Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Chương 09: Ba cương lĩnh của hành môn

14/12/201206:20(Xem: 5815)
Chương 09: Ba cương lĩnh của hành môn

CỬA VÀO TỊNH TÔNG

Pháp sư Tịnh Không giảng
Cư sĩ Ngô Chân Độ ghi lại
Việt dịch: Thích nữ Viên Thắng - Hiệu đính: Định Huệ

Chương 9
Ba cương lĩnh của hành môn


Trongkinh Vô Lượng Thọ, Đức Phật dạy cho chúng ta ba cương lĩnh của hành môn:

1. Khéo giữ khẩu nghiệp, không chê lỗi của người khác.

Điều này bao hàm ý nghĩa vô cùng sâu sắc. Về ba nghiệp thân, khẩu, ý, trong kinh Vô Lượng Thọ,Đức Phật đặt khẩu nghiệp lên hàng đầu. Vì sao? Vì tất cả chúng sinh rấtdễ tạo tội từ khẩu nghiệp; cho nên, chúng ta phải hiểu rõ về khẩu nghiệp. Phần trên tôi đã kể câu chuyện cho các vị nghe rồi, vị pháp sư đến sau bịa đặt gây chuyện, phá hoại hai vị pháp sư giảng kinh, ly gián hai vị này với thính chúng nên ông ta bị đọa địa ngục A-tỳ một nghìn támtrăm vạn năm mới thoát khỏi địa ngục được làm người thì bị mù bẩm sinh suốt năm trăm đời, vẫn còn không biết bao nhiêu đời phải chịu cảnh bần cùng, thấp kém; sau đó mới được thân người bình thường. Qua câu chuyện này, chúng ta mới biết tạo khẩu nghiệp thật đáng sợ.

2. Khéo giữ thân nghiệp, không phạm luật nghi.

3. Khéo giữ ý nghiệp, thanh tịnh không nhiễm.

Ba câu nói này là cương lĩnh chung của hành môn, chúng ta phải nhớ kỹtrong tâm. Tất cả kinh, luận đều nói rất kỹ ba điều cương lĩnh này, dạychúng ta trong cuộc sống thường ngày, trong công việc, trong giao tiếp phải làm thế nào để thực hành ba cương lĩnh này.

Trào lưu tư tưởng của con người hiện đại là đi tìm cái mới, tìm sự thay đổi, mong cầu nhanh chóng; đây là trào lưu của thời hiện đại. Tư tưởng này trong Phật pháp có hay không? Trong Phật pháp Đại thừa có, nhưng thích hợp thì không dễ dàng. Nếu như bồ-tát Sơ học cũng có quan niệm này, muốn tìm cái mới, muốn tìm sự thay đổi, muốn cầu cho nhanh chóng thì rất dễ đi trên con đường sai lầm mà tự mình không biết. Như thế thì người nào mới có thể làm được? Trong kinh Đức Phật nói bồ-tát Huệ hạnh, pháp thân Đại sĩ làm được, vì tâm của các ngài thanh tịnh, trítuệ sáng suốt.

Tâm chúng ta không thanh tịnh, trí tuệ mờ mịt, sống trong phiền não mà theo quan niệm tìm cái mới, tìm sự thay đổi, cầu cho nhanh chóng thì chắn chắn là có hại. Vì thế, Bồ-tát Sơ học tốt nhất là đi theo con đườngcác của vị đại đức xưa kia đã đi. Chúng ta phải biết rõ, Phật giáo truyền đến Trung Quốc hai nghìn năm. Hai nghìn năm về trước đã lưu hành ởẤn Độ một nghìn năm. Trong ba nghìn năm, bất cứ người nào đi theo đườngcũ, thực sự vâng theo lời Phật dạy, không ai mà không thành tựu. Những người chạy theo những điều mới lạ, chúng ta thấy chẳng có người nào thành công. Điều này thật đáng để chúng ta nghĩ kỹ mà phản tỉnh.

Phật pháp và thế gian pháp không giống nhau, lý luận và phương pháp cũng khác nhau. Rốt cuộc, đời này chúng ta có muốn ra khỏi sinh tử luân hồi không? Đây là điểm then chốt của sự tu hành, nếu thật sự muốn thoát sinh tử, ra khỏi sáu đường luân hồi, chúng ta phải xem trọng lời Phật dạy. Muốn cầu giải thoát, muốn thực hành thì phải tinh tấn thực sự làm cho bằng được lời Phật dạy thì đời này chúng ta mới có hi vọng thành tựu.

Điều nào Đức Phật dạy chúng ta làm thì phải làm nghiêm túc; điều nào Phật cấm chúng ta không nên làm thì tuyệt đối không nên làm; đó mới là đệ tử của Phật, là đệ tử ngoan của Ngài. Nếu chúng ta mang danh là đệ tửPhật mà không làm theo lời Phật dạy thì chỉ là hữu danh vô thực.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
18/08/2019(Xem: 6102)
Bài kết tập này sử dụng phương pháp so sánh đối chiếu trực tiếp từ những bài kinh thuộc Nikàya (Pali tạng), và Hán tạng ngõ hầu giúp quý đạo hữu nhận biết tính tương đồng, nhất quán của hai hệ thống giáo điển trong việc ứng dụng lời Phât dạy trong đời sống thực tế hàng ngày, qua đó hành giả có thể đoạn ác tu thiện, tự lợi, lợi tha, lợi cho quần nhân, xã hội, lợi cho Tam Bảo; và sau khi mãn phần đối với hành giả Tịnh Độ, sẽ được thoát sanh về miền Cực Lạc.
05/08/2019(Xem: 5908)
Hành giả tùy niệm Như Lai khi tâm không bị tham chi phối, tâm không bị sân chi phối, tâm không bị si chi phối, được nghĩa tín thọ, pháp thọ, tâm hân hoan đến pháp do dựa vào Như Lai. Đây là cách niệm Phật mà Đức Thích Tôn đã chỉ dạy cho cư sỹ Mahànàma trong chương Sáu Pháp, Tăng Chi Bộ (Pali). Khi tâm không bị tham sân si chi phối do dựa vào Đức Phật, tức là hành giả xả bỏ tâm tự ngã (không tham, không sân, không si) khi Niệm Phật, Niệm ân đức Như Lai.
01/07/2019(Xem: 5212)
"Niệm Phật" nghĩa là xưng danh hiệu - hay nhớ tưởng đến hình tướng, bản nguyện hay công đức của một đức Phật - như Phật Thích-ca hay Phật A-di-đà. Nói chung, có ba cách niệm Phật sau đây:
14/04/2019(Xem: 9595)
Theo âm Hán Viêt, A Di Đà Phật có nghĩa là Vô Lượng Thọ Phật, Vô Lượng Quang Phật, Tây Phương Phật. Trong kinh A Di Đà, Đức Phật Thích Ca giảng là Phật A Di Đà, Giáo Chủ cõi Cực Lạc (Soukhavati (Scr.), ở phương Tây, cách cõi Ta Bà của chúng ta mười vạn ức cõi Phật. Đó là một cõi đầy đủ các công đức trang nghiêm. Lầu các, cây cối, đất đai toàn là châu báu. Nào là các loài chim bạch hạt, khổng tước, anh võ, xá lợi, ca lăng tầng già v.v… ngày đêm sáu thời ca hát ra những lời pháp: năm căn, năm lực, bảy món bồ đề, bát chánh đạo… Đức Phật A Di Đà tự thân có ánh sáng vô lượng, chiếu khắp cả mười phương mà không có vật gì có thể ngăn che. Vì vậy nên Phật A Di Đà có nghĩa là Vô Lượng Quang Phật. Ngài có đời sống dài vô hạn lượng nên còn có nghĩa là Vô Lượng Thọ Phật.
22/02/2019(Xem: 5954)
Một bài pháp được ban cho chư Tăng Ni ở International Mahayana Institute tại Boudhanath, Nepal, ngày 2 tháng 2, năm 1975. Nicholas Ribush hiệu đính. Xin xem bản Phụ Lục 1 Illuminating the Path to Enlightenment của Đức Đạt Lai Lạt Ma, hay www.lam-rim.org, để có bản dịch chánh văn. Lama Zopa Rinpoche dịch Tạng ngữ sang Anh ngữ. Bài pháp này đã được ấn tống năm 2005, trong tác phẩm Teachings from Tibet của nhà xuất bản LYWA. Quý vị có thể đọc thêm những bài pháp của Khunu Lama Rinpoche và các Lạt Ma Tây Tạng cao quý khác ở TeachingsFromTibet.com.
17/12/2018(Xem: 5596)
Ngày đăng tải: tháng 10, năm 2005 Rinpoche đã cho lời khuyên sau đây về ngũ lực để thực hành vào phút lâm chung. [Chú thích: Lời khuyên này đang hiện hành trong một quyển sách nhỏ ở FPMT Shop.] Có năm lực phải được thực hành khi gần kề cái chết. Chúng rất quan trọng. Hiện nay, đó là điều chúng ta cần phải tu tập. Phải nhớ chúng là những điều gì, ít nhất là tên gọi và ý nghĩa của chúng, rồi ta sẽ có khả năng để đưa chúng vào thực hành.
22/10/2018(Xem: 5470)
Nếu chúng ta bỏ chút thì giờ để tìm hiểu “Sở tri chướng” (所知障) là gì? thì trên mạng Internet cho chúng ta kiến giải hoặc của các bậc thầy đáng kính: Hòa thượng, Thiền sư … hay của các chùa, các trung tâm Phật học, trung tâm hoằng pháp. Chẳng hạn như: 1. Sở Tri Chướng [1] 2. Thế nào là sở tri chướng và phiền não chướng? [2]] 3. Sở tri chướng và phiền não chướng [3]
11/10/2018(Xem: 4912)
Mỗi sáng Sư thức dậy thật sớm, đánh chuông báo thức mọi người vào lúc bốn giờ sáng. Trong không gian tĩnh mịch của vùng núi, tiếng chuông nhỏ nhưng ngân dài, vang thật sâu trên dãy hành lang im lặng. Bên ngoài cửa sổ trời vẫn còn mịt tối. Tôi bước ra ngoài phòng, đi về phía thiền đường.
13/09/2018(Xem: 10018)
Đột nhiên tôi nhớ lại câu nói của một người đã nói với tôi: “Khi chưa tu học, núi là núi, sông là sông; tu học đến một giai đoạn nào đó, núi chẳng là núi, sông chẳng còn là sông; đến khi giác ngộ, núi lại là núi, sông lại là sông!”. Không biết mình đã đến giai đoạn nào nhưng hôm nay, trong tôi chợt vang lên vài câu hát “…Một hôm ngựa bỗng thấy thanh bình, thảm cỏ tình yêu dưới chân mình…”. Rồi tôi nhớ tới ông ngoại, một người mà tôi gắn bó rất thân thiết từ ngày thơ ấu.
03/09/2018(Xem: 4670)
Dòng sanh tử giống như một dòng nước lũ quá mạnh. Người nào không gan dạ không vững bền thì sẽ bị nó cuốn phăng đi. Vì vậy mỗi người phải gan dạ, vững vàng để vượt lên, đừng để cuốn đi.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]