Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Lời khuyên người muốn tu tập theo phật giáo

21/01/201312:04(Xem: 6535)
Lời khuyên người muốn tu tập theo phật giáo

LỜI KHUYÊN NGƯỜI MUỐN TU TẬP THEO PHẬT GIÁO
Đức Đạt Lai Lạt Ma
Hoang Phong dịch

dalailama-toulouse-06Theo nguyên tắc chung,tôi nghĩ rằng tôn giáo của cha mẹ mình là tôn giáo thích nghi nhất cho mỗingười. Vả lại thật cũng không tốt nếu chạy theo một tín ngưỡng nào đó rồi saunày lại từ bỏ.

Ngày nay, nhiều ngườirất quan tâm đến đời sống tinh thần mà đặc biệt nhất là Phật giáo, nhưng thườngthì họ không suy xét cẩn thận để ý thức mình đang dấn thân vào một lãnh vựctinh thần có những đặc tính như thế nào. Trước hết phải tìm hiểu xem con đườngmà ta chọn lựa có thực sự phù hợp với bản chất và ước vọng của ta hay không.Hãy tự xét xem mình có đủ khả năng để theo đuổi hay không và sẽ gặt hái đượcnhững gì tốt lành sau khi tu tập. Hãy nghiên cứu những lời giáo huấn căn bảntrước đã. Trước khi bước vào Phật giáo, ta không thể nào biết hết được, tuynhiên ta vẫn có thể thâu thập được một số hiểu biết khá đầy đủ về những gìchính yếu và tiếp theo đó nên suy nghĩ một cách nghiêm túc hơn. Sau cùng, khiđã xem xét cẩn thận thì ta mới nên quyết định và như vậy thì mới thật là trọnvẹn. Được như thế chẳng những ta có thể đi xa hơn và nếu muốn thì có thể phátnguyện và xuất gia hẳn.

Người ta có thể tìm thấytrong Phật giáo rất nhiều phương pháp thiền định. Các phương pháp ấy gồm có sựlý luận phân giải, tập trung phi khái niệm vào một vật thể duy nhất, lắng thậtsâu vào nội tâm. Các đối tượng của thiền định có thể là hiện tượng vô thường,tính vô ngã, sự khổ đau, tình thương yêu, lòng từ bi và nhiều chủ đề khác nữa.Tuy nhiên, muốn tu tập một cách nghiêm túc thì cần phải có một vị thầy kinhnghiệm và đáng tin cậy để hướng dẫn.

Vị thầy giảng dạy cho tasẽ giữ một vai trò thật then chốt. Vì thế cũng phải nhận xét xem vị ấy có chânchính hay không, có hội đủ những phẩm tính đúng như mong muốn hay không, còn vềphần ta thì đã sẵn sàng và quyết định theo vị thầy ấy chưa.

Nói vắn tắt là ta hãyhết sức thận trọng. Không nên trở thành người Phật tử mà không nghĩ suy vàkhông biết gì cả. Hãy cố tránh trường hợp theo Phật giáo chỉ vì cảm thấy thíchrồi về sau mới biết là cách tu tập này hay cách tu tập kia không phù hợp vớimình hoặc là mình không đủ sức để thực hiện.

Một số người khi nghenói có một vị lạt-ma thuyết giảng ở đâu đó, liền đổ xô tới và đặt hết tin tưởngvào vị này mà chẳng cần tìm hiểu gì cả và cũng không hề tìm hiểu xem vị ấy cóhội đủ những phẩm tính cần thiết hay không. Sau một thời gian, họ mới thấy vịthầy ấy mang nhiều khiếm khuyết. Nhiều người Mỹ đã đến đây tìm tôi và kể lạimột số trường hợp như thế. Họ nghe nói có một vị lạt-ma gần nơi họ ở, tức thờihọ đặt hết lòng tin vào vị này mặc dù nhưng chưa kịp tìm hiểu cặn kẽ. Họ tiếpnhận những lời giáo huấn và nhất là chịu lễ thụ pháp, nhưng một hôm thái độ củahọ bỗng dưng thay đổi hẳn. Họ đùng đùng nổi giận và tuyên bố xem có ai muốnnghe chuyện tên lạt-ma ấy đã lạm dụng tình dục với các người bạn gái của họ haykhông, thế là họ đã vơ đũa cả nắm để nghĩ sai lầm về Phật giáo. Những người ấytự giao mình cho những vị lạt-ma thiếu khả năng và đã làm mất đi uy tín củanhững lời giáo huấn đích thực, rồi sau đó lại đổ trách nhiệm cho Đức Phật đãlàm họ thất vọng. Việc ấy từ đâu mà ra ? Chính là thái độ của những người khôngđược đúng đắn. Trước khi quyết định điều gì, phải tìm hiểu thật cẩn thận.

Quán xét một người thầylà bước quan trọng đầu tiên trên đường tu học, kinh sách đều có nói đến điềunày. Nếu chọn một một vị thầy tinh thần mà không kịp nghĩ suy gì cả, đến khinhững khiếm khuyết của vị ấy xuất hiện, lẽ tất nhiên là ta sẽ có cảm giác nhưbị giáng cho một tai họa. Dù sao, khi đã phát nguyện và tiếp nhận lễ thụ phápthì tốt hơn đừng để cho những ý nghĩ không tốt phát sinh.

Bất cứ một con người nàocũng có những phẩm tính tốt và những khuyết điểm. Kinh sách nói rằng một vịthầy tinh thần phải hội đủ những phẩm tính cao hơn chúng ta, nhưng thật sự câuấy có nghĩa là thế nào ? Ví dụ một người nào đó được thụ giáo trực tiếp bằngkhẩu truyền, một phương pháp tu tập mà ngày nay đã trở nên rất hiếm hoi, thì dùcho người ấy không có những hiểu biết lớn lao nhưng trên phương diện truyền thụthì họ đạt được một cái gì đó mà ta không có, và trong giới hạn của ý nghĩa ấythì họ vẫn hơn ta.

Nếu ta liên hệ với một vịthầy không tốt và đã tiếp nhận từ vị này những lời giáo huấn của Đức Phật thìvị ấy vẫn xứng đáng để cho ta mang ơn. Nếu nhìn dưới góc cạnh đó và nếu như taxem người thầy là một kẻ tầm thường, hoặc tệ hại hơn là bất thần ta khinh ghétvị ấy, thì thái độ của ta không được đúng đắn lắm. Ngay cả trường hợp ta có hốitiếc đi nữa thì vị ấy cũng từng là người hướng dẫn tinh thần cho ta, vì thế tacũng nên tránh những thái độ quá cực đoan.

Nói như thế không cónghĩa là ta bắt buộc phải tiếp tục tiếp nhận sự giáo huấn của vị ấy. Ta hoàntoàn tự do tránh không gặp vị ấy nữa. Nói chung, khi ta đã tiếp nhận những lờigiáo huấn của Đức Phật qua một người nào đó thì nếu có thể và tốt hơn hết lànên trau dồi lòng tin tưởng của ta nơi người ấy. Nếu không thực hiện được thìthôi, nhưng phải giữ thái độ dung hoà, không nghĩ tốt mà cũng không nghĩ xấu.

Còn một điều nữa làkhông nên nghĩ rằng khi tu tập Phật giáo là ta có thể bay bổng lên trời xanh,đi xuyên ngang được vật chất hay nhìn thấy được tương lai. Mục đích của việc tutập Phật giáo là chủ động tâm thức của chính mình chứ không phải để đạt đượcnhững quyền năng kỳ diệu. Cũng có thể khi đã khắc phục được tâm thức thì dầndần từng chút, vài khả năng nào đó mà người ta gọi là « kỳ diệu » cũng có thểxảy ra, nhưng đấy chỉ những gì phụ thuộc. Nếu ta xem những thứ ấy là đối tượngchính của sự tu tập thì thật sự tôi không tin chút nào rằng đấy là sự tu tậpPhật giáo. Những người ngoài Phật giáo cũng có những loại khả năng như thế.Hình như có một lúc KGB và cả CIA cũng chú ý đến những khả năng này (1). Vì vậyta hãy nên giữ lấy sự thận trọng cho chính mình.

Ghi chú :

1- KGB và CIA làcác cơ quan tình báo của Nga và Mỹ. Các cơ quan này đã từng nghiên cứu việcdùng thần giao cách cảm ứng dụng vào việc truyền tin và gián điệp, nhưng hìnhnhư đã thất bại (?)

Trích:
ĐỨC ĐẠT-LAI LẠT-MA
NHỮNG LỜIKHUYÊN TÂM HUYẾT
Thựchiện với sự hợp tác của MATTHIEU RICARD
Chuyểnngữ từ tiếng Tây tạng sang tiếng Pháp: CHRISTIAN BRUYAT
Chuyểnngữ Pháp Việt: Hoang PhongNhà Xuất Bản Tôn Giáo Hà Nội 2009



(CÙNG TÁC/DỊCH GIẢ)


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
08/01/2011(Xem: 3917)
Chúng ta sử dụng suy nghĩ như một công cụ, như hành vi để biết sự sinh khởi, bởi vì công năng của thiền quán thì ở trên và vượt qua tiến trình suy nghĩ; nó dẫn chúng ta tới chỗ không bị mê vọng bởi sự suy nghĩ.
04/01/2011(Xem: 8552)
Trí toàn giác không thể không nhân mà có, vì nếu là như vậy, bất cứ điều gì cũng có thể là toàn giác. Nếu sự việc sinh ra không tùy thuộc vào điều gì khác, như vậy mọi sự đều có thể hiện hữu không câu thúc, sẽ chẳng lý do gì lại không thể là toàn giác. Chính vì sự vật chỉ phát sinh tùy lúc, nên bắt buộc phải tùy thuộc nhân duyên. Trí toàn giác cũng vậy, rất hiếm hoi, không phải bất cứ lúc nào, chỗ nào, cũng có thể sinh ra. Cho nên trí toàn giác nhất định phải tùy thuộc nhân duyên.
31/12/2010(Xem: 11762)
Quyển TRUNGPHONG PHÁP NGỮ này được hình thành từ sự tuyển dịch một số bài pháp ngữ củaThiền Sư Trung Phong khai thị đồ chúng trong bộ Thiền Sư Tạp Lục, 3 quyển, introng Tục Tạng Kinh, tập số 122. Nội dung sách tấn người học lập chí lâubền, gan dạ liều chết hạ thủ công phu tham cứu thoại đầu cho đến khi khối nghibùng vỡ, hoàn toàn liễu thoát sanh tử.
26/12/2010(Xem: 12765)
“Con đường Thiền Chỉ Thiền Quán”đã được Ngài Guṇaratana trình bày một cách khúc chiết, rõ ràng có thể giúp cho những ai muốn nghiên cứu tường tận chỗ đồng dị, cộng biệt, sinh khắc của hai pháp môn này hầu tránh tình trạng nhầm lẫn, võ đoán và phiến diện trong lý thuyết cũng như trong thể nghiệm con đường giác ngộ giải thoát. Rất nhiều sách trình bày nhầm lẫn giữa Định và Tuệ hay Chỉ và Quán, đưa đến tình trạng định không ra định, tuệ chẳng ra tuệ, hoặc hành thiền định hóa ra chỉ là những “ngoại thuật” (những hình thức tập trung tư tưởng hay ý chí có mục đích khác với định nhà Phật), và hành thiền tuệ lại có kết quả của định rồi tưởng lầm là đã chứng được các bậc tuệ quán.
07/12/2010(Xem: 12795)
Ngày hôm qua Steve tới thăm với chú bé Mickey 7 tuổi. Gớm, thằng bé lớn mau quá đi thôi và nghịch ghê. Nó nói giỏi cả tiếng Pháp lẫn tiếng Anh. Nó còn nói được tiếng lóng học ở ngoài đường nữa. Trẻ con bên này được nuôi dạy khác với lối nuôi dạy trẻ con bên mình. Cha mẹ chúng để chúng “tự do phát triển”. Suốt hai giờ ngồi nói chuyện, Steve phải để ý tới thằng bé. Nó chơi, nó nghịch, nó xan vào cả câu chuyệncủa người lớn. Nó làm cho người lớn không nói chuyện với nhau được. Tôi đưa cho nó mấy quyển sách hình của trẻ con, nhưng nó chỉ lật xem sơ sơ rồi lại bỏ sách, xen vào giữa tôi và ba nó. Nó đòi sự chú ý của thế giới người lớn.
30/11/2010(Xem: 4728)
Tứ thiền (catvāri dhyānāni) là bốn phương pháp thiền định dùng cho cả nội giáo và ngoại giáo cùng tu tập thực hành, nhằm đối trị các lậu hoặc, là nhân siêu việt mọi lưới hoặc nghiệp của dục giới, là quả sinh lên cõi sắc giới, là y địa căn bản nơi sinh ra các công đức, cũng có nghĩa là bốn loại thiền định căn bản sinh ra các thứ công đức; đó chính là Sơ thiền, Nhị thiền, Tam thiền, Tứ thiền thuộc Sắc giới
06/11/2010(Xem: 4849)
Sức khỏe đựơc định nghĩa “ là một tình trạng hoàn toàn sảng khoái (well-being, bien-être) về thể chất, tâm thầnvà xã hội, chớ không phải chỉ là không có bệnh hay tật “ (WHO, Tổ chức sức khỏe thế giới, 1946) . Một định nghĩa như thế cho thấy cái gọi là “sức khỏe” của một con người không thể chỉ khu trú vào chuyện có hay không có bệnh, tật; cũng như không thể đánh giá sức khỏe của một cộng đồng mà chỉ dựa vào tỷ lệ giường bệnh, tỷ lệ bác sĩ…!
06/11/2010(Xem: 5048)
Có một sự nhất quán, xuyên suốt trong lời dạy hướng dẫn kỹ năng thiền định của Phật, từ Tứ niệm xứ (Satipatthàna) tới Thân hành niệm ( Kàyagatàsati), rồi Nhập tức xuất tức niệm (Ànàpànasati), đó là thở: Thở vào thì biết thở vào, thở ra thì biết thở ra. Thở vào dài thì biết thở vào dài, thở ra ngắn thì biết thở ra ngắn… Tóm lại, đó là luôn bắt đầu bằng sự quán sát hơi thở, đặt niệm (nhớ, nghĩ) vào hơi thở.
31/10/2010(Xem: 7349)
Lịch sử Thiền tông Trung Hoa sơ kỳ xuất hiện với hai tên tuổi tiêu biểu. Một vị đương nhiên là Bồ-đề Đạt-ma, người khai sáng Thiền tông Trung Hoa, và vị thứ hai là Lục Tổ Huệ Năng, người định hướng dòng mạch Thiền tông bắt nguồn từ Tổ Đạt-ma. Nếu không có Tổ Huệ Năng và môn đệ trong tông môn của Ngài thì Thiền tông không thể nào phát huy và hưng thịnh vào đầu đời Đường Trung Hoa. Pháp Bảo Đàn Kinh của Lục Tổ chiếm một vị thế tối quan trọng trong nhà Thiền, và những thăng trầm thuộc về duyên nghiệp mà bộ kinh đã khứng chịu có nhiều điều rất lý thú.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567