Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

08. Niệm Phật sanh Tây đạt tam bất thối

13/04/201203:21(Xem: 8208)
08. Niệm Phật sanh Tây đạt tam bất thối

NIỆM PHẬT THÀNH PHẬT

Thượng Tọa Thích Phước Nhơn

 

Niệm Phật sanh Tây đạt tam bất thối

Chúng sanh đang sống trong thế giới Ta Bà mang thân duyên hợp giả tạm của ngũ uẩn, luyến ái thân thể, chấp có chấp không, sanh ra phiền não tà kiến nên lưu chuyển sanh tử trong sáu nẻo luân hồi. Chúng ta muốn đoạn trừ sanh tử trong sáu đường thì phải quán chiếu ngũ uẩn không, nhìn thấy thân này do duyên hợp giả tạm mà có, đoạn trừ được phiền não tà kiến, liễu sanh thoát từ chứng được quả A La Hán, không còn sanh trở lại trong cõi nhân gian nên gọi là “vị bất thối”. Hoặc thấp hơn là sơ quả nhập lưu Tư Đà Hoàn; quả vị này còn sanh trở lại trong nhân gian bảy lần nhưng không bị đọa lạc trong ba ác đạo; ở đây nếu gia công tu tập thì quả vị A La Hán biết chắc sẽ gần kề, và, không nhất thiết phải chờ đến bảy đời, mà có khi một, hai, ba, năm đời cũng không chừng tùy theo sự gia công tu tập nhiều ít.

Không giống như phàm nhân chúng ta một khi phiền não nổi lên thì liền tọa nghiệp để rồi phải đọa trong vòng ác đạo, và lưu chuyển trong luân hồi sanh tử.

Sau khi chứng các Thánh quả phải phát Bồ Đề tâm thực hành Bồ Tát hạnh không rơi vào định kiến Thanh Văn, phá trừ trần sa phiền não vô mình đạt được: “hạnh bất thối”. Đạt được hạnh bất thối là do nơi phát Bồ Đề tâm hoằng hóa lợi lạc chúng sanh, trên thì cầu quả vị Phật thừa, dưới đem giáo pháp giải thoát hướng dẫn chúng sanh phát tâm quay về Phật đạo; mỗi niệm mỗi niệm an trú trong đại định, phát đại bi tâm đối với mười phương pháp giới chúng sanh, lấy thân chúng sanh làm thân mình, lấy pháp giới tánh làm nhà, diệt trừ từng phần vi tế vô minh phiền não chứng từng phần pháp thân gọi là được “niệm bất thối”. Điều này, thật sự rất khó khăn cho chúng sanhh ở thời mạt pháp, phước mỏng, tội dày, phiền não chồng chất, ác duyên hưng thịnh, nghịch cảnh ngăn che nên khó mà đạt được ba quả vị bất thối trong thế giới Ta Bà này.

Chúng ta niệm Phật cầu sanh Tây Phương không cần phài đạt được ba quả vị bất thối trước khi vãng sanh; mà, sau khi vãng sanh về Tây Phương chúng ta đương nhiên có được ba quả vị bất thối không khó khăn. Hiện đời chúng ta chỉ lo chuyên tâm niệm Phật với đầy đủ tín, hạnh, nguyện thì chắc chắn đới nghiệp vãng sanh; vì sáu chữ Di Đà Thánh hiệu có đầy đủ công năng diệt trừ phiền não, tăng trưởng phước đức trí tuệ, và, chúng ta trực vãng Tây Phương, ở nơi hoa sen hóa sanh đồng trụ với các bậc bất thối Bồ Tát làm chúng đồng học, đồng tu; thân tâm thanh tịnh là vì do nơi liên hoa hóa sanh.nên gọi là đạt được “hạnh bất thối”. Hoa nở thấy Phật, mỗi niệm mỗi niệm chuyên câu Phật quả, hằng không có tâm thối chuyển nơi đạo Bồ Đề nên gọi là được “niệm bất thối”.

Vậy còn gì chần chờ mà liên hữu không chuyên cần niệm Phật cầu sanh Tây Phương để đạt được ba quả vị bất thối chờ ngày thành Phật; trong khi ba quả vị bất thối nếu ở thế giới Ta Bà tu tập mà đạt được thì phải trải qua không biết bao nhiêu kiếp. Trái lại, chỉ một lòng nhứt tâm niệm Phật trong đời này thì liên hữu sẽ trực vãng Tây Phương được ba quả vị bất thối và đạo quả Bồ Đề sẽ đến một ngày không xa. Như vậy, nên khuyên đại chúng hãy cẩn trọng mà chuyên tâm niệm Phật với tín, hạnh, nguyện đầy đủ.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
08/04/2013(Xem: 9792)
Sau khi Đại lão Hòa thượng thượng Thiện hạ Siêu - Bổn sư của chúng tôi viên tịch, hàng môn đồ pháp quyến đã cố gắng sưu tập các bài giảng, bài viết của Hòa thượng được tìm thấy rải rác trong các báo, trong các di cảo lẻ tẻ còn sót lại và trong cuộn băng từ mà Hòa thượng đã giảng cho Tăng Ni Phật tử khắp ba miền đất nước từ trước tới nay. “Tâm lý Phật giáo trong Tây Du ký” là tác phẩm tiếp theo trong loạt các tác phẩm mà chúng tôi đã sưu tập và xuất bản trong gần 5 năm qua như: Cương yếu Giới luật (2002), Chữ nghiệp trong đạo Phật (2002), Thức biến (2002), Lược giảng kinh Pháp hoa (2003), Phật ở trong lòng (2003), Hư tâm học đạo (2003), Giới thiệu Kinh Thủ Lăng Nghiêm (2004).
08/04/2013(Xem: 35863)
Kim Quang Minh kinh, theo Phật học nghiên cứu (Bài 10 trang 52), có 6 bản dịch. Bản Một, Kim Quang Minh kinh, 4 cuốn, 19 phẩm, Đàm Mô Sấm dịch. Niên đại phiên dịch của ngài này là 414-426. Bản Hai, Kim Quang Minh kinh, 7 cuốn, 21 phẩm, Chân Đế dịch. Niên đại phiên dịch của ngài này là 548-569.
08/04/2013(Xem: 6031)
Thời điểm đức Phật vào Niết Bàn tại Câu Thi Na (Kushinaga) rừng Sa La Song Thọ, một số đệ tử Ngài vô cùng thương tiếc muốn tịch diệt theo, thậm chí có một vài đệ tử không nở chứng kiến tình cảnh đó, đành thất lễ mà ra đi trước. Ngược lại cũng có một ít đệ tử vì không uống được giáo pháp giải thoát nên cảm thấy vui hơn là buồn, bởi rồi sẽ không còn ai khiển trách mình nữa!
08/04/2013(Xem: 7634)
Kính lạy đấng Thế Tôn bậc thầy của nhân thiên, bậc siêu việt trên mọi siêu việt, bậc không thể nghĩ bàn, không thể tán thán, không thể ca tụng, xưng dương hết ý được, do vì những lời lẽ ngôn từ tán thán chỉ là ý thức vọng động phân biệt kẹt chấp phạm trù ngôn ngữ thế gian; hay có thể nói bao giờ phàm phu chúng ta có thể hành động, có thể đi vào an định trong giáo pháp của Ngài.
08/04/2013(Xem: 5605)
Dòng tâm thức luôn lăn trôi từng sát na sanh diệt, do đó chúng ta sống trong thế giới hiện tượng này làm sao tránh khỏi tâm viên ý mã, mà nguyên nhân là lý sanh diệt luôn biến dị chi phối , làm cho chúng ta tưởng chừng như có nhiều tâm trong con người. Thật vậy tâm luôn thay đổi qua nhiều tình huống, thăng trầm của tư duy qua sự phát triển của khối óc và căn cơ trình độ.
08/04/2013(Xem: 13075)
Cần thực hành những nghi thức trì tụng kinh Phật, như bài tán lư hương, chơn ngôn tịnh pháp giới, chơn ngôn tịnh khẩu nghiệp, chơn ngôn tịnh ba nghiệp, chơn ngôn phổ cúng dường, bài văn phát nguyện và bài kệ khai kinh.
08/04/2013(Xem: 13804)
Tụng kinh Pháp Hoa, chúng ta thường đọc những bài tán thán công đức của kinh này để gợi cho chúng ta suy nghĩ về những tinh ba vi diệu của kinh và từ đó phát khởi được niềm tin trong sạch đối với Đức Phật và lời dạy của Ngài, kế tiếp mới đi vào phần nội dung của kinh.
08/04/2013(Xem: 9746)
Hai chữ Kim Cang, nhiều người giải nghĩa dựa trên tính bền chắc sắc bén có thể cắt đứt. Đây là nói phiếm. Nhưng ở Tây Vức có của báu Kim Cang, báu này rất bền chắc chẳng thể hư hoại, lại phá hoại được tất cả vật. Nếu lấy báu này để dụ cho Bát Nhã đoạn trừ được phiền não, thì tuy gần với lý, nhưng đều chẳng phải ý Phật, chỉ là tri kiến theo thói xưa tầm thường.
08/04/2013(Xem: 6741)
Hôm nay, tất cả quí vị đã bỏ nhà để đến chùa góp mặt trong pháp hội này, phải nói đây là một cơ hội thật tốt để chúng ta tạm thời gát qua hết những chuyện đời và quay về sống phản tỉnh đối với bản thân. Nhưng tôi chỉ mới nói rằng quý vị đang có một cơ hội tốt, còn quý vị thì sao? Quý vị có ý thức được mình đang ở đâu và làm gì hay không? Đi vào chùa để vãn cảnh hay để tu học? Nếu để tu học thì quý vị đã bắt đầu chưa? Các vị hãy luôn nhớ rằng, một khi đã chấp nhận con đường tu học thì chúng ta nhất định phải cố gắng thế nào đó để tự khẳng định chính mình. Chúng ta không thể tu học như một hình thức chiếu lệ mà ngược lại phải luôn nhìn về phía trước để nhắm tới những tiến bộ. Chúng ta phải biết tu học một cách có lý tưởng, áp dụng Phật Pháp vào ngay chính đời sống của mình để từng sinh hoạt của bản thân được thực hiện dưới ánh sáng Phật pháp.
08/04/2013(Xem: 16331)
Đại đức Rahula, người Tích lan được đào tạo trong truyền thống Thượng tọa bộ tại Phật học viện Pirivena, sau vào Đại học Tích Lan đậu bằng B.A (London) rồi viết luận án Tiến sĩ về lịch sử đạo Phật ở Tích Lan và được cấp bằng Tiến sĩ Triết học (Ph. D). Sau Đại đức qua Calcutta, cộng tác với các giáo sư Đại thừa và bắt đầu học chữ Hán và chữ Tây Tạng. Cuối cùng Đại đức qua Đại học đường Sorbonne để nghiên cứu về Ngài Asanga (Vô Trước) và lâu nay vẫn ở tại Paris vừa giảng dạy đạo Phật, vừa trước tác sách vở. Như vậy Đại đức có thể được xem là tinh thông cả hai giáo lý, Đại thừa và Tiểu thừa. Kỳ qua Paris năm 1965, tôi có viếng thăm Đại đức và trong câu chuyện ngót hai tiếng đồng hồ, chúng tôi bàn luận rất nhiều về liên lạc giữa Nam tông và Bắc tông, và chúng tôi đồng ý rằng cả hai tông đều chấp nhận và thọ trì một số giáo lý căn bản.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567