Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

02. Công đức sáu chữ Di Đà

13/04/201203:21(Xem: 6992)
02. Công đức sáu chữ Di Đà

NIỆM PHẬT THÀNH PHẬT

Thượng Tọa Thích Phước Nhơn

 

Công đức sáu chữ Di Đà

Thiền Tông lấy sự thấy tự tánh để làm nhân hạnh tu tập, sau đó có kết quả là giác ngộ thành Phật. Chúng sanh từ nhiều đời bị vô minh che lấp tự tánh, không tự mình nhìn thấy được ánh sáng chiếu diện nơi tự tâm, giống như mây mờ che ánh sáng mặt trời vào mùa đông. Hôm nay nhờ thiền tập, vén được màn vô minh nhìn thấy được tự tánh vốn hằng thường trong sáng. Từ nơi đây hành giả lặn sâu vào tàng thức lấy trí tuệ diệt tận gốc rễ sự vô minh u tối của phiền não để hiển bày toàn bộ chơn giác mà xưa nay sẵn có; nên gọi là giác ngộ, là thành Phật. Giống như mây tan thì ánh sáng mặt trời sẽ hiển lộ, chiếu rọi khắp muôn phương vô phân biệt. Nhưng muốn thấy được tánh, tức mỗi thời khắc trôi qua thân phải thiền tập, ý phải gạn lọc tư tưởng rời xa phiền não, luôn ở trong chánh niệm. Cũng có nghĩa là mỗi thời khắc phải rời xa ác nghiệp, thực hành thiện nghiệp cho đến khi nhìn thấy được tự tâm.

Cũng vậy, liên hữu niệm Phật, là niệm tự tánh Di Đà. Vì mỗi chúng sanh đều có Phật tánh, Phật tánh không khác khi ẩn tàn trong mỗi sắc thân ngủ uẩn khác nhau của từng loại chúng sanh. Phật tánh cũng không thêm khi thành Phật, và không bớt đi khi đọa vào địa ngục. Vả lại Phật Phật đồng nhất thể; vậy thì tọa thiền để thấy tự tánh, giác ngộ thành Phật, không khác gì khi chúng ta niệm Phật để hiển bày tự tánh Di Đà. Tự tánh Di Đà là Phật nhân, sanh về Tây Phương Cực Lạc gặp Phật Di Đà, tu, nghe pháp, chứng ngộ thành Phật là Phật quả.

Hiện tại chúng ta niệm Phật là niệm tự tâm. Vì tự nơi mỗi chúng sanh ai cũng có Phật nhân, mà, khi đã có Phật nhân thì liền có Phật quả - là thành Phật - Nhưng vì xưa nay phiền não nghiệp chướng của ta quá dày nên Phật nhân không có cơ hội phát triển. Vậy, ta niệm Phật, tiếng niệm Phật từng giờ từng phút gieo vào tâm tưởng vọng động của ta; bao nhiêu những thứ vọng tưởng ác nghiệp lần hồi tan biến, và, thiện nghiệp phước huệ sẽ hiển bày.

Chúng ta niệm Phật muốn hiểu bày tự tánh Di Đà, thì hằng ngày phải tinh chuyên đừng để tâm thối lui. Giống như em bé vừa sanh, người mẹ phải hằng ngày chăm sóc cho em bé cẩn thận, cho em bé bú sữa, cho em bé ngủ lớn, lớn lên một chút cho ăn cháo cơm,… phải chăm sóc thường xuyên. Nếu người mẹ cho em bé bú sữa một ngày; hai ba ngày không cho bú, hoặc em bé khóc mà không tìm cách làm cho em bé nín, bỏ em bé vào những nơi có ánh nắng mặt trời buổi trưa… Như vậy chẳng những em bé không thể lớn mà có nguy cơ mất mạng. Cũng vậy, niệm Phật muốn thấy được tự tánh Di Đà, muốn sanh về Tây Phương Cực Lạc, mà không tinh chuyên, một ngày niệm năm ba ngày nghỉ, hoặc niệm mà chỉ muốn cầu chút ít phước đức hữu lậu ở cõi trời và cõi người thì chúng ta sẽ không đạt được công đức vô lượng vô biên của sáu chữ Di Đà. Những công đức ấy sẽ bị hạng hẹp ở nơi hữu lậu; giống như em bé bị bệnh hoạn ốm yếu do người mẹ chăm sóc không chu đáo.

Em bé mỗi ngày được bú sữa thường xuyên, và được chăm sóc cẩn thận thì sẽ lớn lên một cách mập mạp dễ thương đầy đủ sức khỏe. Cũng thế niệm Phật tinh chuyên, siêng năng, đầy đủ tín, hạnh, nguyện, thì ta nhất định sẽ thấy được tự tánh Di Đà, nhất định sẽ sanh về Tây Phương, và sẽ thành Phật.

Thấy tự tánh Di Đà hay sanh về Tây Phương cũng có nghĩa là đã dứt trừ được phiền não vô minh, kiến hoặc tư hoặc, chuyển tâm phàm phu nơi thế giới Ta Bà đau khổ thành tâm thanh tịnh của Thánh Chúng nơi Cảnh giới Cực Lạc, chuyển thức thành trí, mà, hiển bày được vô lượng công đức. Vì niệm Phật đạt được công đức vô lượng vô biên như thế, cho nên chúng ta ai là người đang tu pháp môn niệm Phật thì nên cố gắng niệm thường xuyên hơn; ai chưa chọn pháp môn niệm Phật, thì nay nên phát tâm chọn pháp môn niệm Phật để tu; tất cả chúng ta nên niệm Phật với đầy đủ tín, hạnh, nguyện,vững chắc để cầu sanh về Tây Phương Cực Lạc, thấy Phật Di Đà, nghe pháp, chứng quả vị bất thối, hành trì hạnh Bồ Tát tiến vào Phật quả.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
08/04/2013(Xem: 9778)
Sau khi Đại lão Hòa thượng thượng Thiện hạ Siêu - Bổn sư của chúng tôi viên tịch, hàng môn đồ pháp quyến đã cố gắng sưu tập các bài giảng, bài viết của Hòa thượng được tìm thấy rải rác trong các báo, trong các di cảo lẻ tẻ còn sót lại và trong cuộn băng từ mà Hòa thượng đã giảng cho Tăng Ni Phật tử khắp ba miền đất nước từ trước tới nay. “Tâm lý Phật giáo trong Tây Du ký” là tác phẩm tiếp theo trong loạt các tác phẩm mà chúng tôi đã sưu tập và xuất bản trong gần 5 năm qua như: Cương yếu Giới luật (2002), Chữ nghiệp trong đạo Phật (2002), Thức biến (2002), Lược giảng kinh Pháp hoa (2003), Phật ở trong lòng (2003), Hư tâm học đạo (2003), Giới thiệu Kinh Thủ Lăng Nghiêm (2004).
08/04/2013(Xem: 35787)
Kim Quang Minh kinh, theo Phật học nghiên cứu (Bài 10 trang 52), có 6 bản dịch. Bản Một, Kim Quang Minh kinh, 4 cuốn, 19 phẩm, Đàm Mô Sấm dịch. Niên đại phiên dịch của ngài này là 414-426. Bản Hai, Kim Quang Minh kinh, 7 cuốn, 21 phẩm, Chân Đế dịch. Niên đại phiên dịch của ngài này là 548-569.
08/04/2013(Xem: 6004)
Thời điểm đức Phật vào Niết Bàn tại Câu Thi Na (Kushinaga) rừng Sa La Song Thọ, một số đệ tử Ngài vô cùng thương tiếc muốn tịch diệt theo, thậm chí có một vài đệ tử không nở chứng kiến tình cảnh đó, đành thất lễ mà ra đi trước. Ngược lại cũng có một ít đệ tử vì không uống được giáo pháp giải thoát nên cảm thấy vui hơn là buồn, bởi rồi sẽ không còn ai khiển trách mình nữa!
08/04/2013(Xem: 7611)
Kính lạy đấng Thế Tôn bậc thầy của nhân thiên, bậc siêu việt trên mọi siêu việt, bậc không thể nghĩ bàn, không thể tán thán, không thể ca tụng, xưng dương hết ý được, do vì những lời lẽ ngôn từ tán thán chỉ là ý thức vọng động phân biệt kẹt chấp phạm trù ngôn ngữ thế gian; hay có thể nói bao giờ phàm phu chúng ta có thể hành động, có thể đi vào an định trong giáo pháp của Ngài.
08/04/2013(Xem: 5597)
Dòng tâm thức luôn lăn trôi từng sát na sanh diệt, do đó chúng ta sống trong thế giới hiện tượng này làm sao tránh khỏi tâm viên ý mã, mà nguyên nhân là lý sanh diệt luôn biến dị chi phối , làm cho chúng ta tưởng chừng như có nhiều tâm trong con người. Thật vậy tâm luôn thay đổi qua nhiều tình huống, thăng trầm của tư duy qua sự phát triển của khối óc và căn cơ trình độ.
08/04/2013(Xem: 13046)
Cần thực hành những nghi thức trì tụng kinh Phật, như bài tán lư hương, chơn ngôn tịnh pháp giới, chơn ngôn tịnh khẩu nghiệp, chơn ngôn tịnh ba nghiệp, chơn ngôn phổ cúng dường, bài văn phát nguyện và bài kệ khai kinh.
08/04/2013(Xem: 13753)
Tụng kinh Pháp Hoa, chúng ta thường đọc những bài tán thán công đức của kinh này để gợi cho chúng ta suy nghĩ về những tinh ba vi diệu của kinh và từ đó phát khởi được niềm tin trong sạch đối với Đức Phật và lời dạy của Ngài, kế tiếp mới đi vào phần nội dung của kinh.
08/04/2013(Xem: 9728)
Hai chữ Kim Cang, nhiều người giải nghĩa dựa trên tính bền chắc sắc bén có thể cắt đứt. Đây là nói phiếm. Nhưng ở Tây Vức có của báu Kim Cang, báu này rất bền chắc chẳng thể hư hoại, lại phá hoại được tất cả vật. Nếu lấy báu này để dụ cho Bát Nhã đoạn trừ được phiền não, thì tuy gần với lý, nhưng đều chẳng phải ý Phật, chỉ là tri kiến theo thói xưa tầm thường.
08/04/2013(Xem: 6718)
Hôm nay, tất cả quí vị đã bỏ nhà để đến chùa góp mặt trong pháp hội này, phải nói đây là một cơ hội thật tốt để chúng ta tạm thời gát qua hết những chuyện đời và quay về sống phản tỉnh đối với bản thân. Nhưng tôi chỉ mới nói rằng quý vị đang có một cơ hội tốt, còn quý vị thì sao? Quý vị có ý thức được mình đang ở đâu và làm gì hay không? Đi vào chùa để vãn cảnh hay để tu học? Nếu để tu học thì quý vị đã bắt đầu chưa? Các vị hãy luôn nhớ rằng, một khi đã chấp nhận con đường tu học thì chúng ta nhất định phải cố gắng thế nào đó để tự khẳng định chính mình. Chúng ta không thể tu học như một hình thức chiếu lệ mà ngược lại phải luôn nhìn về phía trước để nhắm tới những tiến bộ. Chúng ta phải biết tu học một cách có lý tưởng, áp dụng Phật Pháp vào ngay chính đời sống của mình để từng sinh hoạt của bản thân được thực hiện dưới ánh sáng Phật pháp.
08/04/2013(Xem: 16272)
Đại đức Rahula, người Tích lan được đào tạo trong truyền thống Thượng tọa bộ tại Phật học viện Pirivena, sau vào Đại học Tích Lan đậu bằng B.A (London) rồi viết luận án Tiến sĩ về lịch sử đạo Phật ở Tích Lan và được cấp bằng Tiến sĩ Triết học (Ph. D). Sau Đại đức qua Calcutta, cộng tác với các giáo sư Đại thừa và bắt đầu học chữ Hán và chữ Tây Tạng. Cuối cùng Đại đức qua Đại học đường Sorbonne để nghiên cứu về Ngài Asanga (Vô Trước) và lâu nay vẫn ở tại Paris vừa giảng dạy đạo Phật, vừa trước tác sách vở. Như vậy Đại đức có thể được xem là tinh thông cả hai giáo lý, Đại thừa và Tiểu thừa. Kỳ qua Paris năm 1965, tôi có viếng thăm Đại đức và trong câu chuyện ngót hai tiếng đồng hồ, chúng tôi bàn luận rất nhiều về liên lạc giữa Nam tông và Bắc tông, và chúng tôi đồng ý rằng cả hai tông đều chấp nhận và thọ trì một số giáo lý căn bản.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567