Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Bài 3: Bốn giai đoạn của hệ thống thiền định

21/08/201914:29(Xem: 2700)
Bài 3: Bốn giai đoạn của hệ thống thiền định

duc dat lai lat ma-2
Thiền định

một phương pháp biến cải tâm linh

Đức Đạt-lai Lạt-ma

và Urgyen Sangharakshita

Hoang Phong chuyển ngữ

Bài 3

Bốn giai đoạn của hệ thống thiền định

            Đến đây chúng ta bắt đầu tìm hiểu về toàn bộ hệ thống thiền định, ít nhất là qua các nét đại cương của nó.  Hệ thống này gồm có bốn giai đoạn lớn, được tóm lược ngắn gọn dưới đây. Giai đoạn lớn thứ nhất là sự hợp nhất (unification), và đó cũng là điều tiên khởi mà các bạn phải làm trong khi thiền định. Sự hợp nhất đó sẽ đạt được nhờ vào phép luyện tập về sự chú tâm dựa vào hơi thở, và cả các phép luyện tập khác về sự chú tâm và sự ý thức tổng quát (có nghĩa là sự chú tâm hướng vào các cảm nhận của ngũ giác, các cử động trên thân thể, tư duy và xúc cảm trong tâm thức, và cả những gì xảy ra chung quanh mình, thế giới, con người và vũ trụ…). Điều chủ yếu nhất trong giai đoạn này là phải phát huy cho bằng được một cái tôi hợp nhất (tâm thức không phân tán, không bung ra tám hướng, nói một cách khác là đã phát huy được một sự chú tâm thật mạnh hầu ý thức được mình qua từng hơi thở, từng hành động, tư duy và xúc cảm của mình).

            Giai đoạn lớn thứ hai là « tích cực hóa » xúc cảm. Nếu muốn thực hiện được mục đich đó thì phải nhờ vào cách phát huy metta(lòng nhân ái, lòng từ tâm, tình thương yêu)karuna(lòng từ bi)mudita (niềm hân hoan), v.v. Trong giai đoạn này, cái tôi hợp nhất sẽ được nâng lên một cấp bậc cao hơn, tinh tế hơn và đồng thời cũng mạnh hơn (các cảm tính thương người thật sâu xa sẽ nâng tâm thức mình lên một cấp bậc cao hơn so với một tâm thức thông thường đầy những thứ bám víu và thèm khát trong cuộc sống thế tục). Thể dạng này được biểu trưng bởi một đóa sen trắng đang nở rộ.

Giai đoạn lớn thứ ba là cái chết tâm thần (spiritual dead), cái chết này sẽ đạt được nhờ vào sự hồi nhớ đến sáu thành phần, tuy nhiên cũng có thể nhờ vào các phép suy ngẫm về vô thường, cái chết, hoặc bằng các phương pháp thiền định về shunyata (sự trống không/Tánh không). Trong giai đoạn này chúng ta sẽ có thể nhìn xuyên qua cái tôi tinh tế của mình để cảm nhận được sự Trống không của shunyata, cũng như sự Trống không của cái chết.  

Sau hết là giai đoạn lớn thứ tư, đó là giai đoạn liên quan đến sự tái sinh trong lãnh vực tâm linh (spiritual rebirth). Phép thiền định mang tính cách trừu tượng về sự quán thấy (có nghĩa là không cần phải dựa vào các đối tượng cụ thể chẳng hạn như các vị Phật hay các vị Bồ-tát thật chính xác nào đó, mà chỉ cần dựa vào các hình dạng hình học chẳng hạn như các mandala hay các chữ cái trong tiếng Phạn) cũng có thể thực hiện được giai đoạn này. Trên đây là vài nét tổng quát về các giai đoạn chủ yếu trong hệ thống thiền định.

Thế nhưng các bạn cũng có thể nêu lên các điểm thắc mắc như sau: Vậy phép thụ phong (với ý nghĩa rộng là nghi lễ xuất gia. Theo Phật giáo Tây Tãng thì thụ phong là một nghi lễ đặc biệt dành riêng cho các đệ tử hay các tỳ-kheo đã đạt được một trình độ nào đó) sẽ được thực hiện vào giai đoạn nào? Boddhicitta(Bồ-đề tâm) sẽ hiển hiện vào lúc nào? Phép thiền định chỉ cần dựa vào tư thế tọa thiền nghiêm túc là gì? Tôi sẽ giải thích ngắn gọn về các thắc mắc này dưới đây.

Trước hết chúng ta hãy tìm hiểu xem phép thụ phong thuộc vào giai đoạn nào [trong số bốn giai đoạn của hệ thống thiền định]? Thụ phong có nghĩa là Bước vào một nơi an trú, nhưng cũng có nghĩa là dấn thân. Dấn thân thì có nhiều cấp bậc khác nhau. Về mặt lý thuyết, người ta có thể thụ phong cho một người nào đó chưa hề biết thiền định là gì, thế nhưng trên thực tế thì khác, tôi có thể bảo rằng chuyện đó khó có thể xảy ra, và theo sự hiểu biết của tôi thì chưa bao giờ xảy ra cả. Thật vậy, không bao giờ có thể dấn thân được – ít nhất là với ý nghĩa của sự thụ phong – khi mà mình chưa thực hiện được sự hợp nhất một cách nghiêm chỉnh (có nghĩa là tâm thức vẫn còn bung ra tám hướng, chưa tạo được cho mình một cái tôi tập trung và hợp nhất, một cá thể rõ nét, nói một cách vắn tắt là chỉ khi nào tạo được cho mình một sự quyết tâm thật mạnh và vững chắc nhờ vào sự hợp nhất của cái tôi khi đó thì mình mới có thể « đi tu » một cách vững chắc được). Thiếu sự hợp nhất đó thì các bạn sẽ dấn thân hôm nay theo chiều hướng này, ngày mai lại bỏ để hướng theo một hướng khác, chẳng qua vì các bạn chưa huy động được trọn vẹn con người của mình. Hơn nữa, các bạn cũng không thể nào dấn thân khi chưa tạo được cho mình một số vốn liếng xúc cảm tích cực. Thiếu cái vốn liếng đó các bạn sẽ không thể nào thăng tiến được. Ngoài ra nếu muốn dấn thân thì cũng cần phải có một chút lóe sáng của sự Quán thấy hoàn hảo (tức là một tí xíu Giác Ngộ nào đó), hoặc ít nhất cũng phải là một chút phản chiếu từ tia lóe sáng đó. Tuy nhiên một tia lóe sáng – hay một chút phản chiếu từ tia sáng đó – vẫn chưa thật sự đủ để biến các bạn trở thành một người Bước vào Dòng chảy (« Bước vào Dòng chảy » là một thuật ngữ Phật giáo dùng để chỉ những người gia nhập vào một Tăng đoàn để bước theo vết chân của Đức Phật) mà chỉ là một cái gì đó mang cùng một bản chất, thế nhưng tia sáng đó hay một chút phản chiếu từ tia sáng đó cũng thật hết sức cần thiết (giúp mình thoáng trông thấy Con Đường để bước theo). Chính vì thế nên vị trí của việc thụ phong sẽ nằm vào giữa giai đoạn thứ hai và thứ ba của hệ thống thiền định trên đây (xin nhắc lại: giai đoạn thứ hai là tạo được cho mình một số vốn liếng tích cực chẳng hạn như lòng nhân ái, lòng từ bi…, giai đoạn thứ ba là ý thức được vô thường, shunyata/sự trống không của thế giới hiện tượng và của cả cái chết, và chỉ khi đó thì mình mới « đi tu » một cách nghiêm chỉnh được). Người ta cũng có thể cho rằng phép thụ phong có thể thực thi vào lúc mới bắt đầu giai đoạn thứ ba, tức là giai đoạn của cái chết tinh thần (spiritual dead), hoặc ít ra cũng phải là một sự mở rộng sẵn sàng giúp mình cảm nhận được cái chết tinh thần đó (có nghĩa là chỉ « cảm nhận » được cái chết tinh thần hay tâm linh nhưng chưa hoàn toàn thực hiện được cái chết đó hầu giúp mình tái sinh đúng với ước vọng của mình, nói một cách khác là cảm nhận được shunyata/sự trống không, nhưng chưa hoàn toàn thực hiện được nó và hòa nhập với nó). Tuy nhiên, những gì trình bày trên đây cũng chỉ là Con đường chủ trương từng bước một (tức là các học phái chủ trương sự Giác Ngộ xảy ra tuần tự từng cấp bậc), bởi vì chúng ta cũng hiểu rằng có một Con đường khác chủ trương những bước không tuần tự (các học phái cho rằng sự Giác Ngộ mang tính cách đột phát và trực giác).

            Đến đây chúng ta sẽ đề cập đến điểm thắc mắc thứ hai là Bodhicitta (Bồ-đề tâm) sẽ hiển hiện ở đâu? Bodhicitta có nghĩa là « Quyết tâm đạt được Giác Ngộ » (desire to awaken). Quyết tâm đó không mang tính cách ích kỷ (tức là chỉ nhằm mang lại sự Giác Ngộ cho mình) mà đúng hơn là một niềm ước vọng mang bản chất siêu-cá-thể (supra-individual/vượt lên trên cả chính mình)Bodhicitta chỉ có thể hiển hiện khi nào tính cách cá thể (individuality) (với ý nghĩa là một cá thể bình thường) đã bị đâm thủng ở một mức độ nào đó. Tóm lại Bodhicitta là ước vọng đạt được Giác Ngộ vì sự tốt lành của tất cả [chúng sinh] – thật ra thì đấy cũng chỉ là một cách giải thích thông thường mà thôi, chưa phải là trường hợp ước vọng của một « người tự chủ » (tức đã tạo được cho mình tính cách nhất thể và một cái tôi hợp nhất cùng với một số vốn liếng xúc cảm tích cực – độc giả có thể xem lại cách định nghĩa về « con người tự chủ » trong bài giảng thứ nhất) tìm cách đạt được sự Giác Ngộ vì sự tốt lành của « những người khác rất thật » (có nghĩa là rất cụ thể). Sự hiển hiện của Bodhicitta vượt lên trên cái tôi (cái ngã) [của mình] và vượt lên trên cả « những người khác » nữa – dù rằng chẳng có cái tôi nào và cũng chẳng có một người khác nào cả. Bodhicitta hiện ra khi cái tôi trần tục bị đâm thủng, thế nhưng vẫn còn thuộc vào giai đoạn trước sự hiển lộ thật sự của cái tôi siêu nhiên. Bodhicitta chỉ thật sự hiện ra khi nào người ta không còn tìm kiếm sự Giác Ngộ cho cái tôi (cái ngã) [của mình] nữa, thế nhưng cũng vẫn chưa phải hoàn toàn là vì người khác. Do đó Bodhicitta chỉ hiện ra giữa giai đoạn thứ ba và thứ tư, có nghĩa là giữa cái chết tinh thần và sự tái sinh tâm linh. Tuy nhiên cũng có một cách rút ngắn giai đoạn, đó là lúc mà mình được tiếp nhận câu mantra qua các nghi lễ thụ phong dành riêng cho mình (private ordination, tức là các nghi thức thụ phong dành riêng cho một người hay nhiều người đã hội đủ một số tiêu chuẩn nào đó. Điều này cho thấy không có gì là « mật » trong Phật giáo Tây Tạng để gọi Phật giáo này là « Mật tông ». Chữ « Mật tông » trong các kinh sách Hán ngữ là một giáo phái được hình thành tại Trung quốc). Trong dịp này, câu mantra được xem như là một hạt giống của hạt giốngBodhicitta (có nghĩa là phép thụ phong là cách đưa vào bên trong chính mình một hạt giống và hạt giống này sẽ tạo ra hạt giống Bodhicittacủa trong tương lai trên đường tu tập của mình). Dầu sao được thụ phong cũng là cách vượt lên trước kẻ khác, một cách khởi hành sớm hơn, và cũng có nghĩa là tách ra khỏi nhóm (có thể hiểu là những người trong Tăng đoàn chưa được thụ phong), nếu không phải là trên phương diện vật lý (thân xác) thì ít nhất cũng là trên phương diện tâm lý, đó là cách tách rời khỏi nhóm, « chết » vì nhóm, là cách mà mình ước vọng đạt được Giác Ngộ. Thật hết sức hiển nhiên, chúng ta không phải chỉ ước vọng vì sự tốt lành của riêng mình, mà trên phương diện tối hậu là vì tất cả những người khác. Chính vì thế nên không phải là một sự ngạc nhiên khi nhận thấy hiện ra với mình một tia sáng mong manh phản chiếu từ Bodhicitta, ít nhất là trong một vài trường hợp nào đó.

            Thắc mắc thứ ba là phép chỉ cần chú tâm vào tư thế ngồi thiền thật nghiêm túc là gì? Thật hết sức khó giải thích dông dài một khi đã khẳng định : « chỉ cần ngồi thiền thật nghiêm tức cũng chỉ có nghĩa là chỉ cần ngồi thiền thật nghiêm túc » (đây là phép hành thiền của các học phái thiền học nói chung – nhất là các học phái Zen – khi các học phái này chủ trương chỉ cần chú tâm vào tư thế tọa thiền thật đúng đắn và nghiêm túc, không cần phải suy tư, ngẫm nghĩ hay phân giải gì cả). Tuy nhiên ít ra người ta cũng có thể nêu lên một nhận xét là có những lúc người ta ngồi thật nghiêm túc, nhưng cũng có những lúc người ta ngổi không nghiêm túc. Đối với các phép thiền định khác thì không phải chỉ cần ngồi thật nghiêm túc là đủ, chẳng hạn như trong khi luyện tập về sự chú tâm hướng vào hơi thở, Metta bhavana (Lòng nhân ái vô biên) hay cách hồi nhớ lại sáu thành phần, v.v., thì không phải chỉ cần ngồi thật nghiêm túc là đủ, bởi vì tất cả các phép thiền định này đều đòi hỏi phải có một sự cố gắng ý thức (một sự cố gắng suy nghĩ, tìm hiểu, phân giải về một sự kiện hay một chủ đề nào đó). Thế nhưng phải cẩn thận không nên để cho sự cố gắng đó trở thành một sự ước mong quá đáng, hay một sự quyết tâm căng thẳng. Nếu muốn hóa giải các xu hướng này (tức là tình trạng thúc đẩy sự lý luận một cách quá mức) thì chúng ta có thể thực thi phép thiền định « chỉ cần ngồi thật nghiêm túc », điều này có nghĩa là chúng ta sẽ thực thi phép thiền định « chỉ cần ngồi thật nghiêm túc » chen vào giữa các phép thiền định khác (khi cảm thấy mình đang có xu hướng thúc đẩy sự lý luận quá đáng thì nên chú tâm ngay vào tư thế ngồi thiền của mình xem có thật đúng đắn và nghiêm túc hay không). Điều đó cho thấy có những lúc năng hoạt (tức là đang luyện tập về sự chú tâm hướng vào hơi thở hay đang thực thi phép hành thiền Metta bhavana chẳng hạn), thế nhưng cũng có những lúc có thể xem như là thụ động, hay thụ cảm (receptivity/tiếp nhận xúc cảm và các sự cảm nhận ngoài ý muốn của mình, tức là một thể dạng buông lỏng sự chú tâm của mình). Đó là một sự diễn tiến mang tính cách liên tục và xen kẽ: năng hoạt – thụ cảm – năng hoạt – thụ cảm, v.v., chẳng hạn như: chú tâm vào hơi thở –  chỉ cần tọa thiền nghiêm túc –Metta bhavana – chỉ cần tọa thiền nghiêm túc – hồi nhớ lại sáu thành phần – chỉ cần tọa thiền nghiêm túc – luyện tập sự Quán thấy – chỉ cần tọa thiền nghiêm túc. Tóm lại trong lúc hành thiền chúng ta cứ tiếp tục theo cách đó với một nhịp độ đều đặn và một sự thăng bằng hoàn hảo. Điều này có nghĩa là có những lúc chúng ta tập trung nhưng cũng có những lúc chúng ta buông lỏng: « năng hoạt » và « phi năng hoạt » xen kẽ nhau. Đấy là cách thực thi thiền định một cách thăng bằng, bao gồm toàn bộ hệ thống thiền định.

(Mục đích trong việc luyện tập thiền định là mang lại một sự hiểu biết xuyên thấu – vipassana – điều đó đòi hỏi một sự chú tâm cao độ –  samatha – thế nhưng hầu hết các học phái Thiền học nhất thiết chủ trương hành thiền chỉ là cách cần chú tâm thật mạnh, thật đúng đắn và nghiêm túc vào tư thế tọa thiền. Cố gắng tuyệt vời của nhà sư Sangharakshita trên đây là ghép chung cả hai khuynh hướng luyện tập « năng hoạt » và « phi năng hoạt » trong cùng một hệ thống thiền định chung do ông thiết lập. Đồng thời hệ thống này cũng cho thấy sự suy luận và phân giải – tức là vipassana (còn gọi là thiền minh sát) – là một sự cần thiết và Giác Ngộ là một sự thăng tiến tuần tự, theo từng cấp bậc một).  

                                                                                                Vittel, 15.08.19

                                                                                       Hoang Phong chuyển ngữ

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
20/01/2011(Xem: 3806)
Tất cả chúng ta đều đồng ý là, pháp tu của Đạo Phật, dù phương tiện có thể khác song cứu cánh phải gặp nhau. Nếu hai pháp tu mà phương tiện và cứu cánh đều khác biệt nhau thì, pháp nầy là Đạo Phật, pháp kia hẳn không phải Đạo Phật. Phật giáo Việt Nam đã mang sẵn hai pháp tu Thiền: Thiền Tông và Thiền Nguyên Thủy. Vậy sự gặp gỡ nhau như thế nào? Đây là mục tiêu chúng ta phải nghiên cứu. Theo thiển kiến chúng tôi thấy có những điểm gặp nhau, như dưới đây:
08/01/2011(Xem: 3890)
Chúng ta sử dụng suy nghĩ như một công cụ, như hành vi để biết sự sinh khởi, bởi vì công năng của thiền quán thì ở trên và vượt qua tiến trình suy nghĩ; nó dẫn chúng ta tới chỗ không bị mê vọng bởi sự suy nghĩ.
04/01/2011(Xem: 8472)
Trí toàn giác không thể không nhân mà có, vì nếu là như vậy, bất cứ điều gì cũng có thể là toàn giác. Nếu sự việc sinh ra không tùy thuộc vào điều gì khác, như vậy mọi sự đều có thể hiện hữu không câu thúc, sẽ chẳng lý do gì lại không thể là toàn giác. Chính vì sự vật chỉ phát sinh tùy lúc, nên bắt buộc phải tùy thuộc nhân duyên. Trí toàn giác cũng vậy, rất hiếm hoi, không phải bất cứ lúc nào, chỗ nào, cũng có thể sinh ra. Cho nên trí toàn giác nhất định phải tùy thuộc nhân duyên.
31/12/2010(Xem: 11702)
Quyển TRUNGPHONG PHÁP NGỮ này được hình thành từ sự tuyển dịch một số bài pháp ngữ củaThiền Sư Trung Phong khai thị đồ chúng trong bộ Thiền Sư Tạp Lục, 3 quyển, introng Tục Tạng Kinh, tập số 122. Nội dung sách tấn người học lập chí lâubền, gan dạ liều chết hạ thủ công phu tham cứu thoại đầu cho đến khi khối nghibùng vỡ, hoàn toàn liễu thoát sanh tử.
26/12/2010(Xem: 12729)
“Con đường Thiền Chỉ Thiền Quán”đã được Ngài Guṇaratana trình bày một cách khúc chiết, rõ ràng có thể giúp cho những ai muốn nghiên cứu tường tận chỗ đồng dị, cộng biệt, sinh khắc của hai pháp môn này hầu tránh tình trạng nhầm lẫn, võ đoán và phiến diện trong lý thuyết cũng như trong thể nghiệm con đường giác ngộ giải thoát. Rất nhiều sách trình bày nhầm lẫn giữa Định và Tuệ hay Chỉ và Quán, đưa đến tình trạng định không ra định, tuệ chẳng ra tuệ, hoặc hành thiền định hóa ra chỉ là những “ngoại thuật” (những hình thức tập trung tư tưởng hay ý chí có mục đích khác với định nhà Phật), và hành thiền tuệ lại có kết quả của định rồi tưởng lầm là đã chứng được các bậc tuệ quán.
07/12/2010(Xem: 12750)
Ngày hôm qua Steve tới thăm với chú bé Mickey 7 tuổi. Gớm, thằng bé lớn mau quá đi thôi và nghịch ghê. Nó nói giỏi cả tiếng Pháp lẫn tiếng Anh. Nó còn nói được tiếng lóng học ở ngoài đường nữa. Trẻ con bên này được nuôi dạy khác với lối nuôi dạy trẻ con bên mình. Cha mẹ chúng để chúng “tự do phát triển”. Suốt hai giờ ngồi nói chuyện, Steve phải để ý tới thằng bé. Nó chơi, nó nghịch, nó xan vào cả câu chuyệncủa người lớn. Nó làm cho người lớn không nói chuyện với nhau được. Tôi đưa cho nó mấy quyển sách hình của trẻ con, nhưng nó chỉ lật xem sơ sơ rồi lại bỏ sách, xen vào giữa tôi và ba nó. Nó đòi sự chú ý của thế giới người lớn.
30/11/2010(Xem: 4702)
Tứ thiền (catvāri dhyānāni) là bốn phương pháp thiền định dùng cho cả nội giáo và ngoại giáo cùng tu tập thực hành, nhằm đối trị các lậu hoặc, là nhân siêu việt mọi lưới hoặc nghiệp của dục giới, là quả sinh lên cõi sắc giới, là y địa căn bản nơi sinh ra các công đức, cũng có nghĩa là bốn loại thiền định căn bản sinh ra các thứ công đức; đó chính là Sơ thiền, Nhị thiền, Tam thiền, Tứ thiền thuộc Sắc giới
06/11/2010(Xem: 4826)
Sức khỏe đựơc định nghĩa “ là một tình trạng hoàn toàn sảng khoái (well-being, bien-être) về thể chất, tâm thầnvà xã hội, chớ không phải chỉ là không có bệnh hay tật “ (WHO, Tổ chức sức khỏe thế giới, 1946) . Một định nghĩa như thế cho thấy cái gọi là “sức khỏe” của một con người không thể chỉ khu trú vào chuyện có hay không có bệnh, tật; cũng như không thể đánh giá sức khỏe của một cộng đồng mà chỉ dựa vào tỷ lệ giường bệnh, tỷ lệ bác sĩ…!
06/11/2010(Xem: 5030)
Có một sự nhất quán, xuyên suốt trong lời dạy hướng dẫn kỹ năng thiền định của Phật, từ Tứ niệm xứ (Satipatthàna) tới Thân hành niệm ( Kàyagatàsati), rồi Nhập tức xuất tức niệm (Ànàpànasati), đó là thở: Thở vào thì biết thở vào, thở ra thì biết thở ra. Thở vào dài thì biết thở vào dài, thở ra ngắn thì biết thở ra ngắn… Tóm lại, đó là luôn bắt đầu bằng sự quán sát hơi thở, đặt niệm (nhớ, nghĩ) vào hơi thở.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567