Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

[01 - 10]

06/04/201214:48(Xem: 4617)
[01 - 10]

TỊNH ĐỘ VẤN ĐÁP

Tỳ kheo Thích Giác Nhàn sưu tập


TỊNH ĐỘ TÔNG LỜI VẤN ĐÁP VỀ PHÁP TU TỊNH ĐỘ

1/ Hỏi:Môn Tịnh độ là pháp cơ sở, chỉ để cho kẻ ngu dốt, căn trí thấp kém hành trì. Những người căn tính cao phải tu thiền hay duy thức mới hợp lý. Và lại bậc trượng phu phải có chí hùng cường tự lập, nên văn cứ nơi mình mà giải thoát; nếu muốn cầu mong tha lực, chẳng tỏ ra hèn yếu lắm ư?

Đáp: Với lời hỏi này, trước tiên xin nói về căn cơ, sau sẽ trả lời đến yếu tố tự lực tha lực.

Pháp môn Tịnh độ không phải chỉ để cho bậc trung hạ căn, mà còn thâu nhiếp cả bậc thượng thượng căn. Bậc trung, hạ căn niệm Phật sẽ dứt được phiền não nghiệp chướng, phát sinh phước đức trí huệ, lần lần đi đến định cảnh, tùy công phu thấp cao mà vãng sinh về chín phẩm sen nơi Cực Lạc. Bậc thượng căn vừa khởi câu niệm Phật, liền thâm nhập vào cảnh giới định huệ, đi đứng nằm ngồi đều trong niệm Phật tam muội, khi lâm chung sinh về thượng thượng phẩm liên bang. Trong hàng tiên đức đã có vị vào cảnh giới này, và trình thuật với câu:

Nắm lấy chuỗi tràng trần niệm dứt,

Nghiễm nhiên thành Phật đã từ lâu.

Cho nên, câu niệm Phật thâu nhiếp hết ba căn, với người cao nó thành cao, với người thấp nó thành thấp.

Trong kinh lại nói: “Chí thành xưng danh hiệu Phật A Di Đà, sẽ được tiêu tội trong tám mươi ức kiếp sinh tử”. Người niệm Phật hằng giữ định tâm, tất sẽ phát huệ đồng như lối tu của các pháp môn khác. Hơn nữa, trên định tâm mà xưng danh hiệu Phật A Di Đà, thì tự tiêu nghiệp chướng, sinh phước huệ càng cao thắng chóng mau. Vì thế, Liên Trì Đại Sư đã khen pháp niệm Phật là: Đại thiền định, đại trí huệ, đại phước đức, đại thành hiền. Theo Quán kinh:Người tạo tội ngũ nghịch thập ác khi lâm chung tướng địa ngục hiện, nếu chí thành xưng danh hiệu Phật A Di Đà cho đến mười niệm, thì ngài liền hiện thân tiếp dẫn sinh về Cực Lạc. Từ một kẻ cực ác, chỉ dùng mười niệm mà được vãng sinh, lên ngay ngôi bất thoái chuyển thật là điều rất hy hữu. Ấn Quang Đại sư đã khen: “Pháp niệm Phật bậc cao niệm đến một lòng không loạn, chứng vào tam muội, kẻ cực thấp chỉ đúng mười niệm thành công, là điểm đặc sắc mà chưa pháp môn nào có”.

Về vấn đề tự tha lực, nếu như hiểu môn Tịnh độ chỉ hoàn toàn nương nơi tha lực là lầm lớn. Người niệm Phật phải đem hết sức tự lực dứt trừ phiền não, trì niệm cho đến cảnh giới tâm mình và tâm Phật tương ưng. Từ cảnh giới đó hiện đời hành giả được Phật phóng quang tiếp dẫn vãng sinh. Sự tiếp dẫn mới là yếu tố chính của tha lực, vì thế giới Cực Lạc cách xa cõi Ta bà này đến mười muôn ức Phật độ, không phải sức thần thông đạo lực tầm thường có thể đến được, huống nữa là phàm phu! Vì thế cần phải nhờ tha lực tức thần lực của Phật hoặc chư thánh tiếp dẫn. Ví như một học sinh, tự mình biết gắng hết sức chuyên học, dĩ nhiên là điều đáng quý. Nếu trên sự học ấy, lại được vị giáo sư giỏi kèm theo chỉ dạy, tất mức học vấn càng cao thâm, kết quả thi đỗ sẽ là phần đảm bảo. Trên tự lực của hành giả, thêm tha lực của Phật gia trì tiếp dẫn cũng lại như thế. Vậy sự kiện chính mình đã gắng hết sức để tu, lại cầu thêm tha lực cho kết quả mau chóng có phải là một điều hèn yếu lỗi lầm chăng? Sự cao diệu của môn Tịnh độ chính các bậc đại Bồ tát như Văn Thù, Phổ Hiền, Mã Minh, Long Thọ, các vị Tổ sư như Vĩnh Minh, Trí Giả, Triệt Ngộ, Liên Trì, cho đến nhiều đấng tôn túc ở các tông, đều khuyến nguyện vãng sinh. Chê niệm Phật là thấp kém chỉ để cho bậc hạ căn tu hành tức là chê chư Bồ Tát, Tổ sư và các vị cao đức đã nói trên. Bảo niệm Phật là hèn yếu, chỉ nương nơi tha lực, tức là chưa hiểu biết về môn Tịnh độ.

2/ Hỏi: Tu Tịnh độ cần phải chứng Niệm Phật Tam Muội, hoặc ít nữa đi đến cảnh giới nhất tâm bất loạn mới được vãng sinh. Như thế thì người hạ căn chưa chắc đã thực hành nổi. Vậy thì kẻ thấp kém ngu tối làm sao được vãng sinh về Cực Lạc? Nếu kẻ hạ căn ngu tối không vãng sinh được, sao gọi là pháp môn niệm Phật thâu nhiếp cả ba căn?

Đáp: Thật ra với căn cơ thời nay, cảnh giới nhất tâm bất loạn trong lúc hiện tiền còn không có mấy người đi đến, huống chi niệm Phật tam muội! Nhưng theo Kinh Quán Vô Lượng Thọ, kẻ tạo ngũ nghịch thập ác khi lâm chung tướng địa ngục hiện, chí tâm xứng danh hiệu Phật A Di Đà từ một cho đến mười niệm, liền được Phật hiện đến tiếp dẫn vãng sinh. Thế thì sự nhất tâm được vãng sinh, là chỉ khi lâm chung chứ không phải lúc hiện tiền. Nếu lúc bình thời niệm Phật được nhất tâm. Sau đó lại chuyển hướng tu theo pháp môn khác không cầu vãng sinh, thì làm sao về được Cực Lạc? Mà muốn được nhất tâm khi lâm chung, thì lúc bình thời phải tập câu niệm Phật cho thuần thục. Do bình thời thường niệm Phật, dù chưa được nhất tâm, nhưng chủng tử niệm Phật dồn chứa đã nhiều, lúc sắp chết hành giả khởi niệm Phật nó liền phát hiện mạnh mẽ nên được nhất tâm. Kẻ hạ căn niệm Phật được vãng sinh, thường ở trong tình trạng ấy.

3/ Hỏi: Niệm Phật cốt để ngăn trừ vọng tưởng, chặn đứng phiền não đi đến chỗ vô niệm. Đã như thế thì cứ để tâm thanh tịnh lần lần sẽ tiến vào cảnh giới vô niệm, cần gì phải niệm Phật cho nhọc sức hao hơi?

Đáp: Điểm cứu cánh của pháp môn niệm Phật là niệm Phật Tam Muội, chứng toàn thể của bản tính Di Đà tức cảnh giới Thường tịch quang Tịnh độ. Nhưng mục đích chính yếu và cấp thiết của tông Tịnh độ là cầu vãng sinh để bảo đảm không còn luân hồi mê đọa, cho mau tiến lên Phật quả. Vì lẽ ấy nên hành giả của Tịnh độ tông cần phải niệm danh hiệu Đức Phật A Di Đà. Chủ tịch của môn Tịnh độ là như thế, không cấp thiết cầu cảnh giới vô niệm, mau chứng tánh bản lai như Thiền tông.

Tuy nhiên, khi thực hành hủ đích này, hành giả phải niệm Phật cho được nhất tâm, nên dù không cầu vô niệm mà cảnh vô niệm cũng hiển bày. Hơn nữa, nhờ công đức niệm Phật giúp sức mau tiêu nghiệp, nên cảnh giới ấy cũng chóng hiển lộ. Ở đây chúng ta thấy mở thêm một tia sáng. Muốn mau được vô niệm, sớm ngộ tính bản lai, lại cần phải niệm Phật.

4/Hỏi:Kinh Kim Cang nói: “Tất cả pháp hữu vi như mộng huyễn, bóng bọt” v.v…thế thì cảnh Ta bà đã huyễn, mà cõi Cực Lạc cũng là huyễn. Sao không đi ngay vào bản tâm chân thật, còn cầu về cảnh huyễn làm chi?

Đáp:Thực ra các cõi uế độ và tịnh độ trong mười phương đều dường như mộng huyễn, nhưng khi nào chứng được như huyễn tam muội, mới thấy đó là hư giả. Bằng chưa được như thế, vẫn thấy nó là thật. Vẫn bị nó chi phối, vẫn còn biết khổ vui, vào mùa nắng vẫn khó chịu về sự nóng bức, cho đến việc rất nhỏ như con kiến, con muỗi cắn đốt cũng vẫn còn bị đớn đau. Như vậy sao được gọi như là huyễn? Nên biết môn Tịnh độ là phương tiện nhiệm mầu của Phật, mượn cảnh như huyễn an vui, để đưa chúng sinh thoát khỏi cảnh như huyễn thống khổ đầy dẫy chướng duyên và hiểm nạn. Rồi từ cảnh an vui như huyễn đó tiến tu dễ dàng, để mau chứng vào cõi chân tâm thường tịch.

Lấy ví dụ như cõi Ta bà này, cảnh gia đình hay nơi thị tứ ồn náo là huyễn, cảnh chùa am hoặc chốn núi non vắng vẻ cũng là huyễn. Nhưng tại sao người tu giải thoát, lại bỏ cảnh gia đình thị tứ tìm nơi chùa am thanh vắng ở núi non? Có phải tại chốn gia đình nhiều bận buộc, cảnh huyên náo khó nhiếp tâm, mà nơi chùa am hay chỗ thanh vắng dễ tu chăng? Cho nên cảnh phàm tình cùng cảnh thánh chứng khác nhau, phàm tình mà đặt mình vào cảnh thánh chứng là điều xa vời trái với thực tế. Ta còn phàm phu hãy cứ theo phận phàm phu mà tuần tự tiến tu, đừng vội đem con mắt thánh nhìn quá cao xa, thành ra vọng ngữ có hại.

5/Hỏi:Trong kinh Pháp Bảo Đàn, đức Lục tổ bảo: “Người Phương Đông tạo tội, niệm Phật cầu sinh Tây Phương, Người Tây Phương tạo tội, niệm Phật cầu sinh về cõi nào?Như thế thì chỉ cốt làm sao diệt được tội, cần gì niệm Phật cầu vãng sinh?

Đáp:Đức Lục Tổ và các vị cao đức bên Thiền tông đứng trên cương vị truyền bá tông chỉ duy tâm, nên mỗi lời nói phải căn cứ theo chỗ lập pháp của mình, đều chỉ ngay vào bản tính, và đều lấy tâm làm chủ. Ý Ngài muốn bảo: Nếu tâm được thanh tịnh, thì tuy ở Ta bà cũng được tự tại giải thoát, tâm không thanh tịnh dù ở Tây Phương vẫn bị khổ não luân hồi. Thật ra người tu Tịnh độ hiểu đạo lý, lời nói của Tổ chỉ có tác dụng khuyến tấn, bảo phải niệm Phật đến chỗ tịnh tâm không còn chấp chướng, chớ không phải bác niệm Phật cầu vãng sinh. Đức Thế Tôn, chư Phật khắp mười phương, chư đại Bồ tát và chư Tổ sư đều khuyên niệm Phật vãng sinh Tây Phương. Hai vị Tổ bên Thiền tông ở Thiên Trúc là Mã Minh, Long Thọ đã chứng sơ hoan hỷ địa, vãng sinh về Cực Lạc. Nếu đức Lục Tổ có ý bài bác sự niệm Phật, thì chẳng hóa ra bài bác Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, Chư Bồ tát, các vị Tổ sư và cả hai vị tiền bối trong tâm của mình là Mã Minh, Long Thọ hay sao? Cho nên nếu hiểu lầm rồi đem lời này chê bai niệm Phật chính là bài xích và gieo mối oan cho đức Lục Tổ vậy.

Lại hành môn nào cũng có lý và sự. Lời của đức Lục Tổ là nói về lý, ngoài ra còn có sự tướng của đường tu, cần phải nghĩ đến. Ta thử đặt câu hỏi “Người ở ngoài đời tạo tội, vào chùa am xuống tóc ăn chay giữ giới, tìm nơi thanh vắng tu hành. Người ở chùa am mà tạo tội tìm nơi nào để tu?” Nếu chỉ y theo lý mà bác sự như vậy, thì việc xuất gia đến chùa am, phải ăn chay giữ giới cho đến tụng kinh, niệm Phật, trì chú, tham thiền đều là lỗi lầm hết sao? Pháp tu Tịnh độ cũng thế, thật ra chẳng phải người ở Đông Phương do tạo tội mới niệm Phật cầu sinh Tây Phương, mà niệm Phật cầu về Tây Phương chính là muốn mượn cảnh thắng duyên tu hành, để mau chứng lên quả vô sinh giải thoát. Dù người đã tạo nhiều tội, biết hồi tâm sám hối niệm Phật cầu vãng sinh, cũng là vì muốn sớm thoát sinh tử, vẫn không ngoài mục đích này. Còn người ở Tây Phương Cực Lạc cũng không tạo tội, bởi khi đã về cõi ấy, trên có Phật Bồ tát, dưới có các bậc thượng thiện nhân, xung quanh mình tiếng chim nói pháp, tiếng nhạc giỏi kinh, không còn nhọc lòng lo đến vấn đề ăn mặc ở và các sự đau bệnh tai nạn oán thù, đường đạo chỉ thêm tiến lên, đâu còn có duyên gì để tạo tội.

Kết lại, câu nói của đức Lục Tổ nên hiểu chỉ lời khai thị về lý tính thanh tịnh để khuyến tấn mà thôi không nên nghĩ lầm đem nó để bác sự tướng. Người niệm Phật nghe lời này, càng nên cố gắng niệm cho đến trình độ tâm Không mới hợp với ý của Tổ.

6/ Hỏi: Ngài Vĩnh Minh Thọ thiền sư là một người Tự tổ trong nhà Thiền, tài trí cơ biện như sấm như gió;trong lòng tâm ai ai cũng tôn Ngài là bậc long tượng cả. Thê mà vì sao ngoài pháp Thiền, Ngài còn chuyên tu về Tịnh độ, lại làm bài kệ “Tứ liệu giảng”, có câu rằng: “Có Thiền không Tịnh, mười người chín kẻ sai; có Tịnh không Thiền, tu mấy thì được mấy”.

Xét những lời nói đó, tợ hồ quá khen bên môn Tịnh độ, mà quá ép bên Thiền sao?

Đáp: Ngài Vĩnh Minh nói như vậy, thiệt là rất có công trong tông giáo, chớ phải quá khen đâu! Nhưng tiếc cho Ngài chưa được cạn cùng chỗ phát minh, nên còn để cái nghi án cho những Thiền giả như vậy.

Tôi chưa am hiểu pháp môn Tịnh độ cho lắm, song cũng có coi các sách Tịnh độ biết được ít nhiều, vẫn thiệt một môn dễ tu và chắc đặng, cũng là một pháp khó nói và khó tin.

Nên Đức Thích Ca trong thời kỳ hiện tại nói kinh Di Đà cho đệ tử nghe, Ngài vẫn đã biết những chúng sinh ở đời mạt pháp này, ít người có đủ đức tin mà đem lòng khuynh hướng về Tịnh độ được. Vì vậy Ngài mới dẫn lời khen ngợi chư Phật trong mười phương, để làm cái bằng cớ chắc thật, để phá cái màn nghi hoặc, gieo giống tín tâm cho người đó.

Huống chi khi nói kinh gần rồi, Ngài lại nói rằng: “Các ngươi phải biết rằng: Ta ở đời ngũ trược ác thế này, vì cả thảy mọi loài trong thế gian mà nói ra pháp Tịnh độ khó tin này, thật là gian nan”.

Xem như vậy, đủ hiểu rằng Phật sợ cho đời sau người không tin thấu, nên Ngài hết sức cạn lời khuyên bảo.

Chúng ta nghĩ đó mà coi: Phật đã đem lòng đại bi cứu đời giảm kiếp, nên một câu nào của Ngài nói ra, thì ai ai cũng tín ngưỡng và vâng làm theo cả; chỉ có cái thuyết Tịnh độ lại còn có kẻ hoài nghi là sao?

Nhưng cái nghi về ấy tưởng không có ý kiến gì lạ, chỉ vì pháp môn Tịnh độ có hai cách đặc biệt như dưới này:

1-Vì pháp ấy là một cửa tu rất rộng lớn; nên cả thảy căn cơ bậc nào cũng thâu nhốt được hết, trên từ các vị Bồ tát bổ xứ cũng sinh về Tịnh độ, còn dưới đến kẻ chồng khờ vợ dại, đảng dữ phe hung, ác thọ chung, chỉ biết ăn năn sự tội lỗi, niệm danh hiệu Phật A Di Đà và một long khuynh hướng về Tịnh độ thì cũng đều được vãng sinh cả. Đó có phải là cửa rộng lớn hay không?

2-Vì trong các pháp tu, chỉ có pháp Tịnh độ dễ dàng hơn hết. Từ lúc phát tâm tu hành cho đến khi thành Phật, thỉ chung không có cái hạnh gì làm cho gian nan lao khổ, cũng không có cái duyên gì làm cho gian nan lao khổ, cũng không có cái duyên gì làm cho sai lạc mê lầm, chỉ giữ bốn chữ “A Di Đà Phật” cho vững vàng, cho chắc chắn, thì được thoát khỏi cõi Ta bà, về được nơi Tịnh độ. Do có phải là pháp dễ dàng hay không?

Cũng vì lẽ rộng lớn như vậy, lạ dễ dàng như thế nên dầu bậc thông minh tài trí cũng chưa tất là khỏi nghi, huống chi là người thường. Vậy biết lời khen ngợi của Ngài Vĩnh Minh là đã nghiên cứu rốt ráo, chớ phải rằng quá đâu!

7/Hỏi:Phật tổ vì độ chúng sinh mà ứng hiện ra đời, thì những người học Phật cũng phải thể theo ý mà lo làm sao cho tỏ đạo để ra tuyên truyền giáo pháp và hóa thân các cõi để cứu độ chúng sinh mới phải; chớ như mấy người đã tỏ được đạo rồi, còn cầu sinh về Tịnh độ, đó là cái chí nguyện chán khổ ham vui một mình, không biết gì đến ai. Có phải từ bi như vậy hay sao?

Đáp:Mới thấy cái trứng gà mà đã muốn chi nó gáy, và mới thấy viên đạn mà đã cầu cho có thịt ăn. Cái hy vọng ấy tưởng còn xa lắm!

Bởi vì sau lúc tỏ đạo rồi, chẳng lẽ cái tập khí hữu lậu của ta trừ hết liền mà không thoái chuyển được. Chẳng lẽ không học thêm các sự tu hành chứng quả trong Phật pháp cho đủ mà được, lại cũng chẳng lẽ sánh bằng các Phật, lộn vào trong cảnh giới sinh tử, không bị các duyên ngăn ngại được?

Nên cổ giáo có nói rằng: Bậc Thanh văn khi xuất thai còn phải ám muội, và bậc Bồ tát lúc cách ấm còn không hiểu biết; huống chi người đời nay giới được chút ít, tỏ được chút định; tự cứu không rồi, mong cứu ai được hay sao?

Giả như thiệt có người tỏ đạo được sâu xa, kiến thức siêu việt và hạnh giải hoàn toàn, chí nguyện hay nóng nảy, về sự độ nhân thì cũng rất tốt. Nhưng e chưa lên được đại vị bất thoái, lực lượng chưa sung, lại ở nhằm đời ác trược, độ những kẻ cang cường, không khác nào đem chiếc thuyền đóng chưa rồi, trét chưa kỹ, mà chở số đông người qua biển đương lúc gió hung sóng dữ, thì chắc không khỏi chìm bỏ mạng với nhau một chỗ.

Cho nên trong Vãng sinh luận có nói rằng: Muốn chơi giỡn ở nơi đường địa ngục, tất phải sinh được về cõi kia, chừng chứng bậc “Vô sinh nhẫn” rồi, mới trở lại trong cảnh sinh tử, cứu khổ cho chúng sinh được.

Vì nhân duyên ấy nên phải cầu sinh về Tịnh độ.

Chúng ta phải biết rằng: Nếu người học đạo mà chưa hiểu thấu rõ cái nguồn cội của tự tâm và vạn pháp thì không thể nào rời Phật ra được. Thí như con còn nhỏ tuổi phải nương theo mẹ, chim còn yếu cánh phải chuyền theo nhành. Đó là lý tất nhiên như vậy.

Nay chúng ta ở về khoảng thời gian này, đức Thích Ca thì nhập diệt đã lâu rồi, còn đức Di Lặc thì chưa tới kỳ xuất thế, như con không cha biết lấy ai mà nương dựa, như trò không thầy biết lấy ai mà hỏi han, vắng trước quạnh sau, đã thành ra cái hiện trạng cô lập.

Gia dĩ trong đường khổ thú bị gây nhân quả buộc ràng, nào cảnh tà ma lắm chuyện thị phi rối loạn, nào tiếng hay sắc đẹp mê hoặc trăm phần, nào đảng dữ phe hoang phỉnh phờ đủ cách, làm cho những người mới vừa tỏ đạo, đều nhân đó mà phải thối lui, phải hư hỏng, không biết là bao nhiêu rồi.

Vì vậy nên Đức Phật Thích Ca mới ân cần chỉ nẻo Tây phương Cực Lạc làm chỗ quy hướng cho chúng ta được về đó hưởng cảnh giới thanh tịnh, khỏi sự nhiễm ô, nghe tiếng pháp nhiệm mầu, mau phần tỉnh ngộ; rồi nhờ Đức Phật Di Đà hiện tiền thọ ký cho nhiên hậu mới đe thân tự tại ứng hiện muôn loài, tùy theo phương tiện mà hóa độ tất cả chúng sinh.

Đến lúc ấy, dẫu cho gặp cảnh nghịch hay là cảnh thuận, cũng không thể nào đánh đổ được cái nhân lực của ta nữa cả. Sự lợi ích đã hiển hiện ra như vậy, có lẽ nói ta tỏ đạo rồi mà không chịu cầu sinh về Tịnh độ được hay sao?

Trong kinh Quán Phật Tam Muộicó nói: Ngài Văn Thù thuật chuyện tu nhân đời trước, rằng Ngài chứng được pháp niệm Phật tam muội, thường sinh về cõi Tịnh độ.

Trong kinh Hoa Nghiêmnói: Trong mười điều nguyện lớn nhất của Ngài Phổ Hiền, có câu rằng: Ta nguyện trong lúc lâm chung, trừ hết mọi điều chướng ngại, thấy rõ đức Phật Di Đà, liền sinh về Tịnh độ.

Còn trong Khởi tín luậnnói: Ngài Mã Minh có cái nguyện cầu sinh, và trong Vô Lượng Thọ luậnlại nói: Ngài Thiền Thân có cái tâm nguyện vãng sinh. Cho đến trong kinh Bảo Tíchnói: Phật ấn hứa cho phụ vương là vua Tịnh Phạn và bẩy vạn người trong tộc thuộc của Ngài đồng sinh về cõi An dưỡng. Trong Kinh Thập lục quánnói: Phật chỉ cho nàng Vi Đề Hi và năm trăm người thị nữ đồng thấy Phật A Di Đà v.v…

Từ đó về sau, như bên nước Trung Hoa, Ngài Huệ Viễn Thiền Sư lập hội Liên Xã chuyên tu Tịnh độ, Ngài Viên Chiếu Thiền Sư cùng không biết bao nhiêu Ngài khác nữa, đều xiển dương thuyết ấy, nào những kẻ tăng người tục, trước sau nối nhau, cầu sinh về cõi Cực Lạc, không kể xiết được.

Ta hãy lấy công tâm mà xét, kìa như Ngài Văn Thù, Ngài Phổ Hiền là bậc đại Tổ sư, mà còn cầu sinh về Tịnh độ, nguyện thấy Phật Di Đà thay, huống chi người tỏ đạo ngày nay là đứng về địa vị nào, mà không chịu cầu sinh về Tịnh độ. Nói như vậy, chẳng là chỗ chứng ngộ của mấy người ấy hơn được các Ngài đã kể trên hay sao?

Còn vua Tịnh Phạn, bà Vi Đề Hi và các người trong tộc thuộc của Phật, đã chứng đặng bậc “Vô Sinh Pháp nhẫn” trong lúc hiện tiền rồi, Phật còn bảo cầu sinh về Tịnh độ thay, huống chi người đời nay đã thành tựu được cái “nhẫn” ấy chưa, lại đảm đương trách nhiệm nhập tục độ sinh?

Ôi! Những người tỏ đạo chưa thấu nơi thấu chốn và cái chí nguyện thái cao và chỗ hy vọng quá đáng ấy tưởng đã không hóa độ gì được ai, phần mình lại thêm hư hỏng cái căn lành, rồi xa chìm trong biển khổ nữa,thiệt đau đớn thay! Đáng thương xót thay!

8/Hỏi: Tâm là Tịnh độ, tánh là Di Đà, lý thuyết ấy mới hiệp theo cái bổn thể chân thật của ta, không trong không ngoài, không riêng không khác như vậy là đúng.

Thế mà trong kinh luận lại nói: “Tịnh độ là nước Cực Lạc ở ngoài mười vạn ức cõi Phật: còn Di Đà là ngôi Giáo chủ ở trong nước Cực Lạc. Vậy chẳng là ngoài tâm còn có cửa riêng, ngoài tánh còn có Phật khác hay sao?

Đáp: Nếu nói như vậy, thực là chưa rõ cái thể lượng rộng lớn của tâm, Kinh Lăng Nghiêmnói: “Từ sắc thân cho đến núi sông, đất liền, và cõi hư không, đều là vật ở trong chân tâm mầu nhiệm sáng suốt của ta”. Kinh ấy lại nói: “Mười phương hư không sinh trong tâm, cũng như đám mây dính ở giữa hư không”.

Vậy thì Tịnh độ ở ngoài mười vạn ức cõi Phật ấy có phải là cõi nào riêng; còn đức Di Đà ở trong nước Cực Lạc kia có phải là Phật nào khác, ngoài được cái tâm của ta đâu!

Còn tâm tức là Tịnh độ, ngoài độ không tâm, cũng như các hột bụi nương theo cõi đất liền, có hột bụi nào mà chẳng gọi là đất được.

Cho nên vi trần quốc độ trong mười phương cũng y như nơi tâm ta mà thành lập, và hằng sa chư Phật trong tâm thể cũng do nơi tánh ta mà phát sinh.

Vậy thì nước Cực Lạc ở ngoài vạn ức cõi Phật, chi không phải là Tịnh độ của duy tâm; ngôi giáo chủ ở trong nước Cực Lạc, chi không phải là Phật Di Đà của tự tánh.

Xét như một cái tâm hàm đủ mười cõi hiện cả muôn pháp như vậy, thì tâm với độ vẫn không ngăn ngại, Phật với chúng sinh nào có riêng khác.

Chúng sinh ở trong tâm của chư Phật, còn chư Phật ở trong tâm của chúng sinh, đâu đâu cũng là Tịnh độ, niệm niệm đều là Di Đà. Sở dĩ Phật hằng kiếp chúng sinh trong thập phương luôn luôn, mà không dời gót khỏi Liên tọa; còn chúng sinh hằng sinh về nước Cực Lạc mãi mãi, mà không đem thân ra khỏi hồng trần. Cái lý “Tâm độ dung thông, sinh Phật bình đẳng”, rõ ràng như vậy, còn có cái gì nghi hoặc cho ta nữa đâu!

Ôi! Cái tâm Tịnh độ và cái tánh Di Đà ấy, đã biết rằng ai ai cũng sẵn có đủ; nhưung chưa tới địa vị đó, thì không thể nói được.

Chúng ta thử xem như cõi Ta bà này có những đất vàng, ao báu, sen ngọc, cây huỳnh hay không?Hay là cõi núi, rừng, đất, đá, hầm, hố, chông gai đó?

Trong cõi này lại có sáu thú, bốn loài, ba đường, tám nạn, có phải là cảnh vui của chư Phật hay không?Hay là chỗ chúng sinh thọ khổ đó?

Còn thử xem Phật Di Đà, thì từ quốc độ của Ngài cho đến sự sống lâu, sáng suốt, từ bi, thệ nguyện, trí huệ, thần thông, và phân thân tiếp chúng thuyết pháp độ sinh, thảy đều là trang nghiêm cụ túc tất cả. Vì vậy thì chúng ta hãy xét lại coi phận mình có được sẵn đủ như vậy hay không?

Nếu đủ, thì tha hồ muốn nói tánh, nói dọc nói ngang gì cũng được, thí như người học nghề cầm gươm hay cầm gươm múa giữa hư không, thì muốn chém trái chém mặt, chém ngược chém xuôi gì cũng không đụng chạm đâu cả.

Còn như chưa sẵn đủ như Ngài, mà tự xưng là Di Đà, ví chẳng khác một tên dân ngu hèn mà có mộng đế vương, chắc có lẽ bị phạm tội tru diệt, chớ không phải sự tầm thường.

Vậy chúng ta không nên theo lý mà mê sự, nói tánh mà quên tướng, và nhất là chấp mê mà chiêu cái tội báng pháp, dầu ngày sau muôn Phật ra đời, cũng không thể nào cứu được.

9/Hỏi:Chư Phật ở trong mười phương, thì chúng sinh ta thân cận với Ngài nào cũng được, cớ sao lại cứ tôn vinh một mình đức A Di Đà mà bảo phải niệm và phải cầu Ngài là lý gì?

Đáp: Cứ theo lý tánh mà bàn, thì đức Phật Di Đà và cả thảy các Phật cũng đồng một thân một trí, và chỗ ứng dụng vậy, chớ không phải khác, nên phần thân cận của chúng sinh đối với Ngài nào lại không được.

Nhưng nói về phận đức dụng, thì Phật Di Đà có ba cái nguyên nhân như dưới này, làm cho thập phương chư Phật cũng đồng khen ngợi và đồng tôn vinh, sự quan niệm của chúng ta đối với Ngài lại càng mật thiết hơn nữa.

Sao lại gọi là ba nguyên nhân?

1/ Vì chỗ nhân địa về đời quá khứ của Ngài có phát lời thề nguyện rất lớn. Xin được kể dưới đây:

“Nếu khi ta thành Phật, có chúng sinh nào muốn sinh về nước ta, hoặc nghe cái danh ta, tu các sự lành hay là xưng hiệu ta từ một cho đến mười niệm mà không được vãng sinh, thì ta thề chẳng chứng bậc chánh giác. Bằng như chúng sinh nào đã về nước ta rồi, mà còn sự thối chuyển, không quyết định thành Phật được, thì ta cũng thề chẳng chứng bậc chánh giác”. Vậy nên gọi là nguyện lớn.

2/ Vì Ngài có nhân duyên với chúng sinh ở cõi này.

Coi như hồi Phật Thích Ca tại thế, thì những chúng sinh nghe lời giáo hóa của Phật mà quy hướng về đức Di Đà, cũng đã nhiều đến vô biên vô lượng.

Còn khi Phật nhập diệt rồi, thì những chúng sinh ở đời mạt pháp, nào là kẻ tăng người tục, kẻ sang người hèn, nào là đàn ông đàn bà, con trai con gái, hễ có nghe được Phật giáo chút ít, chẳng có ai là người không tin tưởng về cái thuyết “Cầu sinh Tịnh độ” cả.

Dẫu cho những hạng người ngoan ngu bạo ác không tin gì cả, mà khi thấy cái cảnh nguy hiểm khốn nàn, hay là phát ra lời khen ngợi ta oán gì, hễ mở miệng thì tự nhiên đã kêu “A Di Đà Phật”.

Đó là không ai khuyên mà nói ra, chẳng ai dạy mà làm được, chẳng phải là có nhân duyên với chúng ta hay sao?

Vả lại Phật nói trong kinh Vô Lượng Thọrằng: “Ta nói kinh này khiến cho thấy được thân tướng và quốc độ của Phật Vô Lượng Thọ, hễ việc nên làm thì phải cầu mà làm, chớ không được lấy cớ ta diệt độ rồi mà sinh lòng nghi hoặc. Qua đến đời sau, thì các kinh diệt hết, nhưng ta vì lòng từ bi thương xót chúng sinh, nên chỉ lưu lại kinh này trụ thế một trăm năm. Nếu ai được gặp, thì túy chỗ ý nguyện của mình, đều nhờ thần độ thoát tất cả”.

Phật lại nói nữa rằng: “Sau khi kinh này diệt rồi, thì Phật pháp toàn không có nữa, chỉ lưu lại có bốn chữ “A Di Đà Phật” mà cứu độ chúng sinh đó thôi. Nếu ai không tin mà chê bai, thì phải đọa vào địa ngục mà chịu những sự thống khổ”.

Cho nên Ngài Thiên Thai nói: “Phải biết đức Phật kia rất có duyên với đời ác thế này”. Vậy nên gọi là có duyên.

3/ Vì sự giáo hóa của đức Di Đà có phần tương quan với Phật Thích Ca.

Trong kiếp quá khứ, thì đức Di Đà làm ngôi chuyển luân vương, tên là Vô Tránh Niệm: còn đức Thích Ca thì làm quan đại thần tên là Bảo Hải. Hai vua tôi đồng ở nơi thời kỳ Đức Phật Bảo Tạng mà phát bồ đề tâm.

Khi ấy, đức Thích Ca thì nguyện ở cõi Ta bà, đem những sự uế trược, sự cực khổ, sự thọ ích và sự tà ma não loạn mà giáo hóa chúng sinh, khiến cho nhàm chán xa lìa, mong thoát khỏi vòng sinh tử.

Còn đức A Di Đà thì nguyện ở cõi Cực Lạc, lấy sự thanh tịnh, sự an vui, sự sống lâu, và sự không thối chuyển mà bày tỏ cho chúng sinh, khiến đều khởi lòng ham mộ, rồi đem về cảnh giới vô vi.

Xem như vậy, thì biết sự hóa đạo của hai Ngài, thực là có phần liên quan đến nhau.

Vả lại, đương thời kỳ đức Thích Ca hiện thế, nói kinh Tam thừa giáo hóa chúng sinh, thì những số mà Ngài chưa độ được, đức A Di Đà độ cả. Cho nên trong các kinh Đại thừa, Phật hằng ân cần khen ngợi, khuyên bảo về sự vãng sinh là vì thế. Vậy nên gọi là tương quan.

Chúng ta phải biết rằng: Cũng bởi có ba nguyên nhân đã nói trên đó, nên chư Phật trong tam thế cũng chỉ tôn vinh đức A Di Đà, mà chúng sinh cả mười phương đều nguyện sinh về cõi Tịnh độ.

Vậy chúng ta cũng nên sớm phát tâm tri niệm, gắng chí cầu sinh, đến một ngày kia hầu dựa kề bên bóng quang minh, mà nương gởi cái thân thanh tịnh, tỏ long chân giác va chứng quả vô sinh. Khi ấy mươi phương chư Phật cũng đồng thọ ký cho ta, chớ đợi gì ta phải thân cận. Như vậy chẳng là chính đáng hay sao?

10/Hỏi:Nếu người tu hành chán bỏ chỗ khổ, ham tới chỗ vui, thì tâm còn nhiễm trước sự thương sự ghét, phân biệt cảnh tịnh cảnh uế như vậy, e chưa phải là chính đáng chăng?

Đáp: Ôi! Sự nhiễm trược ấy không phải như các món nhiễm trược ở thế giới; còn sự phân biệt ấy không phải như các thứ phân biệt về vọng tưởng. Chính là một phương pháp “Chuyển phàm thành thánh” rất quý báu của chư Phật trong mười phương đã từng làm và đã từng dùng, dạy bảo chúng sinh làm theo cách chứng nghiệm vậy.

Chúng ta phải biết rằng: Nếu không chán bỏ cái khổ và cái uế ấy, làm sao chuyển được thân phàm?còn nếu không ham muốn cái vui và cái sạch kia, làm sao thành được bậc thánh?

Cho nên từ phàm phu mà dự được thánh vị, rồi do thánh vị lần đến bậc Đẳng Giác, trải mấy phen từ thấp lên cao, cũng không khỏi cái tâm nham bỏ và ưa muốn ấy. Nếu lúc nào chứng ngôi Diệu Giác là cực quả rồi, thì khi ấy mới dứt hết điều thủ xả mà thế lý vô vi đặng.

Nên tiên đức nói rằng: “Nếu trong cải thủ xả ấy cùng cực rồi thì đối với cái không thủ xả kia cũng chẳng khác là vậy đó”.

Pháp môn Tịnh độ là một cái cơ ứng hóa của đức Thích Ca và đức A Di Đà đồng tạo lập ra.Phật này chỉ bảo cho chúng sinh chán bỏ chỗ khổ, còn Phật kia thì dắt dẫn chúng sinh về tới chỗ vui.

Nếu ta do cái tâm phân biệt lựa chọn ấy mà lìa được cõi này, về được cõi kia, rồi nhờ lấy thắng duyên đó mà thẳng tới lúc thành Phật, thì sự thủ xả có phụ phàng gì với ta đâu.

Thí dụ một chuyện này thì đủ hiểu.Giả như ta ở nhằm chỗ bùn lầy dơ bẩn, đi đâu thì thấy tay lấm chân bùn, thân hình lem luốc, không có cái gì là quang cảnh vẻ vang. Nếu có người chỉ cho ta một chỗ cao ráo sạch sẽ, có khe nước trong trẻo hằng năm chảy hoài, rồi bảo ta tới đó mà ở, trước là tắm gội cho hết sự ô nhiễm trong thân hình, sau là an hưởng phần sinh hoạt cho được cách tiêu sái,v..v..Vậy ta có nghe lời theo hay không?

Nếu ta nói: Bỏ chỗ dơ, đi tới chỗ sạch, thì tâm ta còn lựa chọn, chưa phải là tự nhiên, mà ta cứ đành chịu dơ vậy hoài, thì cái tâm ấy tức là tâm cố chấp.

Còn như ta nghe người nói, mà trong lòng vui mừng hớn hở, nong nã đi tới cảnh khe trong nước tốt kia, đặng làm chỗ thê thác và rửa sạch cái thân dơ bẩn luôn thể, thì trong lúc ta sạch rồi đó, nghĩ coi còn có tâm gì lựa chọn nữa hay không?

Vậy thì biết rằng: Nếu còn có sạch, có dơ, có khổ, có sướng, đối đãi với nhau, thì tâm còn có chán, có ưu phân biệt, lựa chọn. Chớ như thiệt hết dơ rồi, và không tự biết cái gì là sạch nữa, thì tâm thủ xả đâu còn mà chúng ta cần phải cố chấp như vậy.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
10/07/2015(Xem: 5845)
Hầu hết các kinh luận Đại thừa đa số đều thuyết minh tổng quát về pháp môn niệm Phật. Trên thực tế hình thành pháp môn Tịnh Độ phổ biến từ tư tưởng các bộ kinh căn bản như Kinh Bát Chu Tam Muội (Ban Châu Tam Muội), Kinh A Di Đà, Kinh Quán Vô Lượng Thọ, Kinh Vô Lượng Thọ, Kinh Hoa Nghiêm và Kinh Thủ Lăng Nghiêm và nhiều bộ kinh khác. Pháp niệm Phật đến với quần chúng ước tính khoảng mười tám thế kỷ qua (Tính từ khi Kinh Ban Châu Tam Muội được dịch tại Trung quốc năm 179 s.dl.), và pháp môn Tịnh Độ được hình thành và phát triển thời tổ sư Huệ Viễn (334-416 TL) cho đến ngày nay. Thực tế lịch sử đã chứng minh pháp môn niệm Phật đã đóng một vai trò quan trọng trong lĩnh vực truyền bá Phật giáo Đại thừa. Y cứ từ kinh điển liên quan Pháp môn niệm Phật, trên căn bản thì thiền sư Tông Mật (784-841), tổ thứ năm của tông Hoa Nghiêm đã phân thành bốn phương pháp niệm Phật. Đó là trì danh niệm Phật, quán tượng niệm Phật, quán tưởng niệm Phật và thật tướng niệm Phật. Từ thời đại Tổ Liên Trì về sau
25/06/2015(Xem: 6016)
Trong Phật pháp có nhiều pháp môn tu học học và hướng đến giác ngộ giải thoát. Giác ngộ là thấy rõ đạo lý duyên khởi của nhân sanh và vũ trụ. Giải thoát có nghĩa là dứt sự khổ đau luân hồi do tâm thức chấp thật ngã và thật pháp tạo vọng nghiệp. Chung quy tu tập theo Phật giáo nhận thức rõ giải thoát là từ tâm này, luân hồi sanh tử cũng do tâm này, vì tâm này là chủ nhân của muôn pháp. Kinh Tâm Địa Quán có dạy: “Tâm sanh thì pháp sanh,
07/05/2015(Xem: 6849)
Các con ơi! Ta vô cùng hoan hỷ đón nhận tất cả các con về thế giới Cực Lạc trang nghiêm thù thắng mà ta đã thiết lập để cho các con trở về tịnh dưỡng. Ta thật yên tâm khi các con về mái nhà chung tình này để được nghe pháp, tu tập mà không bị quấy nhiễu bởi lục trần nhiễm ô của thế giới Ta Bà. Tuy nhiên, các con ạ! Các con thấy đó. Đa số các con đều được hóa sanh ở những phẩm vị thấp, Trung phẩm và Hạ phẩm.
28/04/2015(Xem: 5866)
Người phương Tây và dân trí thức trong thời mạt pháp hầu như không tin pháp môn niệm phật cầu vãng sanh Cực Lạc. Họ không tin vì hai lý do. Thứ nhất họ cho rằng Phật A DI ĐÀ và Tịnh độ Cực Lạc là huyền thuyết. Thứ hai là Kinh sách Đại Thừa Phật Giáo không đáng tin cậy vì thường hiểu lầm là Đại thừa ra đời từ cuộc Tập Kết Kinh điển thứ thứ Tư, hơn 400 năm sau khi Đức Phật nhập niết bàn, cách thời Phật Thích Ca quá xa khiến cho kinh sách đại thừa có phần sai lệch và khó có thể kiểm chứng. Sau đây là những chân lý chứng minh kinh điển đại thừa Phật giáo và Pháp môn niệm Phật nói riêng là hoàn toàn chân thực, không hư dối. Những chân lý này được kiến giải một cách khách quan dựa trên những sự kiện lịch sử Phật giáo và những lời thuyết giảng của Đức Phật ghi lại trong Kinh điển Đại thừa xảy ra đúng với những sự kiện lịch sử sau thời Đức Phật và phù hợp với những thành tựu khoa học ngày nay.
28/04/2015(Xem: 6578)
Một đời giáo hóa của Đức Phật Thích Ca được khái quát hóa trong ngũ thời bát giáo mà theo ngài Trí Giả, Tổ sư sáng lập ra Tông Thiên Thai đã sử dụng ngũ thời để phân định trình tự thuyết pháp của đức Phật; dùng “Bát giáo” để phân biệt pháp môn được thuyết và nghi thức thuyết pháp. Ngũ thời được chia trình tự như sau:
10/03/2015(Xem: 7975)
Trong diễn đàn này nhiều quý bạn hữu đã nói về niệm Phật A-Di-Đà bốn chữ hay sáu chữ. Theo tôi thì chúng ta đã học Mười hạnh Phổ-Hiền thì bình-đẳng kính chung không từ một ai, nhưng tin vào lời người ta nói thì phải có sự quán xét đúng hay sai. Đặc biệt với Phật pháp và giáo lý nhà Phật thì đòi hỏi phải thật nghiêm túc nếu không sai một ly đi vạn dặm, có khi mất hết cả công sức bao nhiêu năm tu hành bỏ ra mà không thành tựu, thậm chí còn sa hố là phỉ báng chính pháp, phát đi những điều không đúng về giáo lý của Phật.
23/01/2015(Xem: 7099)
Từ khi Phật giáo hòa nhập vào văn hóa nhân loại thì bắt đầu ý nghĩa đón xuân cổ truyền được mở rộng thành ý nghĩa đón Xuân Di Lặc. Từ đó, đón xuân trong quan niệm người Đông Á mang đậm bản sắc văn hóa Phật giáo và văn hóa nhân loại. Chúng ta vận dụng tính nhân bản đạo đức Phật giáo làm tô đẹp ý nghĩa mùa xuân cổ truyền và chuyển hóa những tập quán tiêu cực để quần chúng có thêm chánh kiến trong sinh hoạt đón xuân hằng năm.
23/01/2015(Xem: 6382)
Trong sinh hoạt hằng ngày của chúng ta thường thể hiện và vận dụng trăm pháp rất thực tế, nó là tổng hợp nội dung của hiện tượng tâm lý, những yếu tố cơ bản nhất vốn có trong con người, cũng do đây mà chúng ta có thể biết điều này và biết được điều khác. Chúng ta vì người mà ứng xử, hay hóa độ chúng sanh mà không hiểu hiện tượng tâm lý con người thì rất chướng ngại. Một trăm pháp này bao gồm trong pháp thế gian và pháp xuất thế gian, lộ trình tu học từ địa vị phàm phu đến quả vị thánh, là nền tảng cơ bản của người học Phật, cho nên mọi người cần phải học môn này.
23/01/2015(Xem: 7176)
Chúng ta nghiên cứu xuyên suốt tư tưởng Phật học nhận thức được rằng, có hai pháp môn cần phải tham cứu trước. Một là “Luật Tông” là căn bản nhất của tất cả các pháp môn. Các tông phái Phật học rất nhiều do giới luật mà tồn tại. Khi Đức Phật sắp nhập diệt, đã từng phó chúc cho A Nan rằng: “Sau khi Thế Tôn nhập diệt, các thầy hãy lấy giới luật làm thầy, nương vào giới luật mà tu hành để được giải thoát giác ngộ”. Đây là vấn đề Phật học thường đề cập, đó là điều chắc thật không cần biện giải nhiều lời. Hai là “Duy Thức”, thông đạt tất cả nguyên lý các pháp. Kinh Hoa Nghiêm dạy: “Tâm như người thợ vẽ,
23/01/2015(Xem: 6039)
Bản văn này giới thiệu ý nghĩa căn bản của Thiền và niệm Phật, luận thuật quan niệm các học giả Phật giáo đối với sự phát triển tư tưởng Thiền tông và Niệm Phật. Từ trên khái niệm đến triển khai rõ ý nghĩa và nội dung vô cùng phong phú của Thiền và niệm Phật, đặc biệt chú trọng về phương diện lịch sử từ sau thời đại nhà Tùy để trình bày mối quan hệ về Thiền tông và niệm Phật. Ở đây tóm lược hệ thống ý nghĩa quá trình diễn biến về Thiền và niệm Phật trong mối quan hệ mang tính đặc trưng theo từng giai đoạn. Sau cùng, luận văn từ trong diễn biến lịch sử của Thiền và niệm Phật để đưa đến kết luận xu thế dung hợp giữa Thiền và Tịnh độ theo hướng đi của Phật giáo Trung quốc. Căn cứ hiện thực của lịch sử Phật giáo và đưa đến nhận định rằng: Từ sau thời Tống thì Thiền Tịnh song tu là phương pháp mô phạm căn bản của sự tu trì Phật giáo Trung quốc. Tin chắc rằng, trong tương lai Phật giáo Trung quốc vẫn duy trì năng lực truyền thống Phật pháp vốn có của chính mình.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567