Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Mặt Trời Nữa Đêm

28/03/201320:48(Xem: 532)
Mặt Trời Nữa Đêm

PL 2544 – DL 2000

MẶT TRỜI NỬA ĐÊM

Kim Đài

Thơ thiền

A DI ĐÀ

A Di Đà tất cả pháp

Tất cả pháp A Di Đà

Chẳng quản trời cao đất thấp

Búng tay, cõi nước bày ra

CHÚA XUÂN

Tặng Trần Nhân Tông hoàng đế

Thuở nhỏ đâu từng biết chúa Xuân

Cứ theo xác pháo chạy tung tăng

Chúa Xuân nay đã về ngự trị

Pháo cuối làng xa nổ đì đùng

THU HÚ

Thu hú! Thu hú

Chẳng khách chẳng chư

Vỡ nát càn khôn

Thu hú! Thu hú!

TIỄN BIỆT

Tiễn sư ra phi trường

Hương nào hương cố hương?

Sắc nào sắc ly sắc?

Chương nào chương phi chương?

HOÀNG HÔN

Giòng sông xanh

Một con thuyền

Neo ở đầu bờ

CHIỀU TÀN

Con chồn hoang

Nhảy vào bụi rậm

“Soạt!”

THU HÚ

Thu hú! Thu hú!

Trên đảnh chẳng trú

Dưới đáy không trầm

Thu hú! Thu hú!

BÌNH MINH

Sóng bủa vào bãi đá

Hàng dương reo rì rào

Một con chim bổ cá

Đâm mình xuống biển sâu

THU SANG

Lá ngô đồng

Rụng xuống mặt hồ

Chiều thu sang!

THU HÚ

Thu hú! Thu hú!

Ngàn câu muôn cú

Là lời vô ngôn

Thu hú! Thu hú!

NGHÉ

Đồi cỏ non

Con nghé gọi mẹ

“Nghé! Nghé!”

MÂY TRẮNG NÚI XANH

Nơi trắng không trắng

Nơi xanh không xanh

Trắng xanh như huyễn

Mây trắng núi xanh

THU HÚ

Thu hú! Thu hú!

Là mới là cũ?

Là có là không?

Thu hú! Thu hú!

NƯỚC DỐC

Dòng thác đổ xuống vực sâu

Một con cò

Đậu trên mõm đá

THU HÚ

Thu hú! Thu hú!

Là thu là hú?

Là hú là thu?

Thu hú! Thu hú!

HỪNG SÁNG

Mặt trời vừa mới ló

Biển xanh nghìn sóng vỗ

Con vạc bay lững lờ

“Vạc! Vạc!”

SẮC THINH

Sắc kia đâu tự sắc

Thinh kia đâu tự thinh

Một niệm phi thinh sắc

Thân đáo pháp vương thành

THU HÚ

Thu hú! Thu hú!

Thánh phàm chẳng trụ

Thoát thể vô y

Thu hú! Thu hú!

CHIỀU QUÊ

Cô gái quê

Quảy đôi thùng nước trên vai

Bên hàng dậu

THU HÚ

Thu hú! Thu hú!

Đêm ôm Phật ngủ

Ngày cùng Phật đi

Thu hú! Thu hú!

TRĂNG NƯỚC

Trăng ấy là trăng nước

Nước ấy là nước trăng

Nước trăng như hoa đốm

Trăng chiếu khắp mười phương

THU HÚ

Thu hú! Thu hú!

Hữu cú vô cú

Cây ngã bìm khô

Thu hú! Thu hú!

SUỐI THIỀN

Chuông xa thoáng động mặt hồ

Vừng trăng lơ lững lững lơ đầu ghềnh

Cội già trơ gốc chênh vênh

Sư ông ngồi giữa suối thiền cô đơn

THU HÚ

Thu hú! Thu hú!

Vi diệu thần chú

Linh dược nhiệm mầu

Thu hú! Thu hú!

VÔ VÔ VÔ

Con chó có Phật tánh không?

Nếu mà nói có nói không cũng thừa

Sáng nay đi dạo vườn dưa

Chó đâu chạy đến sủa bừa một hơi

THU HÚ

Thu hú! Thu hú!

Đói ăn mệt ngủ

Tu cùng chẳng tu

Thu hú! Thu hú!

TRĂNG THẬT

Ngón tay chỉ mặt trăng

Ngón tay không phải trăng

Vậy đâu là trăng thật?

Hét!

MƯA ĐÊM

Đầu thềm tí tách

Phi chủ phi khách

Ngói bể băng tan

Tí tách! Tí tách!

BỊP

Đầm sen nở rộ

Thỏ rừng gặm cỏ

Bìm bịp kêu vang

“Bịp! Bịp! Bịp! Bịp!”

MÂY NƯỚC

Kim Đài mở nước mây

Mới hay mây nước leo cây thuở nào

HOA LAN

Ô kìa!

Một đóa phong lan hé nụ

Trên cội thông già

THU ĐẾN

Nhạn kêu

từ đâu vẳng lại

Thu đến rồi!

ĐỐM LỬA

Một đốm lửa phát ra

bên sườn núi

Đêm tối mịt mùng

GIUN DẾ

Cái nghe cái thấy không còn

Con giun con dế cũng đồng ông tiên

RỬA BÁT

Ăn bánh

Uống trà

Rửa bát

Quét nhà

bửa củi

gánh nước

thì chẳng hỏi.

Chỉ hỏi:

“Thế nào là rửa bát?”

TÂM PHÁP

Tâm pháp như nhiên

Vạn cổ huy huyền

Thủy lưu sơn đảnh

Hoa vũ mãn thiên

THIỀN ẤN

Thiền ấn tịnh quang

Phổ chu sa giới

Liên Trì tuyên hội

Bát nhã diễn âm

XUÂN DI LẶC

Mỗi người có một xuân

Ấy là Xuân Di Lặc

Không tước cũng không huân

Vô thinh cũng vô sắc

Không trẻ cũng không già

Chẳng được cũng chẳng mất

Chẳng đến cũng chẳng đi

Không thêm cũng không bớt

Chẳng lý cũng chẳng đào

Phi chủ lẫn phi khách

Bày đặt liền mất xuân

Vì xuân đâu bày đặt?

Thể tánh vốn như nhiên

Xưa nay trong vằng vặc

Đâu chỉ là một xuân

Mà Xuân vô cùng cực

ĐỘC THOÁT

Bổn lai thường minh liễu

Không trung điểu xuyên du

Đàm thanh thầm ảnh chiếu

Hà tung tích xuân thu?

Động tĩnh hàm chu

Tướng tâm câu triệt

Thư chi ngọa chẩm Lăng Già Nguyệt

Sạ văn hinh hướng dã lan phu

LỘ

Thu hồ tịch mặc

Độc mộc cô tôn

Tâm nguyệt quang thôn

Tỳ bà huýnh thoát

MƯỜNG LĂNG

Người buổi ấy ra đi từ lịch kiếp

Sao không về một ngụm hớp Tây Giang?

Loài chim nhỏ theo hừng đông lảnh lót

Mường Lăng ôi! Hoa lá rụng bao lần …

Cây có cội từ hàn nham thiết cốt

Sông có nguồn từ sa mạc cô liêu

Nhựa đã chảy trên tàng cây khô chết

Máu đã lưu từ xác vữa thiên triều

Ta đã hái ngàn hoa từ thạch thảo

Xin nhớ cho dù bao kiếp thăng trầm

Loài chim ấy một lần qua hải đảo

Mường Lăng ôi! Hoa lá rụng âm thầm …

NẾU AI HỎI

Nếu ai hỏi: “Tên em là gì nhỉ?”

Xin thưa rằng: “Mây trắng và trời xanh”

Xin đạp nát thiên đường cùng ngạ quỷ

Để tên em sáng chói vạn kinh thành

Nếu ai hỏi: “Em tròn bao nhiêu tuổi?”

Xin thưa rằng: “Ba ba tắm trăng rằm”

Xin đếm bước đầu tiên là cùng cuối

Để tuổi em tròn nụ với môi hồng

Nếu ai hỏi: “Nơi nào em đang ở?”

Xin thưa rằng: “Em đang ở trong anh”

Xin xóa hết những ngày xưa lầm lỡ

Để về đây trùm chăn ngủ ngon lành.

KINH KIM CƯƠNG

Nhược kiến chư tướng phi

Tướng tức kiến Như Lai

(Nếu thấy các tướng không

Ngay tướng tức Như Lai)

GHI CHÚ:

Một hôm Kim Đài tụng kinh Kim Cương đến câu: “Nhược kiến chư tướng phi tướng tức kiến Như Lai”, liền phá cú đọc như trên, hội Bát Nhã vẫn nghiễm nhiên như xưa!

AI NIỆM A DI ĐÀ

Niệm Phật là ai?

Gà gáy ò o

Chân duỗi chân co

Mây Nam, núi Bắc

TÂM

- Mở lối:

Chẳng nghĩ thiện, chẳng nghĩ ác

Rất bình thường, không tạo tác

Suối reo, lá rụng toàn chơn

Chớ còn nghi ngờ gì khác

- Khảo xét:

Đưa gậy lên hỏi: - Thấy chăng?

Đập vào bàn hỏi: - Nghe chăng?

Có thấy có nghe, ngoài tâm có vật.

Không thấy không nghe, trong nước chết chìm.

- Thấu thoát:

Nói được, ăn 30 gậy.

Nói không được, ăn 30 gậy.

SAU RẰM

Sau rằm là ngày mấy?

Đồi Lâm Viên cỏ cháy

Vượn đầu non hú dài

Trong chăn, bọ chét quậy

VÔ SỰ

Các pháp đều không liên hệ

Chỉ do sanh tâm tồi tệ

Nay nếu một niệm chẳng sanh

Ấy là “Bà già bà đế”.

SARA ERIKSSON

Sweden, a country of peace

A nice girl went to Vietnam

Read loudly herself a question of heat

Ah! Who am I before concept?

KHO BÁU

Nhà mình xưa nay sẵn đủ

Đâu cần những thứ nào thêm

Buông hết những gì đang có

Núi Sam riêng đứng một mình

THẤY LÌA THẤY

Thấy chẳng do mắt

Nghe chẳng do tai

Thấy nếu lìa thấy

Liền thấy Kim Đài

CHẲNG NHẬN

Phiền não cũng chẳng nhận

Thiền định cũng chẳng nhận

Xưa nay vốn là ông

Còn tin tức nào nữa?

TRĂNG TRÒN

Xưa vốn không sanh

Nay cũng chẳng diệt

Như trăng tròn vành

Chưa từng khiếm khuyết

ĐÊM ĐẬU BẾN PHONG KIỀU

Tặng Trương Kế

Quạ kêu, trăng lặn, sương dày

Giấc sầu len lói đèn chài bờ phong

Cô Tô thuyền đậu bên dòng

Nửa đêm vọng tiếng Hàn San chuông rền

KỆ PHÁP

Gánh nước là bồ đề

Bửa củi là gương sáng

Các pháp vốn chẳng diệt

Bụi trần cũng chẳng sanh

TRỨNG VÀ GÀ

Tăng hỏi”

- Gà và trứng, cái nào có trước?

Kim Đài đáp:

- Khi có trứng thì có gà

Khi không trứng thì không gà.

Kệ: Khi có đồng thời có

Khi không đồng thời không

Trước sau đều chẳng lập

Hiển lộ chủ nhân ông.

TÂM VŨ TRỤ

Tăng hỏi:

- Đâu là tâm của vũ trụ?

Kim Đài đáp:

- Vũ trụ vô tâm

THE POEM OF SATORI

The road at the bottom of Won Gak mountain is not the present road

The man climbing with his backpack is not a man of the past

tok, tok, tok – his footsteps

transfix past and present

Crows out of a tree caw, caw, caw

Seung Sahn

The whole world is a single flower

page 229

Viên Giác sơn hạ phi Kim lộ

Bối khỏa hành khách, phi cổ nhơn

Trạc, trạc! Lý thanh quán cổ kim

Khả, khả! Ô thanh phi thượng thụ

Sùng Sơn

Đường dưói núi Viên Giác – không NAY

Khách vác đồ lên non – không XƯA

Chân bước suốt xưa nay: “Tốc! Tốc!”

Quạ bay lên cây kêu: “Quạ! Quạ!”

Kim Đài

MỘNG MỊ

Từ sanh đến tử chỉ là

Một tràng mộng mị dối ta dối người

“Mặt trời nửa đêm”, bút pháp của chính tác giả, viết xong ngày ba mươi tháng chạp, hòa âm cùng núi biếc mây ngàn …


---o0o---

Trình bày: Anna

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
22/04/2013(Xem: 6046)
Dưới đây là hai bản dịch về Thiền tập dựa theo truyền thống Tây Tạng. Hai bản văn này đang được phổ biến rộng rãi trong giới Phật Tử Tây Phương để đáp ứng nhu cầu Thiền tập. Các pháp tu dưới đây tuy được viết từ truyền thống Tây Tạng nhưng thực sự cũng đã ẩn tàng trong nhiều truyền thống Thiền tập khác của Phật Giáo. Bản văn đầu tiên là của Đức Đạt Lai Lạt Ma.
22/04/2013(Xem: 5702)
Bí mật của hành thiền tiến bộ và thành công là luôn giữ cho được tâm trạng cân bằng và thoải mái, không căng thẳng mà cũng không căng thẳng. Kinh 42 Chương kể chuyện tăng sĩ Sona, khi hành thieenfkhoong làm sao giữ được tâm trạng cân bằng. Khi thì đầu óc căng thẳng quasinh ra đau đầu, khi thì buông lỏng quá sinh ra buồng ngủ. Không biết làm sao được, Sona đến gặp Phật, Phật hỏi.
22/04/2013(Xem: 10633)
Ngày nay việc thực hành Thiền Quán đã được phổ biến rộng rãi khắp thế giới, tuy nhiên, để đạt được sự thành công như hiện nay, pháp hành này đã trải qua nhiều biến đổi tế nhị. Thay vì được giảng dạy như một phần chính yếu của con đường tu tập Phật giáo, bây giờ pháp hành này thường được trình bày như một môn học thế gian mà những kết quả đạt được thuộc về đời sống trong thế giới này hơn là sự giải thoát siêu thế gian.
22/04/2013(Xem: 5285)
Thiền sư Dhammarakkhita là một vị cao tăng tinh thông Tam tạng, nhưng Ngài lại ưa thích pháp hành nên thường đi một mình vào rừng hành đạo. Ngài được các vị Thiền sư tiền bối khen ngợi là người giàu ý chí, kiên nghị, dũng cảm và có khả năng về cả pháp học lẫn pháp hành. Ngài được Phật tử Thái Lan mời làm viện chủ một thiền viện nổi tiếng theo truyền thống của Thiền sư Achar Nep lỗi lạc.
22/04/2013(Xem: 5103)
Những trang sau đây là những phần mới được thêm vào cho quyển sách – “Đạo Phật là gì ?” in lần thứ hai. Vì có nhiều người rất hâm mộ việc thực tập thiền và cũng có một số người tách rời khỏi nguồn truyền thống sống động này, và hy vọng rằng những điều sau đây sẽ có giá trị cho những người thực tập thiền, ngoài những quyển sách bổ sung.
22/04/2013(Xem: 6023)
Như vậy là chỉ tu tập phép niệm thân này thôi (không phải niệm cả bốn xứ là: thân, thọ, tâm và pháp), hành giả nếu kiên trì, siêng năng cũng đạt được mười thành quả đáng khích lệ nói trên. Phật dạy:"Này các Tỳ-kheo, thân hành niệm được thực hành, được tu tập, được làm cho sung mãn, được làm như thành cỗ xe, được làm thành căn cứ địa, được làm cho kiên trì, được làm cho tích tập, được khéo tinh cần thực hành, thời mười công đức này có thể được mong đợi. Thế nào là mười?…" (Xem trong 280, kinh đã dẫn).
22/04/2013(Xem: 5569)
Trong các khóa thiền tập của chúng ta, các thiền sinh phải tập chú niệm trong cả bốn tư thế đi, đứng, ngồi, nằm. Họ phải duy trì chánh niệm trong mọi thời khắc, ở mọi tư thế của họ. Tuy nhiên, tư thế chính trong khi thực tập quán niệm là tư thế ngồi với chân xếp chéo. Bởi vì thân thể con người không thể nào chịu đựng được cách ngồi nầy trong nhiều giờ, nên chúng ta xen kẽ các suất ngồi thiền với các suất đi kinh hành.
22/04/2013(Xem: 30163)
Những ai muốn học hỏi, nghiên cứu và tu tập theo Chánh Pháp không thể không biết đến Ngũ Uẩn. Ðó là một trong những giáo lý vô cùng quan trọng và phải được hiểu rõ một cách tường tận, chính xác để có thể tu tập cho hiệu quả, rốt ráo. Vậy năm uẩn này là gì? Chúng liên hệ với nhau ra sao? Thông hiểu được chúng thì sẽ giúp ích như thế nào cho sự tu tập của chúng ta?
22/04/2013(Xem: 6428)
Ngôn ngữ của Thiền, không phải là ngôn ngữ mới chính là ngôn ngữ. Một tiếng hét vang vọng đất trời của Ngài Lâm Tế làm bừng vỡ chân tâm của hành giả; những chiêu gậy hàng ma tuyệt hảo của Ngài Bách Trượng xua đi đám mây mù che mắt thế gian; sự im lặng đến vô tình của Ngài Bồ Đề Đạt Ma hay một đóa sen Đức Phật đưa lên ở hội Linh Sơn... đó là ngôn ngữ của Thiền.
22/04/2013(Xem: 4949)
Tháng 10 năm nay ông chia sẻ với các Tăng Ni sinh-viên ban Hoằng pháp năm thứ 3 và lớp Thạc sĩ Phật học tại Học viện Vạn Hạnh TP HCM, lớp Trung cấp Phật học tại Học viện Long An, với Phật tử và CLB Thanh niên chùa Từ Tân, chùa Bát Nhã TP HCM, chùa Vĩnh Hưng, Long an và chùa Bửu Nghiêm tỉnh Gia lai. Các buổi trao đổi tại TP HCM và Gia lai có quay film.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]