Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Truyền Tâm Ấn

28/08/201020:19(Xem: 4668)
Truyền Tâm Ấn
TO-Bo-De-Dat-Ma

        Hoàng tử Bồ-Đề-Đa-La thả lỏng giây cương. Con bạch mã thong dong bước qua cổng hoàng thành, đi về phía hoàng cung. Đám lính lệ cúi rạp, đỡ hoàng-tử xuống ngựa.

          Khi hoàng-tử bước vào sân rồng thì đã thấy phụ hoàng là vua Hương Chí, hai hoàng huynh là hoàng-tử Nguyệt-Tịnh-Đa-La và Công-Đức-Đa-La đang cung kính tiếp chuyện một vị tăng. Hoàng-tử Bồ-Đề-Đa-La vội quỳ xuống đảnh lễ. Vua Hương Chí nói:

          - Đây là Tổ Bát-Nhã-Đa-La mà cha cung thỉnh tới để được cúng dường ngài.

          Nghe danh xưng đó, hoàng tử Bồ-Đề-Đa-La ngước lên. Ánh mắt của hoàng tử vừa chạm tới thần quang của Tổ thì lòng hoàng tử bỗng cực kỳ rung động, và một niềm vui bao la lan tỏa khắp châu thân. Tổ Bát-Nhã-Đa-La đưa tay ra, tỏ ý đỡ hoàng-tử đứng dậy. Lui về chỗ ngồi nhưng mắt hoàng-tử vẫn không rời vị sứ giả Như-Lai, người đang tỏa ánh sáng kỳ diệu như thể chiếu sáng được cả thế gian.

          Tổ Bát-Nhã-Đa-La cũng không ngớt nhìn hoàng-tử. Với tuệ nhãn, ngài vừa thấy được trí tuệ vô song của vị hoàng-tử nhỏ qua cung cách đảnh lễ rất khiêm cung mà lại vô cùng thư thái, tự tại. Ngài bèn giơ lên hạt minh châu quý giá mà vua Hương Chí vừa cúng dường và hỏi:

          - Trên đời có thứ gì quý hơn hạt minh châu này không?

          Hoàng-tử Nguyệt-Tịnh-Đa-La vòng tay thưa:

          - Đây là hạt minh châu quý giá nhất, chỉ giòng vua Sát-Đế-Lợi mới có. Trên đời không gì có thể quý hơn,

          Hoàng-tử Công-Đức-Đa-La cung kính tiếp lời anh:

          - Bạch Tổ, đây là hạt minh châu chiếu sáng nhất. Không gì trên đời có thể chiếu sáng hơn hạt châu này.

          Vua Hương Chí đưa mắt nhìn hoàng-tử út, chờ câu trả lời. Hoàng-tử Bồ-Đề-Đa-La quỳ xuống trước Tổ mà thưa rằng:

          - Hạt minh châu này rất quý, nhưng chưa phải là thứ quý nhất trên thế gian. Hạt minh châu này chiếu sáng, nhưng chưa phải là ánh sáng rực rỡ nhất thế gian. Bởi vì, hạt châu này không thể tự nó hiển hiện, nếu không nhờ trí tuệ giúp nó hiển bày; rồi nó cũng không tự biết nó là gì, nếu không nhờ trí tuệ giúp nó biết được nó là hạt minh châu. Biết mình là hạt châu rồi, nó cũng không tự biết nó quý giá, nếu không nhờ trí tuệ giúp nó biết giá trị của nó. Tóm lại, nhờ trí tuệ, hạt châu mới biết được mình là hạt châu quý giá, có thể tỏa chiếu ánh sáng. Nhưng ánh sáng đó cũng chỉ chiếu sáng cho chính nó mà thôi, nó chẳng làm sáng được viên đá, hòn sỏi nào để gần nó. Vì vậy, bạch Tổ, con nghĩ rằng, hạt châu này chưa phải là thứ quý nhất trên đời.

          Tổ Bát-Nhã-Đa-La yên lặng mỉm cười. Nhưng nhà vua thì nóng nẩy hỏi;

          - Vậy thứ gì quý hơn hạt châu này?

          Hoàng-tử Bồ-Đề-Đa-La vòng tay thưa:

          - Bạch Tổ, tâu phụ vương, trí tuệ là thứ quý hơn hạt châu này muôn ức lần. Trí tuệ chính là thứ quý nhất trên đời, vì có trí tuệ mới nhận ra được tự tánh, và nhận ra tự tánh mới giải thoát khỏi mọi trói buộc phiền não, mới đoạn diệt được luân hồi. Ánh sáng trí tuệ là ánh sáng rực rỡ nhất trên đời vì người có ánh sáng trí tuệ không chỉ soi sáng chính mình mà còn soi sáng cho người u tối, giúp họ đoạn trừ vô minh đạt tới giác ngộ. Trí tuệ cũng là của cải bền vững nhất vì người đã có trí tuệ rồi thì không cảnh huống nào, quyền lực nào có thể lấy đi được.

          Vua Hương Chí và hai hoàng-tử Nguyệt-Tịnh-Đa-La, Công-Đức-Đa-La cùng sửng sốt khi nghe câu trả lời của hoàng-tử út. Họ nhìn hoàng-tử Bồ-Đề-Đa-La như nhìn một người rất lạ, một người uyên bác thâm sâu mà trước đây họ không hề chú ý tới.

          Riêng Tổ Bát-Nhã-Đa-La thì vẫn im lặng mỉm cười. Ngài nhớ lại khi xưa, sư phụ của ngài là Bất-Như-Mật-Đa, trước khi thị tịch cũng phải biết, trong hàng đệ tử, ai là kẻ xứng đáng để truyền tâm ấn, tiếp nối việc hoằng pháp độ sanh. Từ ngày Tổ được sư phụ truyền tâm ấn, ròng rã nhiều chục năm bôn ba hoằng pháp mà chưa tìm được đệ tử đủ công năng và trí tuệ để kế thừa Tổ vị. Hôm nay, cơ duyên đã tới rồi chăng?    

          Sau khi vua Hương Chí băng hà, hoàng-tử Nguyệt-Tịnh-Đa-La lên nối ngôi thì hoàng-tử Bồ-Đề-Đa-La xin theo Tổ học đạo. Tổ Bát-Nhã-Đa-La không ngạc nhiên khi thấy hoàng-tử nhỏ tìm đến thiền đường, vì Tổ đã nhìn thấy căn cơ của hoàng-tử qua cuộc trắc nghiệm về hạt minh châu. Tổ hoan hỷ nhận hoàng tử làm đệ tử và đặt hiệu là Bồ-Đề-Đạt-Ma.

          Từ đó, Bồ-Đề-Đạt-Ma theo thầy hoằng pháp mấy mươi năm ròng.

          Trước khi diệt độ, Tổ Bát-Nhã-Đa-La gọi Bồ-Đề-Đạt-Ma đến mà nói rằng:

          - Cơ duyên hóa thân của ta tới đây đã dứt. Xưa, Như-Lai trao truyền Chánh Pháp Nhãn Tạng cho Tổ Ca Diếp, lần lượt nhiều đời nhiều kiếp, đến ta là vị Tổ thứ 27, được nhận lãnh. Nay, con là đệ tử xứng đáng để ta truyền lại, con phải hết lòng gìn giữ và lưu truyền. Đó là trọng trách của kẻ được kế thừa tổ vị. Sau khi ta diệt độ rồi, con hãy tạm ở Nam Ấn mà hoằng pháp một thời gian, nhưng nhân duyên lớn của con lại ở tận nước Trung Hoa xa xôi. Con sẽ trải qua muôn vàn khổ hạnh trên đường khai tâm cho người dân xứ ấy. Ta sẽ phò trợ con. Vậy, hãy lãnh ý ta mà tuyên hành.

          Bồ-Đề-Đạt-Ma sụp lạy sư phụ, nhận lễ truyền tâm cùng y bát của thầy mình để sau này làm ấn tín.

          Và, đúng như điều Tổ Bát-Nhã-Đa-La đã thấy trước, Bồ-Đề-Đạt-Ma chính là vị Tổ thứ 28 nhận trọng trách truyền thừa Chánh Pháp, đồng thời, Ngài cũng là vị Tổ thứ nhất, gieo hạt Thiền Tông Phật Giáo ở Trung Hoa, và từ đấy ảnh hưởng trực tiếp đến những giòng thiền tại Nhật Bản, Triều Tiên và ngay cả Việt Nam.

          Nhắc lại chuyện xưa để chúng ta có thể học được bài học đầu tiên nơi vị hoàng-tử nhỏ. Đó là, NHẬN BIẾT GIÁ TRỊ CỦA TRÍ TUỆ VÀ DÙNG TRÍ TUỆ ĐÓ NHƯ NGỌN ĐÈN, XUA TAN BÓNG TỐI TRONG TA VÀ QUANH TA.

          Như một thiền sư đã nói, khi đèn được bật sáng, ta chỉ còn việc nhìn mọi vật cho tỏ tường, mà không bận tâm bóng tối rồi sẽ đi về đâu.

 

 

                                                                                      Huệ Trân
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
08/10/2010(Xem: 12299)
Phật nói : Lấy Tâm làm Tông, lấy không cửa làm cửa Pháp. Đã không cửa làm sao đi qua ? Há chẳng nghe nói : “Từ cửa vào không phải là đồ quý trong nhà. Do duyên mà được, trước thì thành, sau thì hoại.” Nói như thế giống như không gió mà dậy sóng, khoét thịt lành làm thành vết thương. Huống hồ, chấp vào câu nói để tìm giải thích như khua gậy đánh trăng, gãi chân ngứa ngoài da giầy, có ăn nhằm gì ? Mùa hạ năm Thiệu Định, Mậu Tý, tại chùa Long Tường huyện Đông Gia, Huệ Khai là Thủ Chúng nhân chư tăng thỉnh ích bèn lấy công án của người xưa làm viên ngói gõ cửa, tùy cơ chỉ dẫn người học. Thoạt tiên không xếp đặt trước sau, cộng được 48 tắc gọi chung là “Cửa không cửa”. Nếu là kẻ dõng mãnh, không kể nguy vong, một dao vào thẳng, Na Tra tám tay giữ không được. Tây Thiên bốn bẩy (4x7=28) vị, Đông Độ hai ba (2x3=6) vị chỉ đành ngóng gió xin tha mạng. Nếu còn chần chờ thì giống như nhìn người cưỡi ngựa sau song cửa, chớp mắt đã vượt qua.
08/10/2010(Xem: 3598)
1. Do đâu mà có Thiền Minh Sát? Thiền Minh Sát là một loại thiền căn bản và chính yếu của Phật Giáo Nguyên Thủy. 2. Vipassana nghĩa là gì? Chữ "Vipassana" được chia làm hai phần "Vi" có nghĩa là "bằng nhiều cách" và "Passana" có nghĩa là "nhìn thấy". Vậy "Vipassana" có nghĩa là thấy được bằng nhiều cách khác nhau. (Minh sát).
08/10/2010(Xem: 3596)
Dĩ nhiên chẳng ai muốn đau khổ và mọi người đều cố gắng tìm kiếm hạnh phúc. Khắp nơi trên thế giới nhân loại đang tìm đủ cách để ngăn ngừa hoặc làm vơi đi nỗi đau khổ và tạo an vui hạnh phúc. Tuy nhiên mục đích chính yếu của họ chỉ nhằm tạo hạnh phúc thể chất bằng phương tiện vật chất. Thật ra, hạnh phúc hay không đều do ở tâm của chúng ta. Vậy mà rất ít người nghĩ đến vấn đề phát triển tinh thần. Những người muốn rèn luyện tinh thần lại càng hiếm hoi hơn nữa.
06/10/2010(Xem: 3352)
Có nhiều cách thức để chúng ta tiếp cận với kinh điển. Chúng ta đọc kinh như một tác phẩm văn học để tìm ra những biểu hiện thẩm mỹ của nội dung tư tưởng, hay đọc kinh để hiểu những phạm trù triết học, những tư tưởng ẩn áo mà kinh hàm chứa, v.v… Cách thức nào không quan trọng. Song, một điều mà người học Phật cần phải lưu ý là cái chân lý thường nghiệm thì phi ngôn thuyết; nó có được do sự kinh nghiệm của mỗi ngư
28/09/2010(Xem: 6456)
Bản thân sự đau đớn nơi thân không là yếu tố quyết định duy nhất cho việc có sức khỏe hay không, thậm chí kinh nghiệm vui sướng, do bản chất vô thường...
28/09/2010(Xem: 6430)
Trong khi các luận sư của Hoa nghiêm tông vận dụng những lối trực chỉ của Thiền theo cách riêng của họ, các Thiền sư được lôi cuốn đến nền triết học tương tức tương nhập...
21/09/2010(Xem: 7143)
Đây là bản dịch mới của bài KinhĀnāpānasatisuttamthuộc Tạng Kinh, Trung Bộ, tập III, bài 118. Căn cứ theovăn tự, bản dịch này trình bày một số điểm xét ra có phần khác biệt so với cácbản dịch trước đây. Những điểm này chủ yếu được trình bày ở phần cước chú.
16/09/2010(Xem: 6276)
Khi Thiền sư Thích Nhất Hạnh – năm nay đã 86 tuổi – được giới thiệu trước công chúng tại quảng trường Copley vào chiều Chủ nhật, Thầy bắt đầu bằng hành động ngồi yên và không nói gì trong suốt 25 phút.
16/09/2010(Xem: 9251)
Chúng ta tiếp nhận huyết thống, gốc rễ từ Tổ tiên, nhưng nếu không có Ông Bà, Cha Mẹ sinh đẻ, nuôi nấng thì không có chúng ta hôm nay, nên phận làm con cần phải biết về danh tánh, gia phả, giòng họ và nơi sinh cơ lập nghiệp của Tổ tiên mình. Đối với người Phật Tử cũng vậy. Đức Phật thị hiện tại thế gian để khai thị chúng sanh ngộ nhập tri kiến Phật, nhưng nếu không có Thầy, Tổ truyền đăng tục diệm, truyền giới, truyền pháp thì mạng mạch Phật pháp không thể tồn tại cho đến hôm nay.
04/09/2010(Xem: 5397)
Hai truyền thống của Nam và Bắc truyền đều thừa nhận rằng, vào thời hoàng kim Phật giáo, mười ba năm đầu trong Tăng đoàn không có giới luật, nhưng sau đó sự lớn mạnh của Tăng đoàn, sự khác biệt về nhận thức nên đức Phật đã chế ra giới luật để “phòng hộ các căn” nhằm giúp cho mỗi thành viên trong Tăng đoàn được thanh tịnh và giả thoát. Thiết nghĩ, Bát kỉnh pháp cũng không ngoài những thiện ý đó!
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567