Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tiếng hát giữa Rừng Thông

30/09/201310:12(Xem: 10572)
Tiếng hát giữa Rừng Thông

rung-thong-da-lat


TIẾNG HÁT GIỮA RỪNG THÔNG

Thân tặng Ban kinh nhạc Tỉnh Hội Phật Giáo Lâm Đồng chùa Linh Sơn Đà Lạt

TỊNH MINH





Vừa qua Trường Cao Cấp Phật Học Việt Nam Cơ Sở II có tổ chức cho Tăng Ni sinh và giảng viên một chuyến tham quan Đà Lạt. Tôi được hân hạnh cùng đi và cùng dự buổi trình diễn kinh nhạc do Ban kinh nhạc Tỉnh Hội Phật Giáo Lâm Đồng trình diễn tại chùa Linh Sơn Đà Lạt. Buổi trình diễn đã để lại trong lòng thính giả nhiều ấn tượng thú vị, sâu sắc. Tôi xin nêu ra đây vài cảm tưởng và nhận xét về nội dung buổi trình diễn để độc giả có thể hiểu được phần nào lời ca, tiếng nhạc và tấm lòng của người con Phật xứ rừng thông.

Mở đầu buổi trình diễn là bài hợp xướng “Tình Mẹ” với âm điệu trầm bổng du dương, khi khoan thai, lúc lắng đọng; khi vi vu như tiếng thông reo dặt dìu theo gió, lúc rỉ rả như giọt nước nguồn tí tách qua khe; tất cả đều nói lên tấm lòng hiếu thảo của con cái đối với ân đức sinh thành của ông bà cha mẹ. Lời ca, điệu nhạc gợi cho khán thính giả thấy rõ hình ảnh nghiêm nghị, cương trực của người cha suốt đời tần tảo vì con, và bóng dáng hiền hòa âu yếm của người mẹ qua chín tháng cưu mang, ba năm bú mớm.

Bài ca “Mục-kiền-liên” với giọng hát trầm hùng, tha thiết đã gợi cho người nghe thấy rõ hơn vai trò của con cái đối với cha mẹ hiện tiền cũng như phụ mẫu đã mất. Xa hơn nữa, lời ca, điệu nhạc và phong thái diễn xuất của toàn Ban kinh nhạc còn gợi cho ta thấy rõ vai trò của Phật tử đối với Đạo pháp, dân tộc và tổ quốc Việt Nam như thế nào: Hãy yêu thương, thông cảm và chung sức chung lòng xây dựng một nước Việt Nam giàu đẹp như mẹ hiền thương yêu và chăm sóc cho con.

Sau đó, với nhạc khúc “Duyên sanh”, toàn Ban kinh nhạc đã làm nổi bật được nguyên lý vô thường, khổ, không và vô ngã của các pháp. Bài hát vừa mang đậm chất thi ca trữ tình, vừa lồng màu sắc triết lý sâu sắc với những âm luyến láy như: “A ha!… Ư hư!… I hi!…” rất duyên dáng, rất sinh động; hàm ý rằng Phật tử không nên nuối tiếc quá khứ, vọng tưởng tương lai, mà hãy vui vẻ, tích cực với hiện tại, với đương niệm; hãy nhìn các pháp đúng như sự thật của nó. Tinh thần “Thiền tông” và ý chí “Đại thừa Bồ tát khai phương tiện” đã được quyện vào lời ca tiếng hát với nhịp tang, tiếng mõ rất hài hòa, thâm thúy. Bài hát còn ngụ ý nếu Phật tử ý thức:

“Các pháp do duyên sanh,

Lại cũng do duyên diệt,

Thầy ta là Đức Phật,

Thường thuyết giảng như vậy.

Thì tâm hồn dễ dàng “Nhậm vận thạnh suy vô bố úy”, dễ dàng hoan hỷ với mọi tình huống xảy ra trên trái đất gồ ghề, lởm chởm này.

Ban kinh nhạc tiếp tục chương trình với bài hát:

“Nga nga lưỡng nga nga,

Ngưỡng diện hướng thiên nha,

Bạch mao phô lục thủy,

Hồng trạo bãi thanh ba”.

Tiếng hát cứ mỗi lúc một vang dội, lan xa, tưởng chừng như vang khắp cả núi rừng Đà Lạt.

Bài hát được tiếp nối qua lời Việt với âm điệu rất gợi hình, thơ mộng:

“Song song ngỗng một đôi,

Ngửa mặt trông ven trời,

Lông trắng không thấm nước,

Sóng xanh chân hồng bơi”.

“Lông trắng không thấm nuớc”, chính ý nhạc này đã gợi cho ta hình dung ra cuộc hội ngộ “kỳ phùng địch thủ” giữa Sứ thần Lý Giác và Pháp sư Đỗ Thuận.

Năm Thiên Phước thứ 7 (986), nhà Tống sai Sứ thần Lý Giác sang phong tước hiệu cho vua Lê Đại Hành. Vua nhờ Pháp sư cải trang làm chú lái đò để đón sứ thần. Thuyền ra giữa dòng sông, chợt thấy hai con ngỗng đang bơi song song, Lý Giác cất giọng ngâm:

“Nga nga lưỡng nga nga,

Ngưỡng diện hướng thiên nha”

Lý Giác tức cảnh sinh tình được hai câu rồi nghẽn ý, đảo mắt nhìn quanh!… Pháp sư Đỗ Thuận mỉm cười, tiếp lời nối vận theo nhịp chèo khoan khoan quậy sóng:

“Bạch mao phô lục thủy,

Hồng trạo bãi thanh ba”

Lý Giác giật mình, đưa mắt nhìn Pháp sư tỏ vẻ thán phục.

Có lẽ nhờ lời ca điệu nhạc phụ họa mà khán thính giả đã thấy được bản sắc hiếu chiến, xâm lược của Sứ thần nhà Tống. Hai câu: “Song song ngỗng một đôi, ngửa mặt trông ven trời” hàm ý vừa ca ngợi vẻ đẹp thanh bình của non nước phương Nam, vừa bộc lộ thái độ kiêu căng, ngạo mạn của một tên sứ thần dạn dày kinh nghiệm: Xem kìa! Dân An Nam tuy thông minh, đẹp đẽ và khỏe mạnh nhưng đang ngóng cổ trông chờ ân huệ của thiên triều Trung Quốc ta đó! Pháp sư, bằng lời lẽ nhu hòa nhưng không kém phần đanh thép, đáp: “Lông trắng không thấm nước, sóng xanh chân hồng bơi”. Nhà sư An Nam muốn nhắc khẽ Sứ thần Trung Quốc rằng đất nước chúng tôi xinh đẹp, và chúng tôi muốn chung sống an hòa, hạnh phúc như đôi ngỗng đang bơi bên nhau trên dòng sông êm ả kia! Nhưng Ngài thấy đấy: “Lông trắng không thấm nước, sóng xanh chân hồng bơi”. Đất nước An Nam tuy bị đô hộ nhưng không phải vì thế mà dân chúng bị nhuốm màu, biến chất. Dân An Nam vốn có bản sắc văn hóa và ngôn ngữ riêng của họ: “Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn”. Họ đang sinh hoạt trong trạng thái động mà tịnh, tịnh mà động đó, thưa Ngài!

Lời ca điệu nhạc cứ thế mà tiếp tục vang vọng sang bài: “Mừng Đản Sinh” với nội dung rút từ kinh Pháp Cú:

“Vui thay Phật đản sinh!

Vui thay Pháp thuyết minh!

Vui thay Tăng hòa hợp!

Vui thay Giới tu hành.”

(PC. 194)

Đến bài: “Xuất gia” thì âm thanh và tiết tấu vô cùng vui nhộn: tiếng trống, tiếng chuông, tiếng tang, tiếng mõ, tiếng sáo, tiếng đàn, lời ca, nhịp phách … tất cả quyện vào nhau tạo thành một hòa điệu hân hoan, nô nức, khiến khán thính giả cảm thấy cả vũ trụ đang kết hoa, giăng đèn, xông trầm, đốt hương chào đón Thái tử Tất-đạt-đa từ giã hoàng cung, đi tìm chân lý: “Ngoài nền trời sao sáng làn hương bay theo gió reo …”, hay cảm thấy hình bóng của Thái tử đang rạp người trên lưng ngựa Kiền-trắc với hai tay giục cương và đôi môi cất tiếng hát: “Thôi em ơi ta thề lìa ngôi báu tìm chân lý, nguyện từ nay dấn thân trong cát bụi tìm Đạo thiêng”. Cái tài hoa của các nhà văn nghệ sĩ, nhạc sĩ v.v… là chọn đúng âm thanh, màu sắc, tiết tấu … cho từng trường hợp. Nếu chúng ta hát bài “Xuất gia” với nhịp điệu hơi nhanh một tí thì tiết tấu và lời ca rất phù hợp với tiếng vó ngựa đang phi: “càrụp… càrụp… càrụp…” Cái đẹp, cái thơ mộng và hùng tráng là ở chỗ đó. Và cũng chỉ có tiếng hát tập thể như Ban kinh nhạc đồng diễn thì ta mới dễ dàng nhận ra điểm thú vị nói trên.

Sau cùng, toàn ban hát bài “Bát Nhã Hội” với tiếng chuông trống Bát nhã hùng dũng ngân vang, phù hợp với bài kệ: “Bát nhã hội (3 lần), thỉnh Phật thượng đường, đại chúng đồng văn, bát nhã âm, phổ nguyện pháp giới, đẳng hữu tình, đồng nhập bát nhã, ba la mật môn …(đổ hồi). Sau ba hồi chuông trống Bát nhã, ban nhạc lại chuyển tông với nhịp điệu 5 tiếng trống: “Thùng-thùng … thùng-thùng-thùng”. Âm thanh dồn dập, nô nức với lời hát vang vang khiến ta có cảm tưởng như tất cả mọi người đều “ Đồng- nhập … Bát-nhã-hội”, tức là đều ngộ đạt trí tuệ siêu việt; tất cả đều giải thoát; tất cả đều chứng quả A la hán. Phải chăng đó là mỹ ý của toàn Ban kinh nhạc khi kết thúc buổi trình diễn.

Đây có lẽ là lá cờ đầu trong phong trào vận dụng lời thơ ý kinh vào âm nhạc. Việc làm này không phải dễ dàng thành tựu. Phải có tinh thần văn nghệ và ý thức trách nhiệm cao độ với Đạo pháp, nhất là cần có những trái tim từ hòa, bàn tay vun xới cho phong trào ngày thêm phát huy, vững mạnh.

(Đã đăng trong tuần báo Giác Ngộ, mùa Vu Lan 1988)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
08/01/2011(Xem: 3890)
Chúng ta sử dụng suy nghĩ như một công cụ, như hành vi để biết sự sinh khởi, bởi vì công năng của thiền quán thì ở trên và vượt qua tiến trình suy nghĩ; nó dẫn chúng ta tới chỗ không bị mê vọng bởi sự suy nghĩ.
04/01/2011(Xem: 8471)
Trí toàn giác không thể không nhân mà có, vì nếu là như vậy, bất cứ điều gì cũng có thể là toàn giác. Nếu sự việc sinh ra không tùy thuộc vào điều gì khác, như vậy mọi sự đều có thể hiện hữu không câu thúc, sẽ chẳng lý do gì lại không thể là toàn giác. Chính vì sự vật chỉ phát sinh tùy lúc, nên bắt buộc phải tùy thuộc nhân duyên. Trí toàn giác cũng vậy, rất hiếm hoi, không phải bất cứ lúc nào, chỗ nào, cũng có thể sinh ra. Cho nên trí toàn giác nhất định phải tùy thuộc nhân duyên.
31/12/2010(Xem: 11700)
Quyển TRUNGPHONG PHÁP NGỮ này được hình thành từ sự tuyển dịch một số bài pháp ngữ củaThiền Sư Trung Phong khai thị đồ chúng trong bộ Thiền Sư Tạp Lục, 3 quyển, introng Tục Tạng Kinh, tập số 122. Nội dung sách tấn người học lập chí lâubền, gan dạ liều chết hạ thủ công phu tham cứu thoại đầu cho đến khi khối nghibùng vỡ, hoàn toàn liễu thoát sanh tử.
26/12/2010(Xem: 12726)
“Con đường Thiền Chỉ Thiền Quán”đã được Ngài Guṇaratana trình bày một cách khúc chiết, rõ ràng có thể giúp cho những ai muốn nghiên cứu tường tận chỗ đồng dị, cộng biệt, sinh khắc của hai pháp môn này hầu tránh tình trạng nhầm lẫn, võ đoán và phiến diện trong lý thuyết cũng như trong thể nghiệm con đường giác ngộ giải thoát. Rất nhiều sách trình bày nhầm lẫn giữa Định và Tuệ hay Chỉ và Quán, đưa đến tình trạng định không ra định, tuệ chẳng ra tuệ, hoặc hành thiền định hóa ra chỉ là những “ngoại thuật” (những hình thức tập trung tư tưởng hay ý chí có mục đích khác với định nhà Phật), và hành thiền tuệ lại có kết quả của định rồi tưởng lầm là đã chứng được các bậc tuệ quán.
07/12/2010(Xem: 12746)
Ngày hôm qua Steve tới thăm với chú bé Mickey 7 tuổi. Gớm, thằng bé lớn mau quá đi thôi và nghịch ghê. Nó nói giỏi cả tiếng Pháp lẫn tiếng Anh. Nó còn nói được tiếng lóng học ở ngoài đường nữa. Trẻ con bên này được nuôi dạy khác với lối nuôi dạy trẻ con bên mình. Cha mẹ chúng để chúng “tự do phát triển”. Suốt hai giờ ngồi nói chuyện, Steve phải để ý tới thằng bé. Nó chơi, nó nghịch, nó xan vào cả câu chuyệncủa người lớn. Nó làm cho người lớn không nói chuyện với nhau được. Tôi đưa cho nó mấy quyển sách hình của trẻ con, nhưng nó chỉ lật xem sơ sơ rồi lại bỏ sách, xen vào giữa tôi và ba nó. Nó đòi sự chú ý của thế giới người lớn.
30/11/2010(Xem: 4700)
Tứ thiền (catvāri dhyānāni) là bốn phương pháp thiền định dùng cho cả nội giáo và ngoại giáo cùng tu tập thực hành, nhằm đối trị các lậu hoặc, là nhân siêu việt mọi lưới hoặc nghiệp của dục giới, là quả sinh lên cõi sắc giới, là y địa căn bản nơi sinh ra các công đức, cũng có nghĩa là bốn loại thiền định căn bản sinh ra các thứ công đức; đó chính là Sơ thiền, Nhị thiền, Tam thiền, Tứ thiền thuộc Sắc giới
06/11/2010(Xem: 4825)
Sức khỏe đựơc định nghĩa “ là một tình trạng hoàn toàn sảng khoái (well-being, bien-être) về thể chất, tâm thầnvà xã hội, chớ không phải chỉ là không có bệnh hay tật “ (WHO, Tổ chức sức khỏe thế giới, 1946) . Một định nghĩa như thế cho thấy cái gọi là “sức khỏe” của một con người không thể chỉ khu trú vào chuyện có hay không có bệnh, tật; cũng như không thể đánh giá sức khỏe của một cộng đồng mà chỉ dựa vào tỷ lệ giường bệnh, tỷ lệ bác sĩ…!
06/11/2010(Xem: 5028)
Có một sự nhất quán, xuyên suốt trong lời dạy hướng dẫn kỹ năng thiền định của Phật, từ Tứ niệm xứ (Satipatthàna) tới Thân hành niệm ( Kàyagatàsati), rồi Nhập tức xuất tức niệm (Ànàpànasati), đó là thở: Thở vào thì biết thở vào, thở ra thì biết thở ra. Thở vào dài thì biết thở vào dài, thở ra ngắn thì biết thở ra ngắn… Tóm lại, đó là luôn bắt đầu bằng sự quán sát hơi thở, đặt niệm (nhớ, nghĩ) vào hơi thở.
31/10/2010(Xem: 7300)
Lịch sử Thiền tông Trung Hoa sơ kỳ xuất hiện với hai tên tuổi tiêu biểu. Một vị đương nhiên là Bồ-đề Đạt-ma, người khai sáng Thiền tông Trung Hoa, và vị thứ hai là Lục Tổ Huệ Năng, người định hướng dòng mạch Thiền tông bắt nguồn từ Tổ Đạt-ma. Nếu không có Tổ Huệ Năng và môn đệ trong tông môn của Ngài thì Thiền tông không thể nào phát huy và hưng thịnh vào đầu đời Đường Trung Hoa. Pháp Bảo Đàn Kinh của Lục Tổ chiếm một vị thế tối quan trọng trong nhà Thiền, và những thăng trầm thuộc về duyên nghiệp mà bộ kinh đã khứng chịu có nhiều điều rất lý thú.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567