nhau, có khi thủy đại cùng với phong đại chạm nhau;vì những nhân duyên này mà mây giữa hư không sinh ra sấmchớp.
“Cónăm lý do mà các thầy tướng không thể tiên đoán và khôngthể biết được một cách chắc chắn về mưa nên dẫn đếnviệc sai lầm trong lúc đoán, đó là: một, trong mây có sấmchớp, đoán rằng sắp mưa; nhưng vì hỏa đại nhiều nênnó thiêu hủy mây đi, vì vậy mà không mưa. Đó là lý do thứnhất khiến cho các thầy tướng đoán sai lầm. Hai, trong mâycó sấm chớp, đoán rằng sắp mưa, nhưng vì phong đại nổilên, thổi mây bay tứ tán vào trong các núi, vì lý do này nênkhiến cho các thầy tướng đoán sai lầm. Ba, trong mây có sấmchớp, đoán rằng sắp mưa, nhưng bấy giờ Đại A-tu-luânđem phù vân đặt giữa biển cả, vì lý do này mà thầy tướngđoán sai lầm. Bốn, trong mây có sấm chớp, đoán rằng sắpmưa, nhưng vì thần mây, thần mưa đang buông lung dâm loạn,nên rốt cùng không làm mưa, vì lý do này nên thầy tướngđoán sai lầm. Năm, trong mây có sấm chớp, đoán rằng sắpmưa, nhưng vì mọi người trong thế gian hành động buông lungphi pháp, làm hạnh bất tịnh, tham lam, keo kiệt, ghen ghét,kiến giải điên đảo, nên khiến trời không mưa xuống, vìlý do này nên thầy tướng đoán sai. Đó là năm lý do làmcho các thầy tướng không thể biết để đoán mưa một cáchchắc chắn được.”