Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Thiền Vipassana tuyên chiến với ma túy.

22/04/201319:42(Xem: 4731)
Thiền Vipassana tuyên chiến với ma túy.


lotus_55

THIỀN VIPASSANA

TUYÊN CHIẾN VỚI MA TÚY

TN Hằng Liên dịch

---o0o---

Lần đầu tiên nghe nói về Thiền Vipassana, phản ứng của tôi cũng giống đa số thanh niên trẻ tuổi khác, “Thiền định! Điều đó chỉ dành cho người già cả.” Nhưng không hiểu sao nó lại ẩn chứa mãi trong đầu óc của tôi. Với tánh hiếu kỳ ham hiểu biết, tôi tìm cách thu thập nhiều thông tin hơn và quyết định thực hành thử xem. Một vài người khuyên cản tôi, nhưng hạt giống thiền lại được gieo vào tâm tôi.

Tôi đến Trung Tâm Thiền “Dhamma Giri” tham dự một khóa thiền Vipassana và đã thực hành “trọn vẹn” mãn khóa. Tôi muốn nhấn mạnh từ “trọn vẹn” vì người bịnh nghiện sống một cuộc đời lãng phí như khối thịt vô dụng, không đem lại lợi ích cho người khác cũng như với chính mình. Chẳng hạn như, bây giờ tôi đã bắt đầu có nhiều suy tư hướng thiện nhưng do bịnh nghiện khiến tôi không hoàn thành ước nguyện nào cả. Sớm hay muộn tôi dễ bị chán nản, buông xuôi và bỏ cuộc những gì tôi muốn thực hiện, rồi gây ra biết bao điều căng thẳng cho mọi người xung quanh tôi. Vì thế, ý nghĩa “trọn vẹn” trong khóa thiền đầu tiên giống như một sự tái sanh mới, “niềm tự tin - chính mình” trong tâm tôi.

Trong suốt khóa thiền, tôi đã nhiều lần phản tỉnh, quán chiếu về quá khứ; nhưng quan trọng nhất là phải tỉnh giác trong phương pháp thiền quán. Tự tánh sẽ hiện khởi dễ dàng nếu tôi thực sự tỉnh giác hành thiền. (Dĩ nhiên điều này không đơn giản) mà phải nỗ lực hành trì miên mật. Thiền đã khai sáng nôi tâm tôi hiểu về những sự thật như tham ái, sân giận và tự ngã đều mang lại đau khổ (dukkha). Tôi cảm thấy pháp thiền này đặc biệt giảng dạy dành cho tôi, trong lúc tôi đang đau khổ với những thói quen tật xấu mà tôi chẳng hề nhận biết.

Vấn đề bị bịnh “xì ke ma túy” của tôi, nếu phân tích kỷ sẽ thấy kết quả từ nguyên nhân chính là tâm đam mê (khao khát), rồi sau đó dẫn đến thân xác ham muốn. Thật ra, tâm thèm muốn vẫn còn kéo dài sau khi đã trải qua thời gian cai nghiện Ma Túy. Hiện nay, thiền Vipassana đã đến tận nơi hướng dẫn người cai nghiện phương cách điều trị khi chứng bịnh lên cơn. Hơn nữa, các bài pháp thoại buổi tối thường trợ duyên làm sáng tỏ bất cứ nghi ngờ nào. Nói chung, sau khi mãn khóa thiền tôi thực sự cảm thấy giờ đây mình có “năng lực” gì đó, không những điều trị được cơn nghiện mà còn tạo nên cho mình nếp sống hằng ngày bao quanh trong bầu không khí thân mật hơn.

Trở về nhà một thời gian mọi thứ đều thật sự an lành. Tôi nhận thấy tự mình sống thảnh thơi hơn và đó là trạng thái tâm vô ngã. Nhưng tôi vẫn chưa thể bỏ hẳn bịnh nghiện của tôi. Bây giờ tôi không dùng (á phiện) hằng ngày, nhưng thỉnh thoảng lại phải dùng nó. Tâm đam mê vẫn chưa trừ dứt và đôi khi tôi không thể chống nổi cơn nghiện. Vào thời điểm đó, tôi biết mình còn yếu đuối và không giải quyết được điều gì cả (tức là bước thứ hai của ‘Chương Trình Cai Nghiện Ma Túy Cho Người Ẩn Danh – Narcotics Anonymous Programme’).

Tôi trở lại tham dự khóa thiền khác and xin đăng ký cư trú một thời gian dài trong phạm vi Trung Tâm Thiền “Dhamma Giri.” Sống nơi đây, tôi được tăng trưởng trong Chánh Pháp, tham dự các khóa thiền và nhận chân được thực tại sự sống. Hãy tin tôi, chánh pháp thật tuyệt diệu (nhưng đây cũng là điều tham muốn). Vì tôi bắt đầu am hiểu về chánh pháp nhiều hơn và biết áp dụng thiền trong mọi sinh hoạt đời sống hằng ngày. Nhưng mục tiêu “hoàn toàn” cai nghiện Ma Túy vẫn còn xa vợi. Suốt thời gian dài ở Trung Tâm Tu Thiền, thỉnh thoảng tôi muốn trờ về nhà nghĩ ngơi nhưng khi về đến nhà thì “chứng nào lại tật nấy.”

Bản chất ‘thương – ghét’ hay ‘tham ái’ chính là cố tật tiềm ẩn sâu bên trong nội tâm tạo nên bịnh nghiện ngập. Ngay khi giải thoát khỏi điều này, con người sẽ được hạnh phúc hơn. Từ kinh nghiệm cá nhân, tôi có thể nói rằng ranh giới giữa người nghiện và không nghiện khoảng cách chẳng bao xa giống như ‘đường tơ kẻ tóc,’ và giờ đây tôi hiểu rõ cốt tủy vấn đề ‘nghiện hay không’ hoàn toàn tùy thuộc chính nơi tôi. Hiện nay tôi sống an trú tại thành phố Bombay, tôi có nghề nghiệp và làm việc sáu ngày trong một tuần. Một cuộc sống mà trước đây tôi chưa hề nghĩ tới, nhưng tôi thật sự vui thích. Tôi sống trong ý niệm thoải mái, với một ý thức thành tựu và thoát khỏi ngõ cụt của cuộc đời nhờ trở về nội tâm và suy nghĩ chính chắn.

Tóm lại, tôi có thể nói rằng thiền Vipassana đã truyền dạy chúng ta một phương châm sống, “hãy tự chiến thắng chính mình.” Phương tiện hành trì duy nhất và thực hành điều gì là hai vũ khí thiền (Anapana) “Tỉnh giác hơi thở” và thiền (Vipassana) “tỉnh giác thân cảm thọ”. Phần còn lại tùy thuộc vào khả năng chiến đấu (nội tâm) của chính mình. Không được phép bào chữa (với bất cứ lý do nào), vì vũ khí luôn sẵn có bên trong tự thân mỗi người. Và nếu hành trì Chánh pháp với sự nhiệt tâm và tinh cần không ai có thể thất bại, vì thiền Vipassana thật sự chính là “Nghệ Thuật Sống.”

TN Hằng Liên dịch từ: Anonymous, Vipassana in the War against Drugs, (Narcotics Anonymous Programme), VRI.

---o0o---

Trình bày: Nhị Tường
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
27/10/2010(Xem: 9021)
Tu thiền là thực hiện theo nguồn gốc của đạo Phật. Vì xưa kia, Đức Phật tọa thiền suốt bốn mươi chín ngày đêm dưới cội bồ đề mới được giác ngộ thành Phật. Chúng ta là Tăng Ni, Phật tử học giáo lý của Phật thì phải đi theo con đường mà Phật đã đi, không đi con đường nào khác, dù đường ấy người thuyết giảng nói linh thiêng mầu nhiệm, chúng ta cũng không theo. Chúng ta cần phải giảng trạch pháp thiền nào không phải của Phật dạy và pháp thiền nào của Phật dạy, để có cái nhìn chính xác, để tu và đạt được kết quả tốt đúng với giáo lý mà mình đã tôn thờ.
19/10/2010(Xem: 3721)
Phép quán niệm hơi thở, nếu được phát triển và thực tập liên tục, sẽ đem lại những thành quả và lợi lạc lớn, có thể làm thành tựu bốn lĩnh vực quán niệm; bốn lĩnh vực quán niệm nếu được phát triển và thực tập liên tục, sẽ làm thành tựu bảy yếu tố giác ngộ; bảy yếu tố giác ngộ nếu được phát triển và thực tập liên tục sẽ đưa tới trí tuệ và giải thoát
18/10/2010(Xem: 5437)
Thiền là phương pháp tu hành chủ yếu của nhà Phật. Khi Đức Phật Thích Ca còn tại thế, các đệ tử của Ngài đều lấy việc hành thiền làm cơ bản. Các phương pháp hành thiền này đều nương theo các kinh, luật và luận đã thuyết; như thiền Quán niệm hơi thở, thiền Tứ niệm xứ, Thiền na Ba la mật v.v...Tu các pháp thiền này được chứng nhập tuần tự theo thứ bậc, tùy theo trình độ và thời gian hành trì của hành giả. Loại thiền này được gọi là Như Lai Thiền. Còn Tổ Sư Thiền thì ngược lại không có thứ bậc, là pháp trực tiếp chỉ thẳng vào bản thể chân tâm Phật tánh.
16/10/2010(Xem: 4618)
Sự chia rẽ giữa Tiểu Thừa và Đại Thừa trầm trọng ở mức độ nào? Sao bên nào cũng tự nhận là đi đúng đường và cao siêu hơn? Và tại sao Phật từng nói trong Kinh Pháp Hoa, Đại Thừa là hạt giống rắn chắc, khác với Tiểu Thừa là hàng thấp thỏi, trình độ kém, như vậy Phật đã xếp hạng giữa hai phái, vậy mà Tiểu Thừa vẫn tự nhận là Nguyên Thuỷ đúng lời Phật dạy
12/10/2010(Xem: 4197)
Niêm hoa vi tiếu: nói đầy đủ là: "Thế tôn niêm hoa, Ca Diếp vi tiếu." Nghĩa là: Đức Phật Thích Ca cầm cái hoa đưa lên, ông Ma Ha Ca Diếp mỉm cười.
12/10/2010(Xem: 6554)
Thiền sư Đạo Nguyên Hy Huyền (Dogen Kigen, 1200-1253) là khai tổ tông Tào Động Nhật Bản. Năm 1224 sư sang Trung Hoa học đạo với thiền sư Thiên Đồng Như Tịnh (1163-1228) là tổ tông Tào Động đời thứ 15. Sau khi được thầy ấn chứng, sư trở về Nhật Bản vào năm 1228.
12/10/2010(Xem: 7497)
Phật giáo Nguyên thủy (Theravada) đã miêu tả hai Chân lý: Chân lý Tuyệt đối (Paramatha Sathya) và Chân lý có tính Quy ước (Sammuti Sathya). Luận sư Long Thọ của Truyền thống Phật giáo Đại thừa (Mahayana) cũng đã đồng nhất hai Chân lý ấy, nhưng luận thuyết của Ngài khác với luận thuyết của Truyền thống Phật giáo Nguyên Thủy (Theravada).
12/10/2010(Xem: 6859)
Quyển sách này rất có giá trị đối với người tham thiền, nhưng rất tiếc vì có ý kiến của người biên soạn (Người biên soạn đây chỉ là người sưu tập để xuất bản) xen vào nên làm giảm giá trị quyển sách.
10/10/2010(Xem: 7087)
Quyển sách này trích dịch từ “Lai Quả Thiền Sư Ngữ Lục”. Ngài Lai Quả 24 tuổi xuất gia, 28 tuổi kiến tánh, tịch năm 1953 thọ 73 tuổi. Ngài trụ trì chùa Cao Mân hơn 30 năm, chuyên hoằng Tổ Sư Thiền, phàm có gì chướng ngại sự tham thiền, ngài đều bãi bỏ.
08/10/2010(Xem: 12211)
Phật nói : Lấy Tâm làm Tông, lấy không cửa làm cửa Pháp. Đã không cửa làm sao đi qua ? Há chẳng nghe nói : “Từ cửa vào không phải là đồ quý trong nhà. Do duyên mà được, trước thì thành, sau thì hoại.” Nói như thế giống như không gió mà dậy sóng, khoét thịt lành làm thành vết thương. Huống hồ, chấp vào câu nói để tìm giải thích như khua gậy đánh trăng, gãi chân ngứa ngoài da giầy, có ăn nhằm gì ? Mùa hạ năm Thiệu Định, Mậu Tý, tại chùa Long Tường huyện Đông Gia, Huệ Khai là Thủ Chúng nhân chư tăng thỉnh ích bèn lấy công án của người xưa làm viên ngói gõ cửa, tùy cơ chỉ dẫn người học. Thoạt tiên không xếp đặt trước sau, cộng được 48 tắc gọi chung là “Cửa không cửa”. Nếu là kẻ dõng mãnh, không kể nguy vong, một dao vào thẳng, Na Tra tám tay giữ không được. Tây Thiên bốn bẩy (4x7=28) vị, Đông Độ hai ba (2x3=6) vị chỉ đành ngóng gió xin tha mạng. Nếu còn chần chờ thì giống như nhìn người cưỡi ngựa sau song cửa, chớp mắt đã vượt qua.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567