Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tu Học So Với Hành Thiền Hai yếu tố này bổ sung hay cạnh tranh với việc tu tập?

12/09/201710:19(Xem: 4602)
Tu Học So Với Hành Thiền Hai yếu tố này bổ sung hay cạnh tranh với việc tu tập?

Choden Rinpoche

Tu Học So Với Hành Thiền

Hai yếu tố này bổ sung hay cạnh tranh với việc tu tập?

 

Đối với một người quan tâm đến thành tựu giác ngộ thì việc tu học có quan trọng hay không? Một số dòng truyền thừa đặt nặng việc hành thiền hơn tu học, và nói rằng không cần thiết phải tu học, vì điều này chỉ khiến tâm tràn đầy tư tưởng, và tư tưởng thì không phải là thiền. Tạp chí Mandala đã chọn lựa và trưng cầu ý kiến cùng sự quan sát của một số lạt ma, học giả và hành giả.

 

Chúng tôi bắt đầu với Nick Ribush nói chuyện với Choden Rinpoche, để xin Ngài ban cho lời khuyên uyên bác. Choden Rinpoche, Losang Gyalten Jigdrel Wangchuk, là người có kỷ lục tu học oanh liệt vào thời trẻ, và sau đó, ngài đã nhập thất trong 19 năm. 

 

Choden Rinpoche: Quá trình được đề ra là trước hết, lắng nghe giáo pháp, rồi tư duy về những gì con đã nghe, rồi thiền quán về những điều này. Vì vậy, điều quan trọng lúc đầu là đi tìm một vị thầy uyên bác để tu học với vị này; rồi phân tích bất kỳ điều gì con đã nghe bằng biện chứng hợp lý, đó là việc tư duy; rồi chú tâm nhất điểm vào những điều con đã thiết lập sau quá trình phân tích, điều mà trong bối cảnh này gọi là hành thiền. Thế thì ba điều này phải đi theo thứ tự: văn, tư, tu. Cả hai vị Phật, Đức Thích Ca Mâu Ni và Đức Di Lặc đều nói như vậy.

 

Nick Ribush: Thế thì nếu không có cả hai yếu tố tu học và hành thiền, chúng ta không thể đạt được giác ngộ, phải không ạ?

 

Choden Rinpoche: Điều quan trọng là thiền quán về bất cứ điều gì con đã học hỏi. Nếu không làm như vậy thì những gì con đã học sẽ không giúp ích gì cho tâm mình.

 

Nick Ribush: Xin cảm ơn Rinpoche. Trước tiên, chúng ta nên lắng nghe những giáo pháp gì?

 

Choden Rinpoche: Điều này còn tùy vào hình thức tu học mà con dự định sẽ thực hiện. Nếu đó là chương trình tu học sâu rộng thì con nên theo gương của chư Tăng trong các tu viện lớn của Sera, Drepung và Ganden, nơi mà các Thầy nghiên cứu năm môn học chính [Bát nhã ba la mật (Prajnaparamita), triết lý Trung đạo (Madhyamaka), Lượng học (pramana), A tỳ đạt ma (abhidharma) và giới luật (vinaya)] qua nhiều năm, hay thậm chí suốt đời. Ở mức độ tu học trung bình thì con có thể chú trọng vào những tác phẩm như Bồ Tát Hạnh (Guide to the Bodhisattva's Way of Life) của ngài Tịch Thiên và luận giải về sách này, cũng như Toát Yếu Tu Tập (Compendium of Training). Nếu không có nhiều thời giờ thì con có thể nghiên cứu Lam-rim.

 

Nick Ribush: Hành thiền có phải là một phần trong việc đào tạo chư Tăng tại các tu viện lớn, theo sau chương trình tu học lâu dài không?

 

Choden Rinpoche: Việc hành thiền không phải là một phần của chương trình tu học chính quy, nhưng có những vị sư vừa tu học, vừa hành thiền. Họ thiền quán về những gì họ đã học, học và hành nên đi đôi với nhau. Ban ngày, chư Tăng học thuộc lòng, rồi trì tụng những gì họ đã học thuộc lòng vào buổi chiều, và sau đó, thiền quán về những gì họ đã học vào buổi tối. Đa số các tu viện có luật lệ là sau khi vị sư quản giáo kỷ luật đã ra dấu hiệu vào buổi tối thì mọi người sẽ phải ngưng trì tụng, để không làm phiền những nhà sư đang hành thiền. Thậm chí, họ không được mang giày khi đi lại. Vậy là tuy việc hành thiền không phải là phần bắt buộc hay thuộc về chương trình tu học, nhưng chư Tăng được khuyến khích hành thiền, và tu viện cũng tạo ra điều kiện thuận lợi để họ có thể hành thiền.

 

Nick Ribush: Các tu viện lớn có các bậc thầy là thiền giả hay hành giả du già (yogi) để hướng dẫn chư Tăng hành thiền hay không?

 

Choden Rinpoche: Có, và bất cứ điều gì chư Tăng được dạy là để nhắm vào việc hành thiền. Họ học hỏi về tánh Không là để thiền quán về đề tài này, về thiền chỉ là để hành thiền, vân vân…

 

Nick Ribush: Tuy nhiên, những người có công việc, gia đình và không có nhiều thời gian thì nên chú trọng vào Lam-rim?

 

Choden Rinpoche: Đúng, nhưng ngay cả sách Lam-rim cũng có bộ dài, bộ trung bình và bộ ngắn, và những ai có công việc và gia đình thì có thể gặp khó khăn với những bộ dài hơn. Những bộ Lam-rim ngắn như Giải Thoát Trong Lòng Bàn Tay (Liberation In The Palm Of Your Hand), Đường Tu Nhanh Chóng (Swift Path), hay Đường Tu Cực Lạc (Blissful Path), có thể thích hợp với những người có ít thời giờ.

 

Nick Ribush: Những người bận rộn nên thiền quán như thế nào về tác phẩm Lam-rim mà họ đã học hỏi?

 

Choden Rinpoche: Họ phải dành thời giờ để hành thiền và tu tập. Ở Tây Tạng thì không có thời gian dành riêng cho công việc. Người ta tự sắp xếp giờ giấc sinh hoạt và dành một thời gian dài hay ngắn cho mọi việc, tùy theo ý muốn. Họ có thể tu tập một vài tiếng vào buổi sáng, trước khi đi làm, nhưng ở đây, các con phải đi làm đúng giờ giấc theo ý muốn của cấp trên, nên phải sắp xếp thời gian theo cách tốt nhất, ví dụ như tu tập một tiếng trước giờ đi làm và một tiếng sau khi tan sở.

 

Nick Ribush: Những người tu tập như vậy có thể nào có thực chứng hay không?

 

Choden Rinpoche: Có thể chứ. Nếu như tu tập liên tục thì con sẽ ngày càng quen thuộc hơn với pháp tu đó, và hành thiền rất dễ dàng. Nhờ vậy mà con có thể có chứng ngộ.

 

Nick Ribush: Những người tu tập Lam-rim theo cách như vậy thì nên sắp xếp bài thiền quán như thế nào?

 

Choden Rinpoche: Chẳng hạn như con khởi đầu với bài thiền quán về kiếp người hoàn hảo thì hãy bỏ nhiều thời giờ hơn cho đề mục này, rồi dùng ít thời giờ cho toàn bộ những đề mục khác. Làm như vậy thì con có thể thiền quán toàn bộ đường tu. Khi đã quen thuộc với đề mục kiếp người hoàn hảo thì hãy bỏ nhiều thời gian cho đề mục kế tiếp là vô thường và cái chết, rồi bỏ ít thời giờ cho mỗi một đề mục còn lại. Sau đó, khi đã quen thuộc với đề mục thứ nhì thì hãy chuyển sang đề mục kế tiếp. Tuy nhiên, trước khi thiền quán về Lam-rim thì nên hành trì các pháp tu sơ khởi, để tịnh hóa tâm mình và tích tập công đức.

 

Nick Ribush: Làm sao mà kiến thức sách vở trở thành vô niệm? Tâm sẽ chuyển hóa như thế nào?

 

Choden Rinpoche: Phải mất một thời gian dài thì tâm mới trở thành vô niệm. Đối với phàm nhân thì nhận thức vô niệm duy nhất là các thức của ngũ quan. Ý thức thì chủ yếu là vọng niệm. Chúng ta biết được những điều mà mình biết là nhờ nhận thức bằng suy luận: “Nó như vầy là vì nó như thế kia.”. Điều này cũng là vọng niệm.

 

Nick Ribush: Một số người nói rằng nên dừng tâm vọng niệm và cứ để cho tâm nghỉ ngơi trong trạng thái vô niệm. Điều này có sai không?

 

Choden Rinpoche: Có lẽ một số người nói như thế, nhưng khi nghiên cứu những tác phẩm Phật học lớn, các kinh điển và luận giải thì nó không phải như vậy. Chỉ vì niệm tưởng đã ngưng, không có nghĩa là tâm con đã trở thành vô niệm. Khi thực hành thiền định thì con sẽ chú tâm vào một đối tượng. Khi đó, đúng là con không được suy nghĩ bất cứ điều gì, mà phải ngưng mọi niệm tưởng, ngay cả các niệm thiện, bởi vì chúng cũng quấy nhiễu định tâm của mình, nhưng khi làm được như vậy thì không có nghĩa là tâm con đã trở nên vô niệm.

 

Nick Ribush: Thưa Rinpoche, khi hành thiền ở Lhasa suốt bao nhiêu năm trời thì ngài đã tu tập pháp thiền nào?

 

Choden Rinpoche: Tôi ở trong ngôi nhà đó hơn 20 năm, nhưng không liên tục hành thiền. Tôi đã trì chú, hành thiền chút ít và tu tập các pháp tu khác, nên không có thực chứng về đại định hay bất cứ điều gì tương tự như vậy. Nếu muốn có thực chứng về đại định thì phải tìm một nơi thích hợp để hành thiền. Ngôi nhà ấy không phải là nơi thích hợp, vì tôi không biết khi nào thì công an Trung Quốc sẽ đến nhà. Họ sẽ đến một cách bất ngờ vào bất cứ lúc nào, ngày hay đêm, không hề báo trước, nên tôi luôn luôn có sự nghi ngờ, “Khi nào thì họ tới? Họ sẽ làm gì đây?”, nên tâm trí không đủ thư thả để chú tâm vào đối tượng 100%, vì nếu muốn chứng ngộ đại định thì phải làm được như vậy.

 

Nick Rinpoche: Ngài có điều gì để nói thêm về mối quan hệ giữa tu học và hành thiền không, thưa Rinpoche?

 

Choden Rinpoche: Nếu muốn hành thiền thì điều quan trọng là phải nghiên cứu và học hỏi. Nếu không học hỏi thì không có cách nào để hành thiền. Tùy ý con muốn học hỏi nhiều, học vừa phải hay chút ít thôi, nhưng khi thực hành bất cứ pháp thiền nào, dù là thiền quán hay thiền định thì con phải biết mình sẽ thiền về cái gì. Nếu như không biết đối tượng thiền thì không có cách nào để hành thiền về nó, và nếu cố làm như vậy thì con sẽ giống như người mà Đức Sakya Pandita mô tả: người cụt tay đi leo núi. 

 

Nick Ribush: Vậy thì chúng ta không thể đạt giác ngộ, nếu như không thực hiện cả hai việc tu học và hành thiền?

 

Choden Rinpoche: Điều quan trọng là thiền quán về bất cứ điều gì con học hỏi. Nếu không thì những gì học được sẽ không giúp ích cho tâm con bao nhiêu. Đúng là một vài vị thầy ở Tây Tạng và những nơi khác nói rằng con không cần tu học, chỉ cần hành thiền thôi. Họ cho rằng những người tu học chỉ hiểu biết các pháp như cách một người ăn xin biết đến của cải, trong khi những ai hiểu biết nhờ hành thiền thì giống như những người giàu sang, có của cải. Tuy nhiên, văn, tư, tu rất quan trọng. Cả ba yếu tố nên được phối hợp với nhau, bởi vì chúng bổ sung cho nhau.

 

Choden Rinpoche
Choden Rinpoche được phỏng vấn tại Trung Tâm Kurukulla,
Massachusetts, ngày 19 tháng 11, 2004. Thubten Damchoe thông dịch và Nick Ribush hiệu đính.
 

 

Sinh năm 1931 ở miền Đông Tây Tạng, Choden Rinpoche, Losang Gyalten Jigdrel Wangchuk, lúc 3 tuổi đã được thừa nhận là vị tái sinh của Choden Rinpoche đời trước, người đã từng là một ứng viên cho việc chọn lựa Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 12. Khi lên tám, ngài tu học ở Tu Viện Rabten, và năm 15 tuổi, ngài gia nhập Tu Viện Sera Je, nơi ngài đã tu học năm kinh sách chính.


  Dù Rinpoche đã học xong lớp Lharam và có thể trở thành một Geshe, nhưng sư phụ của ngài bảo ngài khoan dự kỳ thi. Choden Rinpoche quyết định nghiên cứu giáo pháp về Giới luật (vinaya), và ngài được xem là một trong những học giả uyên bác về môn học này. Choden Rinpoche là một trong hai vị lạt ma của Sera Je được tuyển chọn để biện kinh với Đức Đạt Lai Lạt Ma, trong kỳ thi tốt nghiệp văn bằng Geshe của Đức Đạt Lai Lạt Ma.

 

Trong thời gian Cộng sản Trung Hoa chiếm Tây Tạng năm 1959, Choden Rinpoche sống ở Tây Tạng và nhập thất 19 năm. Ngài không bao giờ ra khỏi gian phòng nhỏ bé và tối tăm ở Lhasa, từ 1965 đến 1985, và vì lý do này, hoàn toàn không được biết đến ở tu viện của mình. Năm 1985, ngài được phép rời Tây Tạng để đến Ấn Độ, và từ đó, đã giảng dạy hàng ngàn tăng sinh ở Tu Viện Sera Je tại Nam Ấn qua nhiều năm. Với lời thỉnh cầu của Lama Zopa Rinpoche, hiện nay, Choden Rinpoche đã viếng thăm các nước Tây phương một vài lần để hoằng pháp và hướng dẫn các khóa nhập thất.

 

Nguyên tác Anh ngữ: Tạp chí Mandala tháng 2/tháng 3, 2005

Gyalten Deying chuyển Việt ngữ; Võ Thư Ngân hiệu đính

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
08/01/2011(Xem: 3901)
Chúng ta sử dụng suy nghĩ như một công cụ, như hành vi để biết sự sinh khởi, bởi vì công năng của thiền quán thì ở trên và vượt qua tiến trình suy nghĩ; nó dẫn chúng ta tới chỗ không bị mê vọng bởi sự suy nghĩ.
04/01/2011(Xem: 8513)
Trí toàn giác không thể không nhân mà có, vì nếu là như vậy, bất cứ điều gì cũng có thể là toàn giác. Nếu sự việc sinh ra không tùy thuộc vào điều gì khác, như vậy mọi sự đều có thể hiện hữu không câu thúc, sẽ chẳng lý do gì lại không thể là toàn giác. Chính vì sự vật chỉ phát sinh tùy lúc, nên bắt buộc phải tùy thuộc nhân duyên. Trí toàn giác cũng vậy, rất hiếm hoi, không phải bất cứ lúc nào, chỗ nào, cũng có thể sinh ra. Cho nên trí toàn giác nhất định phải tùy thuộc nhân duyên.
31/12/2010(Xem: 11724)
Quyển TRUNGPHONG PHÁP NGỮ này được hình thành từ sự tuyển dịch một số bài pháp ngữ củaThiền Sư Trung Phong khai thị đồ chúng trong bộ Thiền Sư Tạp Lục, 3 quyển, introng Tục Tạng Kinh, tập số 122. Nội dung sách tấn người học lập chí lâubền, gan dạ liều chết hạ thủ công phu tham cứu thoại đầu cho đến khi khối nghibùng vỡ, hoàn toàn liễu thoát sanh tử.
26/12/2010(Xem: 12753)
“Con đường Thiền Chỉ Thiền Quán”đã được Ngài Guṇaratana trình bày một cách khúc chiết, rõ ràng có thể giúp cho những ai muốn nghiên cứu tường tận chỗ đồng dị, cộng biệt, sinh khắc của hai pháp môn này hầu tránh tình trạng nhầm lẫn, võ đoán và phiến diện trong lý thuyết cũng như trong thể nghiệm con đường giác ngộ giải thoát. Rất nhiều sách trình bày nhầm lẫn giữa Định và Tuệ hay Chỉ và Quán, đưa đến tình trạng định không ra định, tuệ chẳng ra tuệ, hoặc hành thiền định hóa ra chỉ là những “ngoại thuật” (những hình thức tập trung tư tưởng hay ý chí có mục đích khác với định nhà Phật), và hành thiền tuệ lại có kết quả của định rồi tưởng lầm là đã chứng được các bậc tuệ quán.
07/12/2010(Xem: 12768)
Ngày hôm qua Steve tới thăm với chú bé Mickey 7 tuổi. Gớm, thằng bé lớn mau quá đi thôi và nghịch ghê. Nó nói giỏi cả tiếng Pháp lẫn tiếng Anh. Nó còn nói được tiếng lóng học ở ngoài đường nữa. Trẻ con bên này được nuôi dạy khác với lối nuôi dạy trẻ con bên mình. Cha mẹ chúng để chúng “tự do phát triển”. Suốt hai giờ ngồi nói chuyện, Steve phải để ý tới thằng bé. Nó chơi, nó nghịch, nó xan vào cả câu chuyệncủa người lớn. Nó làm cho người lớn không nói chuyện với nhau được. Tôi đưa cho nó mấy quyển sách hình của trẻ con, nhưng nó chỉ lật xem sơ sơ rồi lại bỏ sách, xen vào giữa tôi và ba nó. Nó đòi sự chú ý của thế giới người lớn.
30/11/2010(Xem: 4708)
Tứ thiền (catvāri dhyānāni) là bốn phương pháp thiền định dùng cho cả nội giáo và ngoại giáo cùng tu tập thực hành, nhằm đối trị các lậu hoặc, là nhân siêu việt mọi lưới hoặc nghiệp của dục giới, là quả sinh lên cõi sắc giới, là y địa căn bản nơi sinh ra các công đức, cũng có nghĩa là bốn loại thiền định căn bản sinh ra các thứ công đức; đó chính là Sơ thiền, Nhị thiền, Tam thiền, Tứ thiền thuộc Sắc giới
06/11/2010(Xem: 4837)
Sức khỏe đựơc định nghĩa “ là một tình trạng hoàn toàn sảng khoái (well-being, bien-être) về thể chất, tâm thầnvà xã hội, chớ không phải chỉ là không có bệnh hay tật “ (WHO, Tổ chức sức khỏe thế giới, 1946) . Một định nghĩa như thế cho thấy cái gọi là “sức khỏe” của một con người không thể chỉ khu trú vào chuyện có hay không có bệnh, tật; cũng như không thể đánh giá sức khỏe của một cộng đồng mà chỉ dựa vào tỷ lệ giường bệnh, tỷ lệ bác sĩ…!
06/11/2010(Xem: 5040)
Có một sự nhất quán, xuyên suốt trong lời dạy hướng dẫn kỹ năng thiền định của Phật, từ Tứ niệm xứ (Satipatthàna) tới Thân hành niệm ( Kàyagatàsati), rồi Nhập tức xuất tức niệm (Ànàpànasati), đó là thở: Thở vào thì biết thở vào, thở ra thì biết thở ra. Thở vào dài thì biết thở vào dài, thở ra ngắn thì biết thở ra ngắn… Tóm lại, đó là luôn bắt đầu bằng sự quán sát hơi thở, đặt niệm (nhớ, nghĩ) vào hơi thở.
31/10/2010(Xem: 7323)
Lịch sử Thiền tông Trung Hoa sơ kỳ xuất hiện với hai tên tuổi tiêu biểu. Một vị đương nhiên là Bồ-đề Đạt-ma, người khai sáng Thiền tông Trung Hoa, và vị thứ hai là Lục Tổ Huệ Năng, người định hướng dòng mạch Thiền tông bắt nguồn từ Tổ Đạt-ma. Nếu không có Tổ Huệ Năng và môn đệ trong tông môn của Ngài thì Thiền tông không thể nào phát huy và hưng thịnh vào đầu đời Đường Trung Hoa. Pháp Bảo Đàn Kinh của Lục Tổ chiếm một vị thế tối quan trọng trong nhà Thiền, và những thăng trầm thuộc về duyên nghiệp mà bộ kinh đã khứng chịu có nhiều điều rất lý thú.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567