Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Thiền Vipassana trong nhà tù.

22/04/201319:42(Xem: 5688)
Thiền Vipassana trong nhà tù.


Duc_Phat_Thich_Ca (1)

THIỀN VIPASSANA TRONG NHÀ TÙ

TN. Hằng Liên

---o0o---

Trên thế gian này,

Hận thù không bao giờ dập tắt hận thù,

Chỉ với lòng từ bi mới xóa tan hận thù,

Đó là định luật ‘ngàn xưa’! - (Kệ Pháp Cú - số 5)

Trung Tâm Nhà Tù – Jaipur, Rajasthan (miền Bắc Ấn) năm 1975

“… Ngài Goenka được quyền cư trú tạm thời trong căn phòng y tế của nhà tù. Thời bấy giờ, các phạm nhân tội nặng phải bị còng tay và khóa xích cổ chân. Bốn tù nhân can phạm như vậy được đưa đến thiền đường (Meditation Hall - xây tạm trong tù) với các chiếc còng sắt khóa xích tay và chân họ. Khi nhìn thấy cảnh này, Ngài Goenka bàng hoàng kinh ngạc. Tôi (Ram Singh) thưa với Ngài Goenka rằng, đây là các phạm nhân ngoan cố. Ngài Goenka phản đối: “Sao có thể đưa người bị còng xích như vậy đến gặp tôi? Điều này không thể xảy ra, hãy tháo khóa xích cho họ!”

Ngài Ram Singh, vừa là Thầy hướng dẫn thiền Vipassana và cũng là Bí Thư Bộ Nội Vụ của Tiểu Bang Rajasthan, đã tường thuật điều này như một bằng chứng sử liệu trong biên niên sử canh tân nhà tù. Sau nhiều kỷ nguyên, phương pháp thiền tuệ quán ‘thanh tịnh tâm’- đã tới lúc được truyền trao đến một trong những thành phần đau khổ nhất xã hội. Các tù nhân can phạm (tội nặng), bị kết án và tù treo tham gia khóa thiền Vipassana là những người đã nhận được chiếc chìa khóa để giải thoát các xiềng xích trói buộc (đau khổ) nhiều hơn so với các gông cùm đang cột trói chân tay họ; sợi dây xích do ‘tập khí vô minh’ trong tâm tạo nên các tánh xấu như giận dữ, hận thù và mê muội.

Thiền Sư Viện Chủ S.N. Goenka giải thích: “Nhà tù, theo ý nghĩa thực sự là đưa người ra khỏi khổ đau và sai lầm của họ.” “Tôi rất vui mừng khi thiền Vipassana đã và đang được thực hành trong các nhà tù. Điều này chắc chắn sẽ là tấm gương quý báu cho toàn thế giới – nhà tù nên duy trì như thế nào và các phạm nhân trong tù nên được cải tạo giáo dục ra sao để khi rời khỏi tù họ trở thành con người hữu ích chứ không phải là một tệ nạn cho xã hội. Và thiền quán được thực hành ở đây, bởi vì ‘thiền’ hành trì (sự quán chiếu) và thanh lọc nội tâm ngay từ cội nguồn các thói quen tật xấu của con người đã gây nên tội phạm và tệ nạn xã hội.”

Nhà Tù Tihar, Thủ Đô Delhi năm 1994

Hai thiền sinh (vipassana students) A. Menahemi và E. Ariel là hai nhà phim ảnh Do Thái chuyên nghiệp trở thành nhân viên viễn thông đầu tiên được phép dựng phim trong khu vực an ninh nghiêm cấm của một trong những nhà tù lớn nhất thế giới. Cuốn phim tài liệu của họ với tựa đề: “Thời Điểm - Thiền Tuệ Quán” (Doing Time, Doing Vipassana) là một bản tường thuật hùng biện về sự uyên thâm của thiền quán đã mang lại lợi ích cho mọi người, ngay cả đối với những kẻ phạm tội bị tố cáo triệt để như: bọn giết người, khủng bố, hiếp dâm và các băng đảng cướp tàn ác.

Hiện nay, nhà tù Tihar đã xây dựng ‘Trung Tâm Tu Thiền’ bên trong những bức tường vô cùng kiên cố của nó. Tri ơn những nổ lực đáng quý của Bà Kiran Bedi - Tổng Thanh Tra nhà tù, các đồng nghiệp và cấp dưới của Bà, nhà tù Tihar đã trở thành ‘Pháp Đường Tihar” (Dhamma Tihar). Giờ đây, mỗi tháng có hai khóa Thiền được tổ chức thường lệ cho các phạm nhân. Những vị hộ thiền hay hộ pháp (Dhamma Server) cho khóa thiền là các bạn tù đã tham dự khóa thiền trước và bây giờ phục vụ lại cho các phạm nhân (tân thiền sinh) để tất cả cùng có cơ hội tiếp nhận chánh pháp.

Chín năm sau kể từ khi khóa thiền lịch sử đầu tiên tại Jaipur, Thiền Vipassana nhanh chóng truyền bá xuyên khắp các nhà tù toàn quốc gia Ấn Độ, điển hình các Tiểu Bang lớn như: Maharastra, Andhra Pradesh, Karnataka (thuộc Nam Ấn) và Gujarat (thuộc Tây Ấn).

Các Tiểu Bang Bihar (Đông Ấn) và Haryana (Bắc Ấn) cũng áp dụng (tổ chức các khóa thiền trong tù) theo Tiểu Bang Rajasthan và Thủ Đô Delhi. Trong buổi hội nghị “Tổng Thanh Tra các Nhà Tù - Ấn Độ” tại Thủ Đô New Delhi, thiền Vipassana được giới thiệu như một “biện pháp canh tân nhà tù” áp dụng khắp các nhà tù toàn xứ Ấn. Quyết định này có ảnh hưởng lớn do nghe vô số bản tường thuật cá nhân có thái độ tinh thần chuyển đổi. Sau khi tham dự khóa thiền, không những chỉ có phạm nhân mà các viên chức nhà tù đều được chuyển hóa.

Có nhiều phạm nhân, chẳng hạn như A. Sanghavi là một phạm nhân ba mươi tuổi “khét tiếng,” sau khi tham dự một khóa thiền tuệ quán và ngày được thả ra, anh ta làm cho các công an nhà tù vô cùng ngạc nhiên vì đã đi thẳng đến Trung Tâm Tu Thiền “Dhamma Thali,” tình nguyên phục vụ cho các khóa thiền tại đó.

Một trường hợp gây nhiều cảm động hơn trong câu chuyện của anh chàng Babu Bhaya, một can phạm với án tù giết ba người trong vòng năm phút. Sau khi tham dự khóa thiền trong trại giam Baroda, với lòng tràn ngập niềm hối hận Bhaya đã khẩn cầu các gia đình nạn nhân tha thứ cho anh. Năm 1992, vào ngày lễ (Raksha Badhan)[1] (theo truyền thống Ấn Độ, đây là ngày lễ ‘vòng dây tương kết tình anh em’ giữa nam và nữ), vợ và em gái của người bị Bhaya giết đã đến nhà tù và vòng sợi dây ‘tương kết’ thánh thiện xung quanh cổ tay Bhaya. Họ đã chấp nhận Bhaya như người anh trong tình thân ái.

Anh B. Bhaya tâm sự: “Tôi chỉ biết thù hận con người và luôn luôn cảm thấy giận dữ, sân hận không nguôi. Nhưng sau khi thực hành thiền quán, tôi đã thay đổi. Bây giờ tôi cảm thấy thương yêu và thông cảm cho tất cả mọi người.”

Sự chuyển đổi thái độ tinh thần gây nhiều ấn tượng sâu sắc như vậy giữa các phạm nhân tạo nên niềm phấn khởi cho khóa tu thiền đặc biệt trên 1000 phạm nhân trong nhà tù Tihar. Khóa thiền này tổ chức vào năm 1994 do chính Thiền sư Goenka trực tiếp hướng dẫn và là khóa tu dành cho phạm nhân lớn nhất trong thời hiện đại.

Dưới sự bảo trợ của Viện Khoa Học Y Khoa Toàn Quốc Ấn Độ (AIIMS) tại thủ đô New Delhi, các phái viên chuyên khoa đã tổ chức một cuộc nghiên cứu kiểm tra các thiền sinh trong tù Tihar và tường thuật rằng: “Sự phân tích thống kê dựa trên thông số nghiên cứu tâm lý cho thấy các phạm nhân có tinh thần trách nhiệm tiến bộ rõ rệt. Theo bản báo cáo của các phạm nhân, sau khóa thiền họ có sự thuyên giảm đáng kể trong các chứng bịnh: rối loạn thần kinh, hành vi bạo động và tình trạng tinh thần bất lực; đồng thời niềm hy vọng và hạnh phúc được tăng trưởng.”

Kết quả lợi ích thiết thực này rõ ràng không phải phát sinh từ năng lực thần thông hay do ảnh hưởng mầu nhiệm nào đó. Các phạm nhân nổ lực thực hành thiền tuệ quán đúng pháp và chuyên cần sẽ đạt được lợi ích không khác gì các thiền sinh bên ngoài bức tường nhà tù. Như anh Mustafa, một thiền sinh người Châu Phi trong khám tù Tihar phát biểu: “Sự chuyển hóa nội tâm không phải đễ dàng đạt được. Sự thay đổi cần có thời gian … Tôi không tuyên bố rằng, tôi đã tham dự một khóa thiền Vipassana và Đùng một cái! – Ngay tức khắc, sự giận dữ trong tôi hoàn toàn biến mất. Nó được chuyển hóa từng bước giảm dần, giảm dần, giảm dần ….”

Trung Tâm Nhà Tù – Nashik, Maharashtra (miền Nam Ấn) năm 1996

Mười một năm sau kể từ khi khóa thiền ‘trong tù’ đầu tiên, thiền Vipassana đã bám rễ chắc chắn trong các nhà tù Ấn Độ. Sau cuộc viếng thăm nhà tù Nashik, đại biểu Bộ Trưởng tiểu bang Maharashtra – ông G. Munde tuyên bố, mỗi nhà tù trong tiểu bang này đều nên tổ chức hướng dẫn thiền Vipassana.

Lập tức sau đó, trung tâm nhà tù Nashik được chính thức công bố là một trung tâm ‘Chánh Pháp’ giống như nhà tù Tihar. Mỗi tháng có hai khóa thiền 10 ngày được tổ chức trong tù.

Nhà tù Yerwada “khét tiếng” ở thành phố Pune (miền Nam Ấn) không bao lâu cũng áp dụng theo chính sách (hướng dẫn thiền tuệ quán). Một khóa thiền đặc biệt được tổ chức cho các phạm nhân ngoại quốc trong tù. Khóa thiền này gồm các vị thầy hướng dẫn và ban hộ thiền đều là người ngoại quốc phục vụ. Sau khóa thiền, anh Josef – tù nhân người Tiệp Khắc bị kết án do tội buôn bán Ma Túy phát biểu: “ tôi đã từng học nhiều pháp môn thiền định, nhưng chưa có phương pháp nào đưa tôi đi sâu vào nội tâm như thiền tuệ quán (Vipassana). Nhờ thiền Vipassana, không bao lâu các khám tù sẽ được gọi là “Trường Đại Học Giáo Dục Phạm Nhân” (University of Crime).

Suốt thời gian tổ chức các khóa thiền trong tù cần phải tận lực chu đáo để bảo vệ quy luật nhà tù và giới luật thiền quán một cách nghiêm túc. Bản “nội quy pháp chế” dành cho các khóa thiền Vipassana trong tù được ấn hành. Chính quyền nhà tù phải phân chia ranh giới độc lập cho ‘thiền đường’ trong khu vực tù giam và suốt thời gian khóa thiền tổ chức, phạm vi này được tách biệt hoàn toàn với phần còn lại trong tù. Ban Trị Sự ‘Thiền Vipassana’ tại địa phương có trách nhiệm phân bổ các vị thầy hướng dẫn, tài liệu giảng dạy và ban hộ thiền phục vụ. Về phần chính quyền nhà tù phải cung cấp nhu cầu cần thiết cho phạm nhân, vì đối với các khóa thiền bên ngoài nhà tù tuyệt đối không thu lệ phí giảng dạy cho một khóa thiền.

Vào ngày thứ mười của khóa thiền, đó là ngày thực hành “Từ Bi quán” (Metta day) mọi người được xả khẩu nói chuyện bình thường (vì suốt khóa thiền phải hoàn toàn tỉnh lặng hay tịnh khẩu), một chương trình đặc biệt thỉnh thoảng được tổ chức vào buổi chiều trong khuôn viên nhà tù. Các phạm nhân khác (người không tham gia khóa thiền), viên chức nhà tù, cán bộ công an địa phương và đài truyền thanh hội họp lại để nghe về kinh nghiệm của các phạm nhân vừa mới hoàn thành khóa thiền tuệ quán – Vipassana. Đây thường là kinh nghiệm xúc cảm và vô cùng cảm động!

Bà tổng thanh tra - K. Bedi đã nói: “Thiền thật sự đã chuyển hóa con người! Thiền giúp cho phạm nhân biết khóc và khóc chân thành. Họ đã nhận thức sự thật cuộc sống là gì? Họ đã trở về với nội tâm chính mình và từ trong đáy lòng sâu thẳm họ nhìn thấy rõ các thái độ hận thù, sân giận, bất kính và sự tổn thương mà họ đã gây ra đối với cha mẹ và xã hội; họ đã khóc và mong muốn sửa đổi.”

Vào ngày xả khẩu, một trong những yêu cầu đầy nhiệt tâm và chân thành nhất của các phạm nhân mới hoàn thành khóa thiền là mong muốn chính quyền nhà tù giúp họ có nơi tiếp tục thực hành thiền Vipassana hằng ngày. Sự thực hành chuyên cần mỗi ngày và tách rời các tội phạm ngoan cố khác là yếu tố cần thiết giúp các (thiền sinh) phạm nhân “phục hồi nhân phẩm.”

Hạt giống thiền tuệ quán mang lại sự biến đổi sâu rộng trong các nhà tù thế giới đã được gieo trồng. Những ai chung sống bên trong các bức tường sẽ là người trước tiên nhận thức tầm quan trọng sâu xa của thiền quán trong tù. Như trường hợp anh David là phạm nhân người Canada trong khám tù Tihar và trở thành một thiền sinh. Lược trích vài lời phát biểu của anh ta trong bộ phim ‘Thời Điểm - Thiền Tuệ Quán’ như sau: “Đây là trang sử ‘tân tạo,’ các bạn biết không … đây là cơ hội vô giá, vì thiền Vipassana đã và đang được ứng dụng trong hệ thống nhà tù để giáo dục cải tạo con người … sự kiện này có thể canh tân toàn bộ hệ thống ‘ Khám - Tù’ trên toàn hành tinh …”

Hiện nay, có trên 50 khóa thiền Vipassana được tổ chức hằng năm bên trong các nhà tù Ấn Độ. Mới đây, một khóa thiền đặc biệt được tổ chức cho các phạm nhân ‘cai nghiện Ma Túy’ trong nhà tù Tihar. Chính quyền nhà tù toàn quốc Ấn Độ yêu cầu tổ chức các khóa thiền tuệ quán càng gia tăng và những quốc gia trên thế giới cũng bắt đầu phát triển việc tổ chức hướng dẫn thiền Vipassana trong tù.

Cầu nguyện cho tất cả chúng sanh cùng được giải thoát!

TN. Hằng Liên

– Dịch từ: Raja. M, Vipassana in Prisons, (VRI Series No. 126), pp. 1-4.


---o0o---

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
27/10/2010(Xem: 9080)
Tu thiền là thực hiện theo nguồn gốc của đạo Phật. Vì xưa kia, Đức Phật tọa thiền suốt bốn mươi chín ngày đêm dưới cội bồ đề mới được giác ngộ thành Phật. Chúng ta là Tăng Ni, Phật tử học giáo lý của Phật thì phải đi theo con đường mà Phật đã đi, không đi con đường nào khác, dù đường ấy người thuyết giảng nói linh thiêng mầu nhiệm, chúng ta cũng không theo. Chúng ta cần phải giảng trạch pháp thiền nào không phải của Phật dạy và pháp thiền nào của Phật dạy, để có cái nhìn chính xác, để tu và đạt được kết quả tốt đúng với giáo lý mà mình đã tôn thờ.
19/10/2010(Xem: 3744)
Phép quán niệm hơi thở, nếu được phát triển và thực tập liên tục, sẽ đem lại những thành quả và lợi lạc lớn, có thể làm thành tựu bốn lĩnh vực quán niệm; bốn lĩnh vực quán niệm nếu được phát triển và thực tập liên tục, sẽ làm thành tựu bảy yếu tố giác ngộ; bảy yếu tố giác ngộ nếu được phát triển và thực tập liên tục sẽ đưa tới trí tuệ và giải thoát
18/10/2010(Xem: 5461)
Thiền là phương pháp tu hành chủ yếu của nhà Phật. Khi Đức Phật Thích Ca còn tại thế, các đệ tử của Ngài đều lấy việc hành thiền làm cơ bản. Các phương pháp hành thiền này đều nương theo các kinh, luật và luận đã thuyết; như thiền Quán niệm hơi thở, thiền Tứ niệm xứ, Thiền na Ba la mật v.v...Tu các pháp thiền này được chứng nhập tuần tự theo thứ bậc, tùy theo trình độ và thời gian hành trì của hành giả. Loại thiền này được gọi là Như Lai Thiền. Còn Tổ Sư Thiền thì ngược lại không có thứ bậc, là pháp trực tiếp chỉ thẳng vào bản thể chân tâm Phật tánh.
16/10/2010(Xem: 4644)
Sự chia rẽ giữa Tiểu Thừa và Đại Thừa trầm trọng ở mức độ nào? Sao bên nào cũng tự nhận là đi đúng đường và cao siêu hơn? Và tại sao Phật từng nói trong Kinh Pháp Hoa, Đại Thừa là hạt giống rắn chắc, khác với Tiểu Thừa là hàng thấp thỏi, trình độ kém, như vậy Phật đã xếp hạng giữa hai phái, vậy mà Tiểu Thừa vẫn tự nhận là Nguyên Thuỷ đúng lời Phật dạy
12/10/2010(Xem: 4224)
Niêm hoa vi tiếu: nói đầy đủ là: "Thế tôn niêm hoa, Ca Diếp vi tiếu." Nghĩa là: Đức Phật Thích Ca cầm cái hoa đưa lên, ông Ma Ha Ca Diếp mỉm cười.
12/10/2010(Xem: 6596)
Thiền sư Đạo Nguyên Hy Huyền (Dogen Kigen, 1200-1253) là khai tổ tông Tào Động Nhật Bản. Năm 1224 sư sang Trung Hoa học đạo với thiền sư Thiên Đồng Như Tịnh (1163-1228) là tổ tông Tào Động đời thứ 15. Sau khi được thầy ấn chứng, sư trở về Nhật Bản vào năm 1228.
12/10/2010(Xem: 7568)
Phật giáo Nguyên thủy (Theravada) đã miêu tả hai Chân lý: Chân lý Tuyệt đối (Paramatha Sathya) và Chân lý có tính Quy ước (Sammuti Sathya). Luận sư Long Thọ của Truyền thống Phật giáo Đại thừa (Mahayana) cũng đã đồng nhất hai Chân lý ấy, nhưng luận thuyết của Ngài khác với luận thuyết của Truyền thống Phật giáo Nguyên Thủy (Theravada).
12/10/2010(Xem: 6882)
Quyển sách này rất có giá trị đối với người tham thiền, nhưng rất tiếc vì có ý kiến của người biên soạn (Người biên soạn đây chỉ là người sưu tập để xuất bản) xen vào nên làm giảm giá trị quyển sách.
10/10/2010(Xem: 7120)
Quyển sách này trích dịch từ “Lai Quả Thiền Sư Ngữ Lục”. Ngài Lai Quả 24 tuổi xuất gia, 28 tuổi kiến tánh, tịch năm 1953 thọ 73 tuổi. Ngài trụ trì chùa Cao Mân hơn 30 năm, chuyên hoằng Tổ Sư Thiền, phàm có gì chướng ngại sự tham thiền, ngài đều bãi bỏ.
08/10/2010(Xem: 12354)
Phật nói : Lấy Tâm làm Tông, lấy không cửa làm cửa Pháp. Đã không cửa làm sao đi qua ? Há chẳng nghe nói : “Từ cửa vào không phải là đồ quý trong nhà. Do duyên mà được, trước thì thành, sau thì hoại.” Nói như thế giống như không gió mà dậy sóng, khoét thịt lành làm thành vết thương. Huống hồ, chấp vào câu nói để tìm giải thích như khua gậy đánh trăng, gãi chân ngứa ngoài da giầy, có ăn nhằm gì ? Mùa hạ năm Thiệu Định, Mậu Tý, tại chùa Long Tường huyện Đông Gia, Huệ Khai là Thủ Chúng nhân chư tăng thỉnh ích bèn lấy công án của người xưa làm viên ngói gõ cửa, tùy cơ chỉ dẫn người học. Thoạt tiên không xếp đặt trước sau, cộng được 48 tắc gọi chung là “Cửa không cửa”. Nếu là kẻ dõng mãnh, không kể nguy vong, một dao vào thẳng, Na Tra tám tay giữ không được. Tây Thiên bốn bẩy (4x7=28) vị, Đông Độ hai ba (2x3=6) vị chỉ đành ngóng gió xin tha mạng. Nếu còn chần chờ thì giống như nhìn người cưỡi ngựa sau song cửa, chớp mắt đã vượt qua.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567