Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Nền tảng cho thực hành Bồ-đề tâm

24/10/201216:16(Xem: 6204)
Nền tảng cho thực hành Bồ-đề tâm

NỀN TẢNG CHO THỰC HÀNH BỒ ĐỀ TÂM

Kyabje Dilgo Khyentse Rinpoche

thuchanhbodetam-DilgoKhyentseRinpocheTrước tiên hãy nghiên cứu các pháp tu khởi đầu.

Như là pháp tu khởi đầu cho giáo lý này, chúng ta cần xem xét ba điều: thân người quý giá, vô thường và vấn đề của luân hồi.

Thân người

Hiện tại, chúng ta sở hữu một thân người quý giá với mười tám đặc điểm vô cùng khó khăn mới có thể đạt được. Nếu các giáo lý của Đức Phật được thực hành chính xác, điều đó sẽ như câu thành ngữ sau:

Được sử dụng đúng, thân người như con tàu đi tới bến bờ giải thoát,

Nếu không, nó mãi neo đậu trong luân hồi.

Thân này là tác nhân của mọi điều tốt xấu.

Từ quan điểm của một kẻ tìm kiếm giác ngộ, sẽ tốt hơn nhiều nếu là một con người so với việc sinh ra trong cõi giới của các vị trời, nơi mà chúng sinh sống bằng cam lồ và mọi ước muốn đều đạt được nhờ cây như ý; nơi không có mệt nhọc hay khó khăn, cũng không có bệnh tật hay tuổi già. Là con người, sở hữu tám tự do và mười thuận duyên, chứ không phải các vị trời, mà mọi vị Phật trong một nghìn vị Phật của thời đại này đã và sẽ thành tựu Phật quả. Hơn thế nữa, thân người này không đạt được nhờ sức mạnh hay sự tình cờ; đó là kết quả của các thiện hạnh. Và bởi chúng sinh rất hiếm khi hoàn thành những thiện hạnh, thân người quý giá thực sự rất khó để đạt được. Tuy nhiên, hiện tại, chúng ta đã sinh ra trong hoàn cảnh như vậy; chúng ta đã gặp được Phật Pháp, đã bước vào con đường và hiện nay đang thọ nhận giáo lý. Nhưng nếu chúng ta không thể thực hành chúng, chỉ đơn giản lắng nghe giáo lý sẽ không giải thoát chúng ta khỏi luân hồi, và sẽ không giúp nhiều khi chúng ta đối mặt với khó khăn của sinh, lão, bệnh và tử. Nếu chúng ta không làm theo đơn của thầy thuốc khi bệnh, thậm chí dù ông ta có ngồi cạnh chúng ta, cơn đau cũng không biến mất.

Vô thường

Như chúng ta vừa nói, nếu thờ ơ với thực hành giáo lý, chúng sẽ không đem lại ích lợi cho ta. Hơn nữa, cuộc đời của chúng ta vô cùng mỏng manh và vô thường, và bởi cái chết và những nguyên nhân của nó là không chắc chắn, chúng ta có thể chết bất kỳ lúc nào. Chúng ta thường nghĩ, “Ồ, tôi sẽ thực hành khi già hơn, còn hiện tại, khi còn trẻ, tôi sẽ sống cuộc đời bình thường, kiếm tiền, đánh bại các đối thủ, giúp đỡ bạn bè và tương tự.” Nhưng sự thật là chúng ta có thể không sống lâu. Hãy nghĩ về những người sinh ra cùng thời với bạn. Một số có thể chết khi còn nhỏ, số khác khi trưởng thành, khi làm việc hay nhiều kiểu khác. Cuộc đời của chúng ta cũng có thể không dài lâu.

Thêm vào đó, thân người, so với thân động vật, dường như là rất khó có thể đạt được. Nếu bạn xem một cục đất vào mùa hè, bạn sẽ thấy nhiều sinh vật hơn so với dân số nước Pháp! Đó là lý do tại sao chúng ta nói rằng, chỉ xét riêng về số lượng, thân người đã vô cùng khó khăn để đạt được. Bởi vậy, chúng ta cần quyết định rằng bản thân sẽ thực hành Pháp thay vì lãng phí cuộc đời trong những hoạt động vô nghĩa.

Sử dụng thân người để thành tựu Phật Pháp giống như vượt qua đại dương trong cuộc tìm kiếm ngọc báu và sau đó trở về nhà với mọi thứ quý giá; khó khăn của hành trình sẽ được đền đáp xứng đáng. Thật là xấu hổ nếu trở về tay trắng! Hiện tại chúng ta đang sở hữu thân người quý giá và đã gặp được giáo lý Phật Đà. Nhờ sự gia trì và lòng từ ái của chư đạo sư, chúng ta có thể thọ nhận, nghiên cứu và thực hành giáo pháp. Nhưng nếu chỉ bận tâm với các hoạt động thế tục: buôn bán, trồng trọt, đánh bại kẻ thù, giúp đỡ bạn bè, mong chờ vị trí chủ chốt hay tương tự – và chúng ta chết trước khi dành thời gian cho thực hành tâm linh, điều đó sẽ giống như trở về tay trắng từ hòn đảo ngọc báu. Thật là một lãng phí lớn lao! Vì thế, chúng ta nên tự nhủ rằng, “Tôi sẽ không bỏ lỡ cơ hội này. Khi có cơ hội quý giá, tôi sẽ thực hành Pháp.” Dĩ nhiên, tốt nhất là nên thực hành trong suốt cuộc đời, nhưng ít nhất, chúng ta cần quy y thích hợp, bởi đây là tinh túy của Phật Pháp và nó khép lại cánh cửa dẫn tới các cõi thấp hơn. Nó là phương pháp đối trị phổ biến có thể được áp dụng với mọi kiểu khó khăn và bởi thế, thực hành nó là điều rất quan trọng.

Mặc dù tạm thời bạn không hiểu tôi, bởi sự khác biệt về ngôn ngữ, nhưng bạn đều biết rằng tôi đang ban cho bạn vài chỉ dẫn. Sau khi tôi đi, mọi thứ sẽ được dịch cho các bạn và có lẽ bạn sẽ nghĩ rằng, “Vị lạt ma đó đã dạy chúng ta điều gì đó quan trọng; tôi cần đưa nó vào thực hành.” Nếu bạn thực sự làm vậy, trong các đời ngày này qua ngày khác, thì những giảng giải của tôi sẽ đem lại nhiều lợi lạc. Do đó, hãy thấu triệt nó.

Những lỗi lầm của luân hồi

Trải nghiệm hạnh phúc và khổ đau xảy đến như là kết quả của các thiện và ác hạnh; vì thế chúng ta cần tránh điều xấu và vun bồi điều tốt càng nhiều càng tốt.

Thậm chí loài côn trùng nhỏ bé nhất trong cỏ cây cũng mong muốn hạnh phúc. Nhưng nó không biết cách tích tập những nguyên nhân của hạnh phúc, tức là các thiện hạnh, cũng không biết cách tránh những nguyên nhân của khổ đau, các ác hạnh. Khi loài vật giết hại và ăn thịt lẫn nhau, chúng phạm phải ác hạnh theo bản năng. Chúng mong muốn hạnh phúc, nhưng tất cả những gì chúng làm là tạo ra nguồn gốc của cơ cực và trải qua không gì khác ngoài đau khổ. Đó là sự vô minh và ảo tưởng của chúng. Nhưng nếu chân lý thực sự được giới thiệu với chúng, thì không cần để ý tới các đời, chúng sẽ thành tựu mọi thiện hạnh, điều mà chúng nhận ra là nguồn gốc của hạnh phúc. Tinh túy của giáo lý Phật Đà là hiểu rõ ràng hành vi nào cần phải thực hiện và hành vi nào phải từ bỏ.

Từ bỏ điều ác,

Làm nhiều điều thiện,

Điều phục tâm mình:

Đó là giáo lý Phật Đà.

Bây giờ, chúng ta đều chìm trong trạng thái vô minh, và bởi vậy, chúng ta cần nhận ra mọi hành động xấu đã phạm phải trong rất nhiều đời cho đến nay. Và từ nay trở đi, chúng ta cần từ bỏ những hành động như vậy dù lớn hay nhỏ, giống như việc chúng ta nhổ gai khỏi mắt. Chúng ta cần không ngừng quán xét điều đang làm: bất cứ hành động xấu ác nào cũng cần được sám hối lập tức, và mọi hành động tốt lành cần được hồi hướng cho tha nhân. Cố gắng hết sức, chúng ta nên từ bỏ việc xấu và tích lũy việc lành.

Trích: Dũng khí Giác ngộ, Kyabje Dilgo Khyentse Rinpoche.

Việt dịch: Pema Jyana.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
08/01/2011(Xem: 3839)
Chúng ta sử dụng suy nghĩ như một công cụ, như hành vi để biết sự sinh khởi, bởi vì công năng của thiền quán thì ở trên và vượt qua tiến trình suy nghĩ; nó dẫn chúng ta tới chỗ không bị mê vọng bởi sự suy nghĩ.
04/01/2011(Xem: 8450)
Trí toàn giác không thể không nhân mà có, vì nếu là như vậy, bất cứ điều gì cũng có thể là toàn giác. Nếu sự việc sinh ra không tùy thuộc vào điều gì khác, như vậy mọi sự đều có thể hiện hữu không câu thúc, sẽ chẳng lý do gì lại không thể là toàn giác. Chính vì sự vật chỉ phát sinh tùy lúc, nên bắt buộc phải tùy thuộc nhân duyên. Trí toàn giác cũng vậy, rất hiếm hoi, không phải bất cứ lúc nào, chỗ nào, cũng có thể sinh ra. Cho nên trí toàn giác nhất định phải tùy thuộc nhân duyên.
31/12/2010(Xem: 11668)
Quyển TRUNGPHONG PHÁP NGỮ này được hình thành từ sự tuyển dịch một số bài pháp ngữ củaThiền Sư Trung Phong khai thị đồ chúng trong bộ Thiền Sư Tạp Lục, 3 quyển, introng Tục Tạng Kinh, tập số 122. Nội dung sách tấn người học lập chí lâubền, gan dạ liều chết hạ thủ công phu tham cứu thoại đầu cho đến khi khối nghibùng vỡ, hoàn toàn liễu thoát sanh tử.
26/12/2010(Xem: 12704)
“Con đường Thiền Chỉ Thiền Quán”đã được Ngài Guṇaratana trình bày một cách khúc chiết, rõ ràng có thể giúp cho những ai muốn nghiên cứu tường tận chỗ đồng dị, cộng biệt, sinh khắc của hai pháp môn này hầu tránh tình trạng nhầm lẫn, võ đoán và phiến diện trong lý thuyết cũng như trong thể nghiệm con đường giác ngộ giải thoát. Rất nhiều sách trình bày nhầm lẫn giữa Định và Tuệ hay Chỉ và Quán, đưa đến tình trạng định không ra định, tuệ chẳng ra tuệ, hoặc hành thiền định hóa ra chỉ là những “ngoại thuật” (những hình thức tập trung tư tưởng hay ý chí có mục đích khác với định nhà Phật), và hành thiền tuệ lại có kết quả của định rồi tưởng lầm là đã chứng được các bậc tuệ quán.
07/12/2010(Xem: 12708)
Ngày hôm qua Steve tới thăm với chú bé Mickey 7 tuổi. Gớm, thằng bé lớn mau quá đi thôi và nghịch ghê. Nó nói giỏi cả tiếng Pháp lẫn tiếng Anh. Nó còn nói được tiếng lóng học ở ngoài đường nữa. Trẻ con bên này được nuôi dạy khác với lối nuôi dạy trẻ con bên mình. Cha mẹ chúng để chúng “tự do phát triển”. Suốt hai giờ ngồi nói chuyện, Steve phải để ý tới thằng bé. Nó chơi, nó nghịch, nó xan vào cả câu chuyệncủa người lớn. Nó làm cho người lớn không nói chuyện với nhau được. Tôi đưa cho nó mấy quyển sách hình của trẻ con, nhưng nó chỉ lật xem sơ sơ rồi lại bỏ sách, xen vào giữa tôi và ba nó. Nó đòi sự chú ý của thế giới người lớn.
30/11/2010(Xem: 4691)
Tứ thiền (catvāri dhyānāni) là bốn phương pháp thiền định dùng cho cả nội giáo và ngoại giáo cùng tu tập thực hành, nhằm đối trị các lậu hoặc, là nhân siêu việt mọi lưới hoặc nghiệp của dục giới, là quả sinh lên cõi sắc giới, là y địa căn bản nơi sinh ra các công đức, cũng có nghĩa là bốn loại thiền định căn bản sinh ra các thứ công đức; đó chính là Sơ thiền, Nhị thiền, Tam thiền, Tứ thiền thuộc Sắc giới
06/11/2010(Xem: 4818)
Sức khỏe đựơc định nghĩa “ là một tình trạng hoàn toàn sảng khoái (well-being, bien-être) về thể chất, tâm thầnvà xã hội, chớ không phải chỉ là không có bệnh hay tật “ (WHO, Tổ chức sức khỏe thế giới, 1946) . Một định nghĩa như thế cho thấy cái gọi là “sức khỏe” của một con người không thể chỉ khu trú vào chuyện có hay không có bệnh, tật; cũng như không thể đánh giá sức khỏe của một cộng đồng mà chỉ dựa vào tỷ lệ giường bệnh, tỷ lệ bác sĩ…!
06/11/2010(Xem: 5015)
Có một sự nhất quán, xuyên suốt trong lời dạy hướng dẫn kỹ năng thiền định của Phật, từ Tứ niệm xứ (Satipatthàna) tới Thân hành niệm ( Kàyagatàsati), rồi Nhập tức xuất tức niệm (Ànàpànasati), đó là thở: Thở vào thì biết thở vào, thở ra thì biết thở ra. Thở vào dài thì biết thở vào dài, thở ra ngắn thì biết thở ra ngắn… Tóm lại, đó là luôn bắt đầu bằng sự quán sát hơi thở, đặt niệm (nhớ, nghĩ) vào hơi thở.
31/10/2010(Xem: 7269)
Lịch sử Thiền tông Trung Hoa sơ kỳ xuất hiện với hai tên tuổi tiêu biểu. Một vị đương nhiên là Bồ-đề Đạt-ma, người khai sáng Thiền tông Trung Hoa, và vị thứ hai là Lục Tổ Huệ Năng, người định hướng dòng mạch Thiền tông bắt nguồn từ Tổ Đạt-ma. Nếu không có Tổ Huệ Năng và môn đệ trong tông môn của Ngài thì Thiền tông không thể nào phát huy và hưng thịnh vào đầu đời Đường Trung Hoa. Pháp Bảo Đàn Kinh của Lục Tổ chiếm một vị thế tối quan trọng trong nhà Thiền, và những thăng trầm thuộc về duyên nghiệp mà bộ kinh đã khứng chịu có nhiều điều rất lý thú.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567