Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

17. Kinh Thanh Tịnh

12/03/201211:11(Xem: 6000)
17. Kinh Thanh Tịnh

KINH TRƯỜNG A HÀM

Hán Dịch: Phật Ðà Da Xá & Trúc Phật Niệm
Việt dịch: Thích Tuệ Sỹ

PHẦNII

17.KINH THANH TỊNH

Tôinghe như vậy:

Mộtthời, Phật ở tại nước Ca-duy-la-vệ, trong khu rừng củaƯu-bà-tắc Miến-kỳ, cùng với chúng Đại Tỳ-kheo một ngànhai trăm năm mươi người.

Bấygiờ, có Sa- di Châu-na, ở tại nước Ba-ba, sau an cư mùa hạ,cầm y bát, đi lần đến nước Ca-duy-la-vệ, trong vườn Miến-kỳ;đến chỗ A-nan, cúi đầu lễ dưới chân, rồi đứng sangmột bên, bạch A-nan rằng:

“CóNi-kiền Tử trong thành Ba-ba, chết chưa bao lâu, mà các đệtử của ông đã chia làm hai phe. Họ tranh chấp nhau, trựcdiện mắng chửi nhau, không còn phân biệt trên dưới; tìmtòi khuyết điểm của nhau, ganh đua kiến thức với nhau rằng:Ta có thể biết điều này; ngươi không thể biết điều này.Hành động của ta chân chính, còn ngươi là tà kiến. Ngươiđặt cái trước ra sau; để cái sau ra trước; điên đảo,thác loạn, không có phép tắc. Những điều ta làm thật làvi diệu. Những điều ngươi nói thì sai lầm. Ngươi có điềugì nghi ngờ, cứ hỏi ta. Bạch Đại đức A-nan, bấy giờ,những người thờ Ni-kiền Tử trong nước này nghe những tranhtụng như vậy sinh lòng chán ghét”.”

A-nannói với Sa-di Châu-na:

“Tacó điều muốn bạch Thế Tôn. Ngươi hãy đi với ta, trìnhbày Thế Tôn về sự việc này. Nếu Thế Tôn có răn dạyđiều gì, chúng ta hãy cùng phụng hành”.”

Rồithì, Sa-di Châu-na sau khi nghe A-nan nói bèn cùng đi theo đếnchỗ Thế Tôn. Sau khi cúi lạy dưới chân Thế Tôn, bèn đứngsang một bên. Lúc bấy giờ, A-nan bạch Thế Tôn rằng:

“Sa-diChâu-na này, sau an cư mùa hạ ở nước Ba-ba, cầm y bát, đilần đến đây. Sau khi đảnh lễ dưới chân con, nói vớicon rằng: Có Ni-kiền Tử trong thành Ba-ba, chết chưa bao lâu,mà các đệ tử của ông đã chia làm hai phe. Họ tranh chấpnhau, trực diện mắng chửưởi nhau, không còn phân biệt trêndưới; tìm tòi khuyết điểm của nhau, ganh đua kiến thứcvới nhau rằng: Ta có thể biết điều này; ngươi không thểbiết điều này. Hành động của ta chân chính, còn ngươilà tà kiến. Ngươi đặt cái trước ra sau; để cái sau ratrước; điên đảo, thác loạn, không có phép tắc. Nhữngđiều ta làm thật là vi diệu. Những điều ngươi nói thìsai lầm. Ngươi có điều gì nghi ngờ, cứ hỏi ta. Bấy giờ,những người thờ Ni-kiền Tử trong nước này nghe những tranhtụng như vậy sinh lòng chán ghét.”.”

ThếTôn nói với Châu-na:

“Quảvậy, Châu-na, trong phi pháp ấy không có gì đáng để nghe.Đó không phải là những điều được nói bởi Bậc ChánhĐẳng Chánh Giác. Cũng như ngôi tháp đổ nát, khó có thểbôi màu. Kia tuy có thầy, nhưng thảy đều ôm giữ tà kiến.Tuy có pháp, nhưng thảy đều không chân chánh, không đángđể nghe theo, không có khả năng xuất ly, không phải là nhữngđiều được nói bởi Bậc Chánh Đẳng Chánh Giác. Cũng nhưngôi tháp đổ nát không thể bôi màu vậy.

“Trongsố các đệ tử của vị ấy có người không thuận theo phápấy, dứt bỏ tà kiến ấy, đi theo chánh kiến. Châu-na, nếucó người đến nói với các đệ tử ấy rằng: Này chư Hiền,pháp của thầy ông là chân chánh, nên tu hành trong pháp ấy,sao lại bỏ đi? Nếu người đệ tử này mà tin lời ấy,thì cả hai đều thất đạo, mắc tội vô lượng. Vì sao vậy?Kia tuy có pháp, nhưng không chân chánh.

“Châu-na,nếu thầy không tà kiến và pháp ấy chân chánh, có thể khéoléo nghe theo, có khả năng xuất yếu, là pháp được nói bởiĐấng Chánh Biến Tri. Cũng như ngôi tháp mới có thể dễdàng bôi màu. Nhưng nếu các đệ tử, ở trong pháp ấy, khôngtinh cần tu tập, không thể thành tựu, bỏ con đường bìnhđẳng, đi vào tà kiến. Nếu có người đến nói với cácđệ tử ấy rằng: Này chư Hiền, pháp của thầy các ngườilà chân chánh, nên ở trong đó mà tu hành, sao lại bỏ đimà đi vào tà kiến? Các đệ tử ấy nếu tin lời ấy, thìcả hai đều thấy chân chánh, được phước vô lượng. Vìsao vậy? Vì pháp ấy chân chánh”.”

Phậtbảo Châu-na:

“Kiatuy có thầy, nhưng ôm giữ tà kiến. Tuy cũng có pháp, nhưngthảy đều không chân chánh, không có khả năng xuất yếu,không phải là pháp được thuyết bởi Đấng Chánh Biến Tri.Cũng như ngôi tháp đổ nát không thể bôi màu. Các đệ tửkia thành tựu pháp và tùy pháp, tùy thuận theo mà tu hành,nhưng lại khởi tà kiến. Châu-na, nếu có người đến nóiđệ tử ấy rằng: Pháp của thầy ngươi là chân chánh. Điềungươi làm là đúng. Nay ngươi tu hành cần khổ như vậy, cóthể ở trong đời này ngươi sẽ thành tựu đạo quả. Cácđệ tử kia tin lời ấy, thì cả hai đều thất đạo, mắctội vô lượng. Vì sao vậy? Vì pháp không chân chánh vậy.

“NàyChâu-na, nếu bậc thầy không tà kiến; Pháp của vị ấy chânchánh, có thể khéo léo nghe theo, có khả năng xuất ly, làpháp được thuyết bởi Đấng Chánh Biến Tri. Cũng như ngôitháp mới thì dễ bôi màu. Nay đệ tử của vị ấy thànhtựu pháp và tùy pháp, tùy thuận tu hành mà sanh chánh kiến.Nếu có người đến nói với các đệ tử ấy rằng: Phápcủa thầy ngươi là chân chánh. Sở hành của ngươi là đúng.Nay cần khổ tu hành như vậy, có thể ở trong đời này màthành tựu đạo quả. Các đệ tử kia tin lời ấy, cả haiđều chánh kiến, được phước vô lượng. Vì sao vậy? Vìpháp ấy chân chánh.

“NàyChâu-na, hoặc có bậc Đạo sư xuất thế khiến cho các đệtử buồn rầu. Hoặc có Đạo sư xuất thế khiến các đệtử không buồn rầu.

“Thếnào là Đạo sư xuất thế khiến các đệ tử sinh buồn rầu?

“NàyChâu-na! Đạo sư mới xuất hiện thế gian, thành đạo chưalâu, pháp của vị ấy đầy đủ phạm hạnh thanh tịnh, nhưthật chơn yếu nhưng không được phân bố rộng khắp, rồivị Đạo sư ấy lại chóng diệt độ. Các đệ tử vì thếkhông được tu hành, thảy đều buồn rầu mà nói rằng: Thầyvừa mới xuất thế, thành đạo chưa lâu, pháp của Thầyđầy đủ phạm hạnh thanh tịnh, như thật chơn yếu, nhưngrốt cùng lại không được phân bố rộng khắp, mà nay Đạosư lại nhanh chóng diệt độ, khiến cho đệ tử chúng ta khôngđược tu hành. Đấy là có vị Đạo sư xuất thế nhưng đệtử lại ưu sầu.

“Thếnào là Đạo sư xuất thế, đệ tử không ưu sầu?

“Cóvị Đạo sư xuất thế, Pháp của vị ấy thanh tịnh, đầyđủ phạm hạnh, như thật chơn yếu, lại được lưu bốrộng rãi, rồi sau đó mới vào diệt độ. Các đệ tử vìthế mà được tu hành, không ưu sầu, mà nói rằng: Thầymới xuất hiện thế gian, thành đạo chưa lâu, pháp của Thầythanh tịnh, đầy đủ phạm hạnh, như thật chơn yếu lạiđược lưu bố rộng rãi, rồi sau đó mới vào diệt độ,khiến cho đệ tử chúng ta thảy đều được tu hành. NàyChâu-na, như vậy, Đạo sư xuất thế, đệ tử không ưu sầu”.”

Phậtlại bảo Châu-na:

“Vớichi này mà phạm hạnh thành tựu. Đó là, Đạo sư xuất thế,xuất gia chưa bao lâu, danh tiếng chưa rộng, đó gọi là phạmhạnh chi chưa đầy đủ. Này Châu-na! Đạo sư xuất thế,xuất gia đã lâu, danh tiếng đã rộng rãi, đó gọi là chiphạm hạnh đầy đủ.

“NàyChâu-na, Đạo sư xuất thế, xuất gia đã lâu, danh tiếng đãrộng, nhưng các đệ tử chưa nhận được sự dạy dỗ, chưađầy đủ phạm hạnh, chưa đến nơi an ổn, chưa đạt đượcmục đích của mình, chưa thể phân bố diễn thuyết phápđã được thọ lãnh; nếu có dị luận nổi lên thì khôngthể như pháp mà diệt, chưa chứng đắc thần thông có khảnăng biến hóa. Đó gọi là chi phạm hạnh chưa đầy đủ.

“NàyChâu-na! Đạo sư xuất thế, xuất gia đã lâu, danh tiếng đãrộng, mà các đệ tử thảy đều chịu giáo huấn, phạm hạnhđầy đủ, đã đến nơi an ổn, đã đạt được mục đíchcủa mình, lại có thể phân biệt diễn thuyết pháp đượclãnh thọ; nếu có dị luận khởi thì có thể như pháp màdiệt, đã chứng đắc thần thông có khả năng biến hóa đầyđủ. Đó là chi phạm hạnh đầy đủ.

“NàyChâu-na! Đạo sư xuất thế, xuất gia chưa lâu, danh tiếngchưa rộng, các Tỳ-kheo-ni chưa nhận được sự dạy dỗ,chưa đến chỗ an ổn, chưa đạt được mục đích của mình,chưa thể phân bố diễn thuyết pháp đã được lãnh thọ;nếu có dị luận khởi lên chưa thể như thật diệt trừbằng chánh pháp, chưa chứng đắc thần thông có khả năngbiến hóa. Đó là chi phạm hạnh chưa đầy đủ.

“NàyChâu-na! Đạo sư xuất thế, xuất gia đã lâu, danh tiếng đãrộng, các Tỳ-kheo-ni thảy đều nhận được giáo huấn, phạmhạnh đầy đủ, đã đến nơi an ổn, có thể phân biệt diễnthuyết pháp đã lãnh thọ; nếu có dị luận khởi lên thìnhư pháp mà trừ diệt, đã chứng đắc thần thông có khảnăng biến hóaoá. Đó là chi phạm hạnh đầy đủ.

“NàyChâu-na! Các Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di rộng tu phạm hạnh,... chođến đã chứng đắc thần thông có khả năng biến hóaoá,cũng vậy.

“NàyChâu-na, nếu Đạo sư không còn ở đời, không có danh tiếng,sự lợi dưỡng tổn giảm. Đó là chi phạm hạnh không đầyđủ. Nếu Đạo sư tại thế, danh tiếng và lợi dưỡng đềucó đủ, không có tổn giảm; đó là chi phạm hạnh đầy đủ.

“NếuĐạo sư còn ở đời, danh tiếng và lợi dưỡng thảy đềuđầy đủ, nhưng các Tỳ-kheo không thể đầy đủ danh tiếngvà lợi dưỡng. Đó là chi phạm hạnh không đầy đủ.

“NếuĐạo sư tại thế, danh tiếng và lợi dưỡng đầy đủ khôngtổn giảm, chúng các Tỳ-kheo cũng đầy đủ như vậy. Đólà chi phạm hạnh đầy đủ. Chúng Tỳ-kheo-ni cũng vậy.

“Châu-na,Ta xuất gia đã lâu, danh tiếng rộng xa, các Tỳ-kheo của Tađã nhận lãnh giáo huấn, đã đến chỗ an ổn, đã tự mìnhđạt được mục đích, lại có thể nói cho người khác phápđã lãnh thọ; nếu có dị luận khởi lên có thể như phápmà diệt, đã chứng đắc thần thông có khả năng biến hóa.Các Tỳ-kheo, Tỳ-kheo- ni, Ưu- bà- tắc, Ưu- bà- di, cũng vậy.

“Châu-na,Ta đã lưu bố rộng rãi phạm hạnh,... cho đến, đã chứngđắc thần thông có khả năng biến hóa.

“NàyChâu-na! Hết thảy Đạo sư trong thế gian, không thấy có aicó danh tiếng và lợi dưỡng như Ta, Như Lai, Chí Chân, ĐẳngChánh Giác.

“NàyChâu-na, hết thảy đồ chúng có trong thế gian, không thấyai có danh tiếng và lợi dưỡng như chúng của Như Lai.

“Châu-na,nếu muốn nói cho chân chánh, thì nên nói thấy mà không thấy.Thế nào là thấy mà không thấy? Hết thảy phạm hạnh thanhtịnh cụ túc, đã được tuyên thuyết, được lưu bố hiểnthị. Đó gọi là thấy mà không thấy”.”

Rồithì, Ðức Thế Tôn nói với các Tỳ-kheo:

“Uất-đầu-lamTử, ở giữa đại chúng, nói như vậy: Thấy mà không thấy.Thế nào là thấy mà không thấy? Như có thể thấy con daonhưng không thể thấy sự bén nhọn. Này các Tỳ-kheo, vịấy chỉ dẫn lời nói không nhận thức của phàm phu mà vídụ. Như vậy, này Châu-na, nếu muốn nói một cách chân chánh,nên nói: Thấy mà không thấy. Thế nào là thấy mà không thấy?Ngươi cần phải nói một cách chân chánh rằng: Hết thảyphạm hạnh thanh tịnh đầy đủ, được tuyên thị, lưu bố.Đó là thấy mà không thấy.

“NàyChâu-na, pháp tương tục kia không đầy đủ nhưng có thểđạt được. Pháp không tương tục kia tuy đầy đủ nhưngkhông thể đạt được. Này Châu-na, phạm hạnh trong các pháp,là đề hồ trong các thứ tô lạc “.”

RồiThế Tôn nói với các Tỳ-kheo:

“Tađối với pháp này tự thân tác chứng. Đó là bốn niệmxứ, bốn thần túc, bốn ý đoạn, bốn thiền, năm căn, nămlực, bảy giác ý, tám đạo Hiền thánh. Các ngươi tất cảhãy cùng hòa hợp chớ sanh tranh chấp. Cùng theo học một Thầy,cũng như nước và sữa hòa một; ở trong Chánh pháp của NhưLai, hãy tự thắp sáng cho mình, nhanh chóng được an lạc.Sau khi đã được an lạc, nếu có Tỳ-kheo nào, trong lúc cóTỳ-kheo đang thuyết pháp, mà nói rằng: Điều được nóicủa vị kia, văn cú không chánh; nghĩa lý không chánh. Tỳ-kheonghe như thế không nên nói đấy là đúng, cũng không nên nóiđấy là sai, mà hãy nói với Tỳ-kheo ấy rằng: Thế nào,chư Hiền? Câu của tôi như vậy. Câu của các ngài như vậy.Nghĩa của tôi như vậy. Nghĩa của các ngài như vậy. Cáinào hơn? Cái nào thua? Nếu Tỳ-kheo kia nói rằng: Câu củatôi như vậy. Câu của ngài như vậy. Nghĩa của tôi như vậy.Nghĩa của ngài như vậy. Câu của ngài hơn. Nghĩa của ngàicũng hơn. Tỳ-kheo kia nói vậy, nhưng cũng chớ cho là đúng,cũng chớ cho là sai, mà nên can gián Tỳ-kheo ấy, nên khuyếncáo hãy từ bỏ, hãy cùng suy cầu. Như vậy, cùng nhau hòahợp, chớ sanh tranh chấp. Cùng một Thầy học, như sữa vànước hợp nhất; ở trong Chánh pháp của Như Lai, hãy tựmình thắp sáng, chóng được an lạc.

“Saukhi đã an lạc, nếu có Tỳ-kheo nào trong khi có Tỳ-kheo đangthuyết pháp mà nói như vậy: Điều mà vị ấy nói, văn cúkhông chánh, nhưng nghĩa thì chánh. Tỳ-kheo nghe như vậy, khôngnên nói đấy là đúng, cũng không nên nói đấy là sai, mànên nói với Tỳ-kheo ấy rằng: Thế nào, Tỳ-kheo? Câu củatôi như vậy. Câu của ngài như vậy. Câu nào đúng? Câu nàosai? Nếu Tỳ-kheo ấy nói: Câu của tôi như vậy. Câu củangài như vậy. Câu của ngài hơn. Tỳ-kheo kia nói như vậy,nhưng cũng không nên nói đấy là đúng, cũng không nên nóithế là sai, mà nên can gián Tỳ-kheo ấy, nên khuyến cáo hãydứt bỏ, hãy cùng suy cầu. Như vậy tất cả cùng hòa hợp,chớ sanh tranh chấp, đồng một Thầy học, như nước sữahợp nhất, ở trong Chánh pháp của Như Lai, hãy tự mình thắpsáng, nhanh chóng được an lạc.

“Saukhi đã an lạc, nếu có Tỳ-kheo nào trong khi có Tỳ-kheo đangthuyết pháp mà nói như vậy: Điều mà vị kia nói, văn cúchánh, nhưng nghĩa không chánh. Tỳ-kheo nghe như vậy, khôngnên nói đấy là đúng, cũng không nên nói đấy là sai, mànên nói với Tỳ-kheo ấy rằng: Thế nào, Tỳ-kheo? Câu củatôi như vậy. Câu của ngài như vậy. Câu nào đúng? Câu nàosai? Nếu Tỳ-kheo ấy nói: Câu của tôi như vậy. Câu củangài như vậy. Câu của ngài hơn. Tỳ-kheo kia nói như vậy,nhưng cũng không nên nói đấy là đúng, cũng không nên nóithế là sai, mà nên can gián Tỳ-kheo ấy, nên khuyến cáo hãydứt bỏ, hãy cùng suy cầu. Như vậy tất cả cùng hòa hợp,chớ sanh tranh chấp, đồng một Thầy học, cùng hòa hợp nhưnước với sữa, ở trong Chánh pháp của Như Lai, hãy tự mìnhthắp sáng, chóng được an lạc.

“Saukhi được an lạc, nếu có Tỳ-kheo trong khi có Tỳ-kheo đangthuyết pháp mà nói như vậy Điều được thuyết kia, văncú chánh, nghĩa chánh. Tỳ-kheo nghe như vậy, không nên nóilà sai, mà hãy nên khen ngợi Tỳ-kheo ấy rằng: Điều ngàinói là đúng. Điều ngài nói là đúng. Vì vậy, này Tỳ-kheo,trong mười hai bộ kinh hãy tự mình chứng nghiệm, rồi lưubố rộng rãi. Một là Quán kinh. Hai là Kỳ dạ kinh. Ba làThọ ký kinh. Bốn là Kệ kinh. Năm là Pháp cú kinh. Sáu làTương ưng kinh. Bảy là Bổn duyên kinh. Tám là Thiên bổn kinh.Chín là Quảng kinh. Mười là Vị tằng hữu kinh. Mười mộtlà Thí dụ kinh. Mười hai là Đại giáo kinh. Các ngươi hãykhéo thọ trì, hãy tùy năng lực mà suy xét, phân bố rộngrãi.

“Nàycác Tỳ-kheo, y mà Ta quy định, hoặc y lấy từ bãi tha ma,hoặc y của trưởng giả, hoặc y xấu hèn; các thứ y ấyđủ để che nóng che lạnh, muỗi mòng; đủ đểệ trùm kínbốn chi thể.

“Nàycác Tỳ-kheo, ẩm thực mà Ta quy định, hoặc thực phẩm dokhất thực, hoặc từ cư si; các loại thực phẩm ấy đủno. Nếu thân thể khổ não, các bệnh hoạn bức thiết mình,sợ rằng có thể vì thế mà chết, cho nên Ta cho phép cácloại thực phẩm ấy, để tri túc mà thôi.

“Nàycác Tỳ-kheo, trú xứ mà Ta quy định, hoặc dưới gốc cây,hoặc chỗ trống, hoặc trong phòng, hoặc trên lầu gác, hoặctrong hang, hoặc tại các trú xứ khác; các trú xứ ấy đủđể ngăn che nóng lạnh, che nắng, che mưa, muỗi mòng, cho đếnchỗ vắng vẻ để nghỉ ngơi.

“Nàycác Tỳ-kheo, thuốc men mà Ta quy định, hoặc đại tiểu tiện,hoặc dầu, hoặc mật; các thứ thuốc ấy tự đủ, nếu thânthể phát sanh đau nhức, các thứ bệnh hoạn bức thiết mình,sợ rằng có thể chết, cho nên Ta quy định các thứ thuốcấy”.”

Phậtlại nói:

“Hoặccó Phạm chí ngoại đạo đến nói: Sa-môn Thích tử hưởngthụ các thứ hoan lạc. Nếu có người nói như vậy, nên trảlời rằng: Ngươi chớ nói như vậy, rằng Sa-môn Thích tửham hưởng thụ các thứ hoan lạc. Vì sao? Có thứ lạc nếuhưởng thụ thì bị Như Lai chê trách. Có thứ lạc nếu hưởngthụ thì được Như Lai khen ngợi. Nếu Phạm chí ngoại đạohỏi: Thứ lạc nào mà nếu hưởng thụ thì bị Cù-đàm chêtrách? Nếu có hỏi như vậy, nên trả lời rằng: Năm phẩmtính của dục, đáng ưa đáng thích, mọi ngườòi đều đammê. Thế nào là năm? Mắt nhận thức sắc, đáng ưa đángthích, mọi người đều đam mê. Tai nghe tiếng, mũi ngửi hương,lưuỡi nếm vị, thân biết xúc cảm, đáng ưa đáng thích,mọi người đều đam mê. Này chư Hiền, do duyên là năm dụcmà sanh hỷ lạc; đó là điều mà Như Lai, Chí Chân, ĐẳngChánh Giác chê trách. Cũng như có người cố tình sát hạichúng sanh, tự cho thế là hoan lạc; đó là điều mà Như Lai,Chí Chân, Đẳng Chánh Giác chê trách. Cũng như có người lénlút trộm cắp của người, cho thế là khoái lạc; đó làđiều mà Như Lai chê trách. Cũng như có người xâm phạm tịnhhạnh của người khác, tự cho thế là khoái lạc; đó làđiều mà Như Lai chê trách. Cũng như có người cố ý nóidối, tự cho thế là khoái lạc; đó là đđiều mà Như Laichê trách. Cũng có người sống phóng đãng buông thả; đólà diều Như Lai chê trách. Cũng có người hành khổ hạnhbề ngoài, không phải là hành chân chánh mà Như Lai dạy, tựcho thế là khoái lạc; đó là điều Như Lai chê trách.

“Nàycác Tỳ-kheo, năm phẩm chất của dục vốn đáng chê trách,mà mọi người tham đắm. Những gì là năm? Mắt nhận biếtsắc, đáng ưa đáng thích, là cái mà con người tham đắm.Tai nghe tiếng, mũi ngửi hương, lưỡi nếm vị, thân biếtxúc, đáng ưa đáng thích, mọi người tham đắm. Sa-môn Thíchtử không tán đồng những thứ khoái lạc như vậy. Cũng nhưcó người cố ý sát sanh, cho đó là khoái lạc. Sa-môn Thíchtử không tán đồng khoái lạc như vậy. Cũng như có ngườitrộm cắp, cho thế là khoái lạc. Sa-môn Thích tử không tánđồng những thứ khoái lạc như vậy. Cũng như có ngườiphạm tịnh hạnh, cho thế là khoái lạc. Sa-môn Thích tử khôngtán đồng khoái lạc như vậy. Cũng như có người phóng đãngbuông trôi, cho thế là lạc. Sa-môn Thích tử không tán đồngkhoái lạc như vậy. Cũng như có người hành khổ hạnh bềngoài, cho thế là khoái lạc. Sa-môn Thích tử không tán đồngkhoái lạc như vậy.

“Nếucó Phạm chí ngoại đạo hỏi như vậy: Thứ lạc hưởng thụnào mà Sa-môn Thích tử khen ngợi? Này các Tỳ-kheo, nếu ngườikia có nói như vậy, các ngươi nên trả lời rằng: Này chưHiền, năm phẩm chất của dục, đáng ưa đáng thích, đượcngười đời tham đắm. Những gì là năm? Mắt biết sắc,...,cho đến, thân biết xúc, đáng ưa đáng thích, được ngườiđời tham đắm. Này chư Hiền, do nhân duyên là năm dục màsanh lạc, nên nhanh chóng diệt trừ. Cũng như có người cốý sát sanh, tự cho thế là khoái lạc. Thứ lạc như thế,nên nhanh chóng diệt trừ. Cóò người trộm cắp, tự cho thếlà khoái lạc. Thứ lạc ấy nên nhanh chóng diệt trừ. Cũngnhư có người phạm tịnh hạnh, tự cho thế là khoái lạc.Thứ lạc ấy nên chóng diệt trừ. Cũng như có người phóngđãng buông trôi, tự cho thế là khoái lạc. Thứ lạc ấynên nhanh chóng diệt trừ. Cũng như có người hành khổ hạnhbề ngoài, cho thế là khoái lạc. Thứ lạc ấy nên chóng diệttrừ. Cũng như có người ly dục, lìa bỏ pháp ác bất thiện,có giác có quán, có hỷ lạc phát sanh do ly dục, nhập Sơthiền. Lạc như thế là điều Phật khen ngợi. Cũng như cóngười diệt giác quán, nội tâm hoan hỷ, nhất tâm, khônggiác không quán, có hỷ lạc do định sanh, nhập Nhị thiền.Lạc như thế được Phật khen ngợi. Cũng như có người trừhỷ, nhập xả, tự biết thân lạc, là điều mà Hiền thánhmong cầu, có xả niệm, nhất tâm, nhập đệ Tam thiền. Lạcnhư thế được Phật khen ngợi. Lạc hết, khổ hết, ưu vàhỷ trước đã diệt, không khổ không lạc, hộ niệm thanhtịnh, nhập đệ Tứ thiền. Lạc như vậy được Phật khenngợi.

“Nếucó Phạm chí ngoại đạo nói như vầy: Trong lạc ấy, cácngươi tìm phẩm chất gì? Nên trả lời rằng: Lạc ấy sẽđưa đến phẩm chất của bảy quả. Những gì là bảy? Ngaytrong đời này, chứng đắc Thánh đạo. Giả sử chưa chứng,sau khi chết, sẽ chứng đắc Thánh đạo. Nếu trong khi chếtmà chưa chứng đắc, thì sẽ đoạn trừ năm hạ phần kết,sẽ chứng đắc Trung bát Niết-bàn, Sanh bát Niết-bàn, Hànhbát Niết-bàn, Vô hành bát Niết-bàn, Thượng lưu A-ca-nị-tráNiết-bàn. Này chư Hiền, như vậy lạc ấy có bảy phẩm chất.Chư Hiền, nếu Tỳ-kheo đang ở bậc học địa mà muốn hướngthượng, tìm cầu chỗ an ổn, nhưng chưa trừ năm triền cái.Những gì là năm? Tham dục triền cái, sân nhuế triền cái,thụy miên triền cái, trạo hý triền cái, nghi triền cái.Tỳ-kheo hữu học kia muốn cầu hướng thượng, tìm chỗ anổn, nhưng chưa diệt trừ năm triền cái, đối với bốn niệmxứ không hay tinh cần, đối với bảy giác ý không hay tinhcần, lại muốn chứng được pháp thượng nhân, trí tuệtăng thượng của Hiền thánh, mong cầu muốn biết, muốn thấy,không có trường hợp ấy.

“ChưHiền, Tỳ-kheo hữu học muốn cầu hướng thượng, tìm cầuchỗ an ổn, mà có thể diệt trừ năm triền cái là tham dụctriền cái, sân nhuế triền cái, thụy miên triền cái, trạohý triền cái, nghi triền cái, đối với bốn niệm xứ lạihay tinh cần, đối với bảy giác ý như thật tu hành, vịấy muốn được pháp thượng nhân, trí tuệ tăng thượngcủa Hiền thánh, muốn biết muốn thấy, có trường hợp nhưvậy.

“ChưHiền, có Tỳ-kheo là lậu tận A-la-hán, điều cần làm đãlàm xong, đã đặt gánh nặng xuống, đã đạt được mụcđích của mình, đã dứt sạch các kết sử của hữu, vớichánh trí đã giải thoát; vị ấy không làm chín việc. Nhữnggì là chín? Một là không giết. Hai là không lấy trộm. Balà không dâm. Bốn là không nói dối. Năm, không xả đạo. Sáu, không bị dục chi phối. Bảy, không bị sân chi phối.Tám, không bị sợ hãi chi phối. Chín, không bị nghi chi phối.Chư Hiền, ấy là vị lậu tận A-la-hán đã làm xong điềucần làm, đã đặt gánh nặng xuống, đã đạt được mụcđích của mình, đã dứt sạch kết sử của hữu, chánh trígiải thoát, xa lìa chín sự.

“Hoặccó Phạm chí ngoại đạo nói như vầy: Sa-môn Thích tử cópháp bất trụ. Nên trả lời vị ấy rằng: Chư Hiền, chớnói như vậy, rằng Sa-môn Thích tử có pháp bất trụ. Vìsao vậy? Pháp của Sa-môn Thích tử là thường trụ, khôngbị dao động. Cũng như ngưỡng cửa thường trụ không động.Pháp của Sa-môn Thích tử cũng vậy, thường trụ không diđộng.

“Hoặccó Phạm chí ngoại đạo nói như vậy: Sa-môn Cù-đàm biếtsuốt việc trong đời quá khứ, nhưng không biết việc trongđời vị lai. Tỳ-kheo kia, cùng Phạm chí dị học kia, trítuệ khác nhau, trí quán cũng khác, nên lời nói hư dối. NhưLai đối với việc quá khứ kia, không gì không thấy biết,rõ như ở trước mắt. Đối với đời vị lai, Như Lai cótrí tuệ phát sanh từ đạo. Việc trong đời quá khứ vốnhư dối không thật, không đáng vui thích, không lợi ích gì,Như Lai không ghi nhận. Hoặc việc quá khứ có thật, nhưngkhông đáng ưa thích, không ích lợi gì, Phật cũng không ghinhận. Nếu việc quá khứ có thật, đáng ưa, nhưng không lợiích, Phật cũng không ghi nhận. Nếu việc quá khứ có thật,đáng ưa, có lợi ích, Như Lai biết suốt, sau đó mới ghinhận. Vị lai, hiện tại, cũng vậy.

“NhưLai đối với quá khứ, vị lai, hiện tại, nói đúng thời,nói sự thật, nói có nghĩa, có lợi, nói đúng pháp, đúngluật, không có lời hư dối. Phật từ đêm đầu tiên thànhVô thượng Chánh giác cho đến đêm cuối cùng, trong khoảnggiữa, có nói điều gì, thảy đều như thật; do đó gọilà Như Lai.

“Lạinữa, những điều Như Lai nói đúng như sự; sự đúng nhưlời; do đó gọi là Như Lai.

“Donghĩa gì mà gọi là Đẳng Chánh Giác? Những gì mà Phật thấybiết, diệt trừ, giác ngộ, Phật thảy đều giác ngộ, biếtrõ, nên gọi là Đẳng Chánh Giác.

“Hoặccó Phạm chí ngoại đạo nói như vậy: Thế gian thường còn.Duy chỉ điều này là thật; ngoài ra đều là hư dối. Hoặccó người lại nói: Thế gian này là vô thường. Duy chỉ điềunày là thật; ngoài ra đều hư dối. Hoặc có người lạinói: Thế gian vừa thường vừa vô thường. Duy chỉ điềunày là thật; ngoài ra đều hư dối. Hoặc có người nói:Thế gian không phải thường, không phải vô thường. Duy chỉđiều này là thật; ngoài ra là hư dối.

“Hoặccó người nói: Thế gian hữu biên. Duy chỉ điều này là thật;ngoài ra đều hư dối. Hoặc có người nói: Thế gian vô biên.Duy chỉ điều này là thật; ngoài ra đều hư dối. Hoặc cóngười nói: Thế gian vừa hữu biên vừa vô biên. Duy chỉđiều này là thật; ngoài ra đều hư dối. Hoặc nói: Thếgian không phải hữu biên không phải vô biên. Duy chỉ điềunày là thật; ngoài ra đều hư dối.

“Hoặcnói: Chính mạng tức là thân. Duy chỉ điều này là thật;ngoài ra đều dối. Hoặc nói: Mạng không phải là thân. Đâylà thật; ngoài ra là dối. Hoặc nói: Mạng khác thân khác.Đây là thật; ngoài ra là dối. Hoặc nói: Không phải mạngkhác thân khác. Đây là thật; ngoài ra là dối.

“Hoặcnói: Như Lai có cuối cùng. Đây là thật, ngoài ra là dối.Hoặc nói: Như Lai không có cuối cùng. Đây là thật còn ngoàira là dối. Hoặc nói: Như Lai vừa có cuối cùng vừa khôngcó cuối cùng, đây là thật còn ngoài ra là dối. Hoặc nói:Như Lai không phải có cuối cùng cũng không phải không cócuối cùng, đây là thật còn ngoài ra là dối.

“Nhữngai có quan điểm như vậy, gọi là bổn sanh bổn kiến. Nayta ghi nhận cho ngươi rằng: Thế gian là thường còn... chođến, Như Lai không phải có cuối cùng cũng không phải khôngcó cuối cùng. Đây là thật còn ngoài ra là dối. Đó là bổnkiến bổn sanh. Hãy ghi nhớ lấy.

“Gọilà: Mạt kiếp mạt sanh. Ta cũng ghi nhận. Những gì là mạtkiếp mạt sanh được ta ghi nhận? Sắc là ta, tùy theo tưởngmà có cuối cùng; đây là thật còn ngoài ra là dối. Vô sắclà ta, tùy theo tưởng có cuối cùng. Vừa có sắc vừa vôsắc là ta, tùy theo tưởng mà có cuối cùng. Không phải cósắc không phải không sắc là ta, tùy theo tưởng mà có cuốicùng. Ta là hữu biên, ta là vô biên, ta vừa hữu biên vừavô biên, ta không phải hữu biên cũng không phải vô biên,tùy theo tưởng mà có cuối cùng. Ta có lạc, tùy theo tưởngmà có cuối cùng. Ta không có lạc, tùy theo tưởng mà có cuốicùng. Ta vừa có khổ vừa có lạc, tùy theo tưởng mà có cuốicùng. Ta không khổ cũng không lạc, tùy theo tưởng mà có cuốicùng. Một tưởng là ta, tùy theo tưởng mà có cuối cùng.Nhiều tưởng là ta, tùy theo tưởng mà có cuối cùng. Ít tưởnglà ta, tùy theo tưởng mà có cuối cùng. Vô lượng tưởnglà ta, tùy theo tưởng mà có cuối cùng. Đây là thật ngoàira là dối. Đó là tà kiến bổn kiến bổn sanh, được Taghi nhận.

“Hoặccó Sa-môn, Bà-la-môn, có luận như vầy, có kiến như vầy:thế gian này thường còn, đây là thật, ngoài ra là dối...cho đến, vô lượng tưởng là ta, đây là thật, ngoài ra làdối. Sa-môn, Bà-la-môn kia, lại nói như vầy, thấy như vầy:Đây là thật ngoài ra là hư dối. Nên trả lời người ấyrằng: Có phải ngươi chủ trương rằng, thế giới này làthường còn; đây là thật còn ngoài ra là dối? Lời nói nhưvậy Phật không chấp nhận. Vì sao? Trong các kiến giải đómỗi thứ đều có kết sử. Ta lấy lý mà suy, trong các Sa-môn,Bà-la-môn, không ai bằng Ta, huống hồ muốn hơn Ta. Các tàkiến như vậy chỉ có nơi lời nói mà thôi, không đáng cùngbàn luận... Cho đến vô lượng tưởng là ta, cũng vậy.

“Hoặccó Sa-môn, Bà-la-môn nói như vầy: Thế gian này tự tạo. Lạicó Sa-môn, Bà-la-môn nói: Thế gian này cái khác tạo. Hoặcnói: Vừa tự tạo vừa cái khác tạo. Hoặc nói: Không phảitự tạo cũng không phải cái khác tạo nhưng ngẫu nhiên màcó. Sa-môn, Bà-la-môn nào nói rằng thế gian là tự tạo thìcác Sa-môn, Bà-la-môn ấy đều nhân bởi nhân duyên là xúc.Nếu lìa xúc là nhân mà có thể nói được; không có trườnghợp ấy. Vì sao? Do sáu nhập thân mà phát sanh xúc. Do xúcmà sanh thọ. Do thọ mà sanh ái. Do ái mà sanh thủ. Do thủmà sanh hữu. Do hữu mà sanh sanh. Do sanh mà có già, chết, ưu,buồn, khổ não, khối lớn khổ đau. Nếu không có sáu nhập,thì không có xúc. Không có xúc thì không có thọ. Không cóthọ thì không có ái. Không có ái thì không có thủ. Khôngcó thủ thì không có hữu. Không có hữu thì không có sanh.Không có sanh thì không có già, chết, ưu, buồn, khổ não,khối lớn khổ đau.

“Lạinói, thế gian này do cái khác tạo; lại nói, thế gian nàyvừa tự tạo vừa do cái khác tạo; lại nói, thế gian nàykhông phải tự tạo cũng phải do cái khác tạo, nhưng ngẫunhiên mà có; cũng vậy. Nhân xúc mà có, không có xúc thì không”.”

Phậtbảo các Tỳ-kheo:

“Nếumuốn diệt trừ các quan điểm tà ác ấy, nên tu ba hành đốivới Bốn niệm xứ. Thế nào Tỳ-kheo diệt trừ các tà ác,nên tu ba hành với Bốn niệm xứ? Tỳ-kheo quán thân trên nộithân, tinh cần không biếng nhác, ghi nhớ không quên, trừ thamưu ở đời. Quán thọ, ý, pháp, cũng vậy. Đó là muốn diệttrừ ba hành đối với Bốn niệm xứ.

“Cótám giải thoát. Những gì là tám? Có sắc, quán sắc, đólà giải thoát thứ nhất. Bên trong có sắc tưởng, quán ngoạisắc là giải thoát thứ hai. Tịnh giải thoát là giải thoátthứ ba. Vượt sắc tưởng, diệt hữu đối tưởng, trú khôngxứ là giải thoát thứ tư. Xả không xứ trú thức xứ làgiải thoát thứ năm. Xả thức xứ, trú bất dụng xứ làgiải thoát thứ sáu. Xả bất dụng xứ, trú hữu tưởng vôtưởng xứ là giải thoát thứ bảy. Diệt tận định, giảithoát thứ tám”.”

Bấygiờ, A-nan đứng sau Thế Tôn, cầm quạt quạt Phật, bèn trịcháo bày vai phải, quỳ gối phải xuống đất, chắp tay bạchPhật rằng:

“Kỳdiệu thay, Thế Tôn. Pháp này thanh tịnh, vi diệu bậc nhất,nên gọi là gì? Nên phụng trì như thế nào?”

Phậtbảo A-nan:

“Kinhnày gọi là là “Thanh tịnh”. Ngươi hãy phụng trì như thế”.”

Bấygiờ, A-nan sau khi nghe những lời Phật dạy, hoan hỷ phụnghành.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567