LĂNGGIÀA BẠT ĐA LA BỬU KINH
PhápSư Tam Tạng Ấn Độ Cầu Na Bạt Đà La dịch từ Phạn sangHán đời nhà Tống.
ViệtDịch: Tỳ Kheo Thích Duy Lực
ĐạiHuệ Bồ Tát lại bạch Phật rằng :
-Thế Tôn! Như Thế Tôn nói "Sáu Ba La Mật đầy đủ thì đượcthành Chánh Giác". Thế nào là sáu?
Phậtbảo Đại Huệ :
- BaLa Mật chia làm ba loại là: Thế gian, xuất thế gian và siêuviệt xuất thế gian. Đại Huệ! Nói THẾ GIAN BA LA MẬT làchấp trước ngã và ngã sở, nhiếp thọ nhị biên, là chỗđủ thứ thọ sanh, ham sắc, thanh, hương, vị, xúc, đầy đủBố Thí Ba La Mật và trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiềnđịnh, trí huệ cũng như thế. Phàm phu do đó đắc thần thôngvà sanh cõi Trời Phạm Thiên.
- ĐạiHuệ! Nói XUẤT THẾ GIAN BA LA MẬT, là vì Thanh Văn, Duyên Giácđọa nơi nhiếp thọ Niết Bàn, dù hành sáu Ba La Mật mà hamtrụ sự vui nơi Niết Bàn của chính mình.
- NóiSIÊU VIỆT XUẤT THẾGIAN BA LA MẬT, là giác được vọng tưởngnhiếp thọ nơi tự tâm hiện và biết tự tâm bất nhị, nênchẳng sanh vọng tưởng, đối với sự nhiếp thọ của cácloài đều chẳng có phần. Chẳng chấp trước sắc tướngcủa tự tâm, nhưng vì khiến tất cả chúng sanh được anlạc mà tùy duyên giáo hóa, gọi là Bố Thí Ba La Mật. Tạophương tiện khéo léo, tùy duyên giữ giới thì vọng tưởngchẳng sanh, là Trì Giới Ba La mật. Ngay nơi bị nhục mà vọngtưởng chẳng sanh, biết năng nhiếp sở nhiếp đều chẳngthật, là Nhẫn Nhục Ba La Mật. Ngày đêm tinh tấn, siêng năngtu hành, tùy thuận phương tiện mà vọng tưởng chẳng sanh,là Tinh Tấn Ba la Mật. Vọng tưởng dứt sạch, chẳng trụNiết Bàn của Thanh Văn, là Thiền Định Ba la Mật. Trí huệquán sát tự tâm vọng tưởng phi tánh, chẳng đọa kiến chấpnhị biên, chuyển thân này thù thắng hơn trước mà chẳngđoạn dứt, đắc Tự Giác Thánh Trí, là Bát Nhã Ba la Mật.
Khiấy, Thế Tôn muốn lặp lại nghĩa này mà thuyết kệ rằng:
TánhKHÔNG chẳng sát na,Phàmphu vọng chấp có.
Nhưdòng sông, tim đèn,
Vàchủng tử nẩy mầm.
Dờiđổi rất nhanh chóng,
Đềudo hành ấm chuyển.
Nghĩasát na Ta thuyết,
Tịchtịnh lìa sở tác.
Sátna dứt phiền não,
Tấtcả pháp chẳng sanh.
Cósanh thì có diệt,
Chẳngcó kẻ ngu thuyết.
Tánhtương tục chẳng dừng,
Dovọng tưởng huân tập.
Bởivô minh làm nhân,
Vọngtâm từ đó sanh.
Khisắc tướng chưa sanh,
Cógì để phân biệt?
Thấysanh diệt tương tục,
Theođó chấp tâm khởi.
Nếuchẳng trụ nơi Sắc,
Theoduyên gì để sanh?
Sanhtừ vật khác sanh,
Thìnhân sanh chẳng thật.
Chẳngthật thì chẳng thành,
Saocó sát na hoại?
Ngườitu hành chánh định,
Nhưkim cương, xá lợi.
Việcđời còn chẳng hoại,
Huốnglà đắc chánh pháp!
NhưLai cụ túc trí,
CùngTỳ Kheo bình đẳng.
Saocòn thấy sát na?
Tấtcả cảnh huyễn hóa,
Sắctướng chẳng sát na,
Nơisắc tướng chẳng thật,
Xemcho là chơn thật.Khi ấy,Đại Huệ Bồ Tát lại bạch Phật rằng :
- BạchThế Tôn! Tại sao Thế Tôn thọ ký A La Hán sẽ thành Vô ThượngCháng Đẳng Chánh Giác, bằng với các Bồ Tát chẳng có saibiệt? Nếu Phật vì độ tất cả chúng sanh mà chẳng nhậpNiết Bàn thì ai đến Phật đạo? Tại sao nói "Từ lúc mớithành Phật cho đến nhập Niết Bàn, ở nơi khoảng giữa chẳngthuyết một chữ chẳng đáp một chữ?" Nói "Như Lai thườngĐịnh" thì chẳng có niệm lự quán sát, tức là vô ngôn vôthuyết thì chẳng thể giáo hóa, sao lại nói Hóa Phật đểlàm Phật sự? Tại sao nói các thức sát na chẳng trụ màcó tướng lần lượt biến hoại? Nói "Như Lai thường định"tại sao lại cần có Kim Cang Lực sĩ thường theo hộ vệ?Bản tế tịch diệt thì xa lìa phiền não, tại sao còn hiệnđủ thứ quả báo ma nghiệp ác nghiệp như ngoại đạo ChiênGiá Ma Nạp giả có thai và Tôn Đà Lợi giết con gái đểbáng Phật, khất thực thì chẳng ai bố thí, bát không màtrở về v.v... ? Như Lai đã đắc Nhất Thiết Chủng Trí, saochẳng lìa được những lỗi này?
Phậtbảo Đại Huệ :
- Hãychú ý nghe và khéo ghi nhớ, Ta sẽ vì ngươi mà thuyết.
ĐạiHuệ Bồ Tát bạch Phật rằng :
- Lànhthay, Thế Tôn! Cúi xin thọ giáo.
Phậtbảo Đại Huệ :
- Tathuyết Vô Dư Niết Bàn để khuyến dụ phàm phu tiến đếnbậc Bồ Tát, cũng khuyên các bậc tu hạnh Bồ Tát trong cõinày cõi kia, và những người ham Niết Bàn của Thanh Văn thừa,khiến lìa Thanh Văn thừa tiến lên Đại thừa, nên Hóa Phậtthọ ký cho hàng Thanh Văn, chứ chẳng phải Pháp Phật thọký. Do đó, sự thọ ký Thanh Văn với thọ ký Bồ Tát chẳngkhác. Đại Huệ! Nói "chẳng khác" là Nhị thừa, chư PhậtNhư Lai đoạn dứt phiền não chướng, cùng là một mùi vịgiải thoát, chẳng phải nói đoạn dứt trí chướng. ĐạiHuệ! Nói "Trí chướng" là thấy pháp Vô Ngã, thù thắng thanhtịnh; nói "phiền não chướng" là do trước kia tu tập thấynhơn Vô Ngã. Nghĩa là: Dứt phiền não chướng thì chuyểnđược thức thứ bảy diệt, ý thức chẳng hành; nếu phápchướng giải thoát thì chuyển được sự huân tập trong Tạngthức diệt, cứu cánh thanh tịnh, vì pháp bản trụ nên trướcsau đều phi tánh.
- Vìbản nguyện vô tận nên Như Lai Vô niệm lự, Vô quán sátmà thuyết pháp, dùng chánh trí giáo hóa thì niệm chẳng vọng,nên Vô niệm lự, Vô quán sát. Vì tập khí của bốn trụđịa và Vô Minh Trụ Địa dứt thì hai thứ phiền não dứt,lìa hai thứ sanh tử, giác được nhơn và pháp Vô Ngã đồngthời cũng doạn dứt hai chướng.
- ĐạiHuệ! Vì lìa cái nhân sát na tập khí của bảy thứ thứctrước, là pháp thiện vô lậu thì chẳng còn luân hồi. ĐạiHuệ! Nói "Như Lai Tạng", là phàm phu ngoại đạo chấp nơiKhông, do chấp Không mà nhiễu loạn ý thức, dù đắc KhôngHuệ nhưng chẳng biết Không là vô tri, vô tri thì chẳng cóhuệ, theo cái nhân khổ vui lưu chuyển. Nếu giác được Khôngmà chẳng Không, ấy là cái nghĩa sát na chơn thật của NhưLai Tạng. Phàm phu ngoại đạo chẳng thể giác được, lạicho là Niết Bàn.
- ĐạiHuệ! Nói KIM CANG LỰC SĨ THƯỜNG THEO Hộ Vệ, ấy là HóaPhật thôi, chẳng phải Chơn Như Lai. Đại Huệ! Nói CHƠN NHƯLAI là lìa tất cả căn lượng, nghĩa là tất cả căn lượngcủa phàm phu, Nhị thừa và ngoại đạo thảy đều diệt hết,chứng đắc Hiện Pháp Trụ Lạc, Vô Gián Pháp Trí Nhẫn, chẳngphải Kim Cang Lực Sĩ sở hộ vệ. Tất cả Hóa Phật chẳngtừ nghiệp sanh, nhưng Hóa Phật chẳng phải Phật mà chẳnglìa Phật, như thợ gốm làm ra các đồ gốm, đồ gốm chẳngphải đất nhưng chẳng lìa đất, theo tướng sở tác củachúng sanh mà thuyết pháp, chẳng phải chỗ Tự Thông mà thuyếtcảnh giới tự giác.
- Lạinữa, Đại Huệ! Phàm phu dựa theo thức thứ bảy chuyển diệtmà sanh khởi đoạn kiến, do chẳng giác được Tạng thứcmà sanh khởi thường kiến, tất cả đều do tự tâm vọngtưởng chẳng biết bản tế. Nếu tự tâm vọng tưởng diệtthì được giải thoát, giải thoát thì tất cả lỗi tậpkhí của bốn Trụ Địa và Vô Minh Trụ Địa thảy đều đoạndứt.
Khiấy, Thế Tôn muốn lặp lại nghĩa này mà thuyết kệ rằng:
TamThừa cũng phi thừa,NhưLai chẳng nhập diệt.
Tấtcả Phật sở ký,
Lìacác lỗi nhiễm tịnh.
Vìkhuyến dụ hạ căn,
Nênthuyết pháp ẩn lấp.
Vìbật Vô Gián Trí,
ThuyếtVô Dư Niết Bàn.
ChưPhật giả lập trí,
Tùycơ phân biệt thuyết.
Nếuchư thừa phi thừa,
Thìchẳng có Niết Bàn.
Dục,sắc, hữu, kiến ái,
Gọilà bốn Trụ Địa.
Doý thức sanh khởi,
Chủngtử trụ tạng thức.
Căn,trần, sáu thứ thức,
Đoạndiệt nói vô thường.
Hoặcthấy có Niết Bàn,
Lạicho là thường trụ.