Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Nhân Hạnh Vãng Sanh (sách pdf)

18/04/202306:38(Xem: 5299)
Nhân Hạnh Vãng Sanh (sách pdf)

Phat Di Da

nhan hanh vang sanh
Lời Giới Thiệu

Sách “Nhân Hạnh Vãng Sanh”
của Trí Khiêm

Bài viết: HT Thích Như Điển
Do Phật tử Diệu Danh diễn đọc





Kể từ ngày 22 tháng 2 năm 1972 khi tôi xa quê Mẹ Việt Nam đến hôm nay ngày 14 tháng 4 năm 2023 là 51 năm và gần hai
tháng như thế. Một thời gian khá lâu hơn nửa thế kỷ và hơn nửa đời người có mặt tại Nhật Bản và Đức Quốc cũng như các quốc
gia khác tại Âu, Á, Mỹ, Úc, Phi châu. Tôi đã bay qua 5 đại lục như vậy không biết bao nhiêu lần, chắc cũng trên mấy triệu cây
số đường bay của 79 nước trên thế giới nầy. Có nghĩa là một phần ba thế giới mà tôi đã đến, đã đi và đã lưu trú tại đó trong ít
hay nhiều ngày tháng trong 75 năm (sinh 1949) của trần thế và năm thứ 60 (1964) kể từ khi xuất gia học đạo và hành đạo cho
đến bây giờ. Nếu bảo rằng một tam thiên đại thiên thế giới của Phật Giáo thường hay nói trong kinh điển là một tỷ thế giới lớn
nhỏ khác nhau, thì tôi đã có duyên với một phần rất nhỏ trong một tỷ thế giới ấy ở cõi Kham Nhẫn nầy. Không biết như vậy đã
đủ thời gian để nhận định một vài sự việc trên cõi đời nầy chăng? Người Việt Nam chúng ta ra đi trước hay sau năm 1975 đến các
quốc gia Á, Âu, Mỹ, Úc, Phi Châu đều có nhiều lý do khác nhau như: du học, ngoại giao, tỵ nạn chính trị, kết hôn, đoàn tụ gia
đình, con nuôi, nhân đạo v.v… tất cả và trên hết chúng ta đều có xuất phát từ quê Mẹ Việt Nam và suốt trong một thời gian dài
của lịch sử mấy ngàn năm đó đã có rất nhiều chuyến hành trình mang lại vẻ vang cho nòi giống Việt. Họ là những kinh tế gia,
chính trị gia, thể thao gia, tôn giáo gia, bình luận gia, khoa học gia v.v… tất cả chừng ấy phạm trù đã nối kết thành một con
người Việt Nam vĩ đại ở Hải Ngoại dưới cái nhìn của người ngoại quốc, trong đó có tôi là một nhân chứng.

Về những phạm trù như kinh tế, giáo dục, khoa học, thể thao, chính trị v.v… hôm nay tôi không đề cập đến, mà chỉ muốn giới
thiệu về lãnh vực Tôn Giáo; trong đó Phật Giáo đóng một vai trò quan trọng trong đời sống tâm linh của những người Phật Tử
đang sống xa quê hương xứ sở và họ đã, đang cũng như sẽ hành trì các pháp môn như: Thiền, Niệm Phật, trì chú, bố thí, xây
dựng, nghệ thuật v.v… trong đó có Đạo Hữu Trí Khiêm; người đang dạy học tại Anh Quốc trong 17 năm nay đã âm thầm soạn
ra quyển sách Nhân Hạnh Vãng Sanh nầy là một thí dụ điển hình.

Khi nghiên cứu về Phật Pháp, ai trong chúng ta cũng đều chấp nhận rằng: các bộ Trường A Hàm, Trung A Hàm, Tạp A Hàm,
Tăng Nhất A Hàm và bộ Bản Duyên (Bản Sanh) của Đại Thừa Phật Giáo tương ưng với những bộ Trường Bộ Kinh, Trung Bộ
Kinh, Tương Ưng Bộ Kinh, Tăng Chi Bộ Kinh và Tiểu Bộ Kinh của Phật Giáo Nam Truyền. Khi nghiên cứu về các Đại Tạng
chúng ta thấy đa phần các học giả Phật Giáo ngày nay đều lấy bộ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh (Taisho Shinshu
Daizokyo) làm bản gốc và 4 bộ A Hàm cùng bộ Bản Duyên in thành 4 tập, cho đến kinh văn thứ 219 là chấm dứt. Linh Sơn
Pháp Bảo Đại Tạng Kinh do Hòa Thượng Thích Tịnh Hạnh chủ trương cho dịch ra toàn bộ A Hàm nầy thành 17 quyển và kinh
văn cuối của A Hàm cũng thuộc kinh văn thứ 219.

Có nhiều học giả muốn chứng minh cho biết rằng: Trong 4 tập A Hàm và Bản Sanh đó, có khi nào Đức Phật Thích Ca Mâu Ni
cho Đại Chúng biết về Đức Phật A Di Đà không? Thì đây là câu trả lời. Quý Vị hãy lật quyển Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
tập thứ 10, bộ Bản Duyên thứ nhất, kinh văn số 154 - Phật nói Kinh Sinh, quyển thứ 5, phần kinh thứ 55: Đức Phật thuyết giảng
về Kinh Thí Dụ từ trang 471 đến trang 474, chúng ta sẽ thấy sự liên hệ giữa Đức Phật Thích Ca Mâu Ni và Đức Phật A Di Đà.
Cũng trong tập thứ 10 nầy, kinh văn số 157, thuộc Kinh Bi Hoa quyển thứ 3 trang 794 Đức Phật Thích Ca Mâu Ni có giới thiệu
về cõi An Lạc và Đức Phật Vô Lượng Thọ (Bản chữ Hán thuộc quyển thứ 3, Bổn Duyên bộ thượng, thứ tự kinh văn số 154, Phật
nói Kinh Sinh gồm 5 quyển và thuộc về kinh thứ 55).

Kế tiếp quyển thứ 16 của Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh thuộc Bản Duyên bộ thứ 7, kinh văn số 206, thuộc Kinh Cựu
Tạp Thí Dụ, quyển hạ phần kinh thứ 60 trang 388 & 389 có so sánh về cảnh giới Cực Lạc của Đức Phật A Di Đà.
Nếu chúng ta rõ biết rằng ba kinh: A Di Đà, Vô Lượng Thọ và Quán Vô Lượng Thọ là ba bộ kinh căn bản của Tịnh Độ Tông
do chính kim khẩu của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni giảng thuyết và truyền đến Ngài Long Thọ ở thế kỷ thứ nhất, thứ hai và Ngài
Thế Thân (316-396) là hai vị Đệ Nhất và Đệ Nhị Tổ Sư Tịnh Độ Tông người Ấn Độ, rồi truyền qua Trung Hoa cho Ngài Đàm
Loan, Đạo Xước, Thiện Đạo. Đến Nhật Bản thì có Ngài Nguyên Tín, Nguyên Không (Pháp Nhiên) và Ngài Thân Loan. Tất cả
những vị Tổ nầy đều lấy 3 kinh căn bản trên để lập Tông, lập Giáo và lập Hạnh.

Riêng Việt Nam chúng ta thì Ngài Đàm Hoằng (?-455) người có thể là đầu tiên tu theo Kinh Vô Lượng Thọ và Kinh Quán Vô
Lượng Thọ ở chùa Tiên Sơn trên núi Tiên Du, Giao Chỉ. Cho đến thế kỷ thứ 19, 20 có Hòa Thượng Thiền Tâm, Hòa Thượng
Trí Tịnh, Hòa Thượng Tâm Thanh v.v…

Nay có Đạo Hữu Trí Khiêm ở Anh Quốc đã dày công tra cứu, phiên dịch, chú nghĩa những bản kinh Tịnh Độ căn bản như lâu
nay chúng ta vẫn thường hay hành trì; nhưng có điều Đạo Hữu cũng rất khiêm nhường cho rằng: Đây là lời lý giải thọ trì danh
hiệu Phật A Di Đà cho người Cư Sĩ tại gia trong thời mạt pháp.

Nói và viết là như vậy; nhưng khi xem toàn bộ 248 trang của bảy phần như: 1) Duyên khởi; 2) Lý giải thọ trì danh hiệu Phật; 3)
Tóm lược yếu chỉ hành trì; 4) Kinh xưng tán Tịnh Độ Phật nhiếp thọ; 5) 48 lời nguyện của Đức Phật A Di Đà; 6) Đối chiếu bản
dịch Hán Việt, và phần 7 là Phát nguyện hồi hướng. Sau khi xếp sách lại tôi nghĩ rằng bản văn nầy có lợi lạc cho tất cả giới xuất
gia nữa; chứ không phải chỉ cho người tại gia.

Theo lịch sử truyền thừa kinh điển thì những kinh nào được dịch từ trước năm 645 (khi Ngài Huyền Trang sau 16 năm du hành
và tu học tại Ấn Độ, gồm: 2 năm đi, 2 năm về và 12 năm tu học tại đó) gọi là cựu dịch, và kể từ năm 645 trở về sau, những kinh
sách nào dịch từ Phạn ngữ sang Hán ngữ được gọi là tân dịch.

Ví dụ trước năm 645 dịch là A Tố Lạc; nhưng sau năm 645 dịch là A Tu La; Thệ Đa có nghĩa là Kỳ Đà; Thất La Phiệt là Thành
Xá Vệ; Bí Sô Tăng (Ni) là Tỳ Kheo Tăng (Ni); mạng mạng là cộng mạng v.v… do vậy khi đi vào lối giải thích của Tác Giả,
bản văn nầy qua phần “Lý Giải Thọ Trì Danh Hiệu Phật” chúng ta sẽ thấy Tác Giả dùng loại phiên dịch xưa; nhưng cũng đã có
chú âm ngày nay. Do vậy độc giả dễ nắm bắt phần phiên âm nầy.

Tác Giả cũng đã giải thích từng đoạn kinh văn theo sở tu, sở học của mình, và để cho mọi người dễ hiểu Tác Giả còn tóm lược
qua đồ hình nhằm giúp người đọc có một khái niệm dễ dàng và cũng rất dễ nhớ là mình đã đọc qua đoạn kinh nào rồi. Điều đặc
biệt mà lâu nay chúng ta chỉ nghe là Tín, Nguyện, Hạnh; nhưng nay thì Tác Giả thêm vào phần Tri nữa; nên trở thành 4 điều kiện
căn bản để được vãng sanh; chứ không phải là 3 như lâu nay chúng ta thường hay nghe, biết đến. Ngoài ra 5 chữ Nhất mà Tác
Giả đã dùng đó đây trong quyển sách nầy cũng rất đặc biệt. Đó là: Nhất hạnh, Nhất danh, Nhất tâm, Nhất hướng, Nhất niệm
cũng là một tư tưởng hay và cần thiết cho những ai đã một lòng muốn cầu sanh về Tây Phương Cực Lạc của Đức Phật A Di Đà.
Đến hết trang 171 là hết phần giải thích về Kinh A Di Đà và từ trang 175 đến trang 183 là phần tóm lược yếu chỉ hành trì qua
Kinh niệm Phật Ba La Mật. Từ trang 187 đến trang 200 là Kinh xưng tán Tịnh Độ Phật nhiếp thọ (phần nầy giống như Kinh tiểu
bổn A Di Đà). Từ trang 203 đến trang 210 là 48 lời nguyện của Đức Phật A Di Đà. Phần thứ 6 tương đối đặc biệt là phần đối
chiếu Hán Việt của Kinh xưng tán Tịnh Độ Phật nhiếp thọ, và cuối cùng phần 7 từ trang 242 đến trang 243 và 245 là Phát
nguyện hồi hướng, Quy mạng lễ và Tịnh Tín.

Đây là một công trình nghiên cứu tuyệt vời, chi tiết, rõ ràng, làm mới thêm và làm cho rõ ràng hơn đối với những người muốn
thực hành Pháp Môn Tịnh Độ trong thời gian đầu của 10.000 năm mạt pháp mà người Cư Sĩ cũng như Tu Sĩ Phật Giáo chúng
ta nên hành trì. Mặc dầu Tác Giả cũng cho biết rằng hay thực tập Thiền Minh Sát Tuệ (Vipassana); nhưng Pháp Môn Niệm Phật
đối với Tác Giả là việc thọ trì rất tâm đắc, mong cầu giải thoát sanh tử của mình và cầu được vãng sanh về thế giới Tây Phương
Cực Lạc của Đức Từ Phụ A Di Đà.

Hôm nay sắc trời mùa Xuân của Âu Châu thanh bình, an lạc với hoa nở chim hót quanh vườn chùa, tôi xin trang trọng giới thiệu
Tác Phẩm nầy đến với quý độc giả khắp nơi để nếu được thì xem qua và thực hành thì sẽ được muôn điều lợi lạc, khi câu Phật hiệu
Nam Mô A Di Đà luôn ở bên cạnh chúng ta ngày đêm, kể cả khi đi, đứng, nằm, ngồi.

Viết xong vào lúc 12 giờ trưa ngày 14 tháng 4 năm 2023 tại Phương Trượng Đường của Tổ Đình Viên Giác Hannover, Đức
Quốc.

Thích Như Điển


pdf icon-2
Nhân Hạnh Vãng Sanh (Bản hoàn chỉnh) 2023






Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
25/07/2013(Xem: 6681)
Cứu cánh trí tuệ Phật Giáo là chứng đắc Tánh Không của vạn pháp. Trong kinh điển, Tánh Không là pháp giới Tánh, cũng chính là Phật Tánh. Phật tánh không ngằn mé, không hạn lượng, không đối đãi giữa sanh và tử, giữa có và không... Phật tánh kết tập hưng khởi từ sức trí tuệ vô lượng và tâm đại bi vô biên. Đức Phật thường dạy, Bồ Tát đạo nương Phật tánh làm con đường, nương trí huệ Bát Nhã làm thuyền độ sanh. Nhờ nương sức từ bi của chư Phật, Bồ Tát quán sát thế gian như hư huyễn, không thật có sinh diệt, như hoa đốm giữa hư không. Bồ Tát tinh tấn phổ độ chúng sanh không mệt mỏi, không nhàm lìa, nhưng không thấy mình vĩ đại, không thấy chúng sanh đáng tội nghiệp, không thấy mình cao cả, đáng làm chỗ cho chúng sanh cúng dường… Vì dù có chấp, có thấy đến thế nào chăng nữa, thì điểm cuối cùng trên đạo lộ giải thoát vẫn phải là “tâm, Phật, chúng sanh - ba thứ ấy đều không sai biệt”.
02/07/2013(Xem: 5378)
Như một kết quả của việc thực hiện lời dạy của Đạo sư và phụng sự ngài, mọi ước muốn nhất thời và tối thượng của ta được đáp ứng nhanh chóng. Việc hiến mình một cách đúng đắn cho Đạo sư củng cố cội gốc của mọi hạnh phúc trong tương lai, kể cả sự giác ngộ. Mọi sự - những công việc đối với bản thân và chúng sinh – đều thành công và chúng ta nhanh chóng đạt được giác ngộ.
22/06/2013(Xem: 8476)
Thế Thân, tác giả của bộ luận này vốn là một khai sĩ có quá nhiều truyền thuyết và ít nhiều sương khói trùm lên tiểu sử của ngài, đến nỗi cho đến nay, các học giả cũng chưa xác định được Thế Thân là ai.
13/05/2013(Xem: 5307)
Mỗi con người mỗi ý thức, mỗi ý thức mỗi một hành động, mỗi một hành động tạo nên hạnh phúc hay khổ đau. Hành tinh xanh thế giới này trong quỹ đạo thái dương hệ thuộc giải ngân hàn Milkyway hiện có hơn sáu tỉ người, . . .
28/04/2013(Xem: 32061)
Từ lâu không biết bao nhiêu người, ở ngoài đời cũng như trong đạo, rất bỡ ngỡ về vấn đề tu hành. Như một kẻ bộ hành ngơ ngác, lạc lõng giữa ngả ba đường, họ băn khoăn tự hỏi: Tu làm sao đây? Tu phương pháp gì? Và phải hạ thủ công phu làm sao mới đúng?
23/04/2013(Xem: 27637)
H.T.Thích Mãn Giác, sanh năm Kỷ Tỵ tại Cố Đố Huế. Nguyên quán Làng Phương Lang, Quận Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị. Xuất gia nhập đạo năm 11 tuổi. Thọ Đại Giới năm 1948 cùng một lần với Hòa Thượng Thiện Siêu, cố Hòa Thượng Thiện Minh, cố Hòa Thượng Thiên Ân…
23/04/2013(Xem: 18774)
Phần nhiều người ta hay lo lắng những việc về quá khứ và tương lai, chính đó là nguyên nhân gây ra cho họ đời sống vô cùng đau khổ và rối loạn tâm tư. Những việc gì ở quá khứ thì nó đã qua rồi; còn những gì ở tương lai thì nó chưa đến. Như vậy, tại sao họ phải quá lo lắng những gì liên quan đến quá khứ và tương lai? Thế thì, những gì có thể tồn tại ở đời này, họ cần phải quan tâm đến và sống với nó.
22/04/2013(Xem: 6380)
Cội gốc sanh tử tức là các thứ vọng tưởng hàng ngày của chúng ta, các thứ nghiệp phiền não thương ghét, tham lam, giận hờn của chúng ta, nếu còn một mảy may không dứt thì tức là còn gốc rễ sanh tử. Nay muốn tham thiền đốn ngộ liễu thoát sanh tử, hãy tự suy nghĩ xem có thể một niệm dứt ngay phiền não của nhiều kiếp như chặt đứt một cuộn chỉ hay chăng?
22/04/2013(Xem: 7480)
Trong đời sống, mỗi người chúng ta đều bị bao vây bởi những sự vật, tức là những hiện tượng ở chung quanh ta. Những sự vật ấy muôn hình vạn trạng, tỉ dụ như cây cỏ, núi sông, thân hình chúng sinh, bàn ghế, miếng thịt, ly rượu v.v.... tất cả tạo nên vũ trụ này. Con người thường đi lạc vào trong đó, tương tự như một thứ mê-đồ-ảo-phố và không biết đường nào ra khỏi.
22/04/2013(Xem: 10778)
Nói chung, ta được biết là có nhiều cõi Tịnh Độ, nhiều cõi linh thánh của những Đấng Giác ngộ mà chúng ta gọi là chư Phật. Cõi Tịnh Độ của Đức Phật Vô Lượng Quang A Di Đà thì đúng là một nơi độc nhất vô nhị. Có những cõi Tịnh Độ ở bốn phương Đông, Tây, Nam, Bắc, và ở trung tâm. Trong số đó, cõi Tịnh Độ của Đức Phật A Di Đà là nơi dễ đến nhất và vì thế rất đặc biệt.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]