Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

04-Lắng nghe

29/06/201115:25(Xem: 5063)
04-Lắng nghe

NGHĨ VỀ NHỮNG ĐIỀU NÀY
Nguyên tác: Think on These Thingsby Jiddu Krishnamurti
Lời dịch: ÔNG KHÔNG Bản dịch 2006 – Hiệu đính 7- 2008

Chương 4
Lắng nghe

Tại sao các bạn lại ở đây đang lắng nghe tôi? Bạn có khi nào suy nghĩ tại sao bạn lắng nghe người ta hay không? Và lắng nghe một ai đó có nghĩa là gì? Tất cả các bạn ở đây ngồi trước một người đang nói chuyện. Bạn đang lắng nghe để nghe một điều gì đó mà sẽ khẳng định, phù hợp với những tư tưởng riêng của bạn, hay bạn đang lắng nghe để tìm ra? Bạn có thấy được sự khác biệt hay không? Lắng nghe để tìm ra có một ý nghĩa hoàn toàn khác hẳn với lắng nghe chỉ để nghe cái đó mà sẽ khẳng định điều gì bạn suy nghĩ. Nếu bạn ở đây chỉ để có sự khẳng định, để được khuyến khích trong cách suy nghĩ riêng của bạn, vậy thì lắng nghe của bạn chẳng có ý nghĩa bao nhiêu. Nhưng, nếu bạn lắng nghe để tìm ra, vậy thì cái trí của bạn được tự do, không gắn kết vào bất kỳ điều gì; nó rất nhanh nhẹn, sắc bén, sinh động, tìm hiểu, tò mò, và vì vậy có khả năng khám phá. Do đó, liệu không quan trọng để suy xét tại sao bạn lắng nghe, và bạn đang lắng nghe cái gì hay sao?

Bạn có khi nào ngồi rất yên lặng, không phải với chú ý của bạn cố định vào một điều gì đó, không tạo ra một nỗ lực để tập trung, nhưng với cái trí rất yên lặng, thật tĩnh. Lúc đó bạn nghe mọi thứ, phải vậy không? Bạn nghe những tiếng ồn xa thật xa cũng như những tiếng ồn ở gần hơn và những tiếng ồn rất gần bên, những âm thanh tức khắc – mà có nghĩa, thật sự, rằng là bạn đang lắng nghe mọi thứ. Cái trí của bạn không bị giới hạn bởi một cái kênh nhỏ xíu chật hẹp nào. Nếu bạn có khả năng lắng nghe trong cách này, lắng nghe thoải mái, không có căng thẳng, bạn sẽ thấy được một thay đổi lạ thường đang xảy ra bên trong bạn, thay đổi xảy ra mà không có ý muốn của bạn, mà không có nài nỉ của bạn; và trong thay đổi đó có vẻ đẹp lẫn chiều sâu tuyệt vời của thấu triệt.

Hãy thử nó đi, thử ngay lúc này. Khi bạn lắng nghe tôi, lắng nghe không chỉ riêng tôi, mà còn mọi thứ quanh bạn. Lắng nghe tất cả những tiếng chuông kia, những tiếng chuông của những con bò và những đền chùa; lắng nghe tiếng xe lửa xa xa và những chiếc xe ngựa trên đường phố; và sau đó nếu bạn kề cận hơn sự tĩnh lặng và cũng lắng nghe tôi nữa, bạn sẽ thấy rằng có một chiều sâu tuyệt vời của lắng nghe, nhưng để làm được việc này bạn phải có một cái trí rất yên lặng. Nếu bạn thực sự muốn lắng nghe, cái trí của bạn tự nhiên yên lặng, phải vậy không? Lúc đó bạn không bị xao lãng bởi một điều gì đó đang xảy ra kế cận bạn; cái trí của bạn yên lặng bởi vì bạn đang lắng nghe mọi thứ thật thăm thẳm. Nếu bạn lắng nghe theo lối này cùng sự thanh thản, cùng một hân hoan nào đó, bạn sẽ phát giác một chuyển đổi kinh ngạc đang xảy ra trong tâm hồn của bạn, trong cái trí của bạn – một chuyển đổi mà bạn chưa từng suy nghĩ về nó, hay không có cách nào gây ra được.

Tư tưởng là một sự việc lạ lùng, phải vậy không? Bạn có biết tư tưởng là gì hay không? Tư tưởng hay suy nghĩ đối với mọi người là điều gì đó được đặt vào cùng nhau bởi cái trí, và họ chiến đấu với những tư tưởng của họ. Nhưng nếu bạn có thể thực sự lắng nghe mọi thứ – đến tiếng vỗ của dòng nước đập vào bờ sông, đến bản nhạc của chim chóc, đến tiếng khóc của một em bé, đến người mẹ đang la mắng bạn, đến một người bạn đang dọa nạt bạn, đến người chồng hay người vợ đang càu nhàu bạn – lúc đó bạn sẽ phát giác rằng bạn thoát khỏi những từ ngữ, thoát khỏi những diễn tả thuần túy từ ngữ và vì vậy toàn thân tâm của bạn xé toang ra.

Và rất quan trọng khi không còn bị trói buộc trong những diễn tả thuần túy từ ngữ bởi vì, xét cho cùng, tất cả chúng ta đều muốn điều gì? Dù chúng ta còn trẻ hay già nua, dù chúng ta không có kinh nghiệm hay đầy những năm tháng, tất cả chúng ta đều muốn hạnh phúc, phải vậy không? Là những em học sinh chúng ta muốn được vui vẻ khi chơi đùa những trò chơi của chúng ta, trong khi học hành, trong khi làm tất cả những công việc nhỏ bé mà chúng ta muốn làm. Khi chúng ta lớn lên chúng ta tìm kiếm hạnh phúc trong những sở hữu, trong tiền bạc, trong việc có một ngôi nhà đẹp, một người vợ hay người chồng thông cảm, một việc làm tốt. Khi những việc này không còn thỏa mãn chúng ta nữa, chúng ta nhảy sang một việc khác. Chúng ta nói, “Tôi phải được tách rời và sau đó tôi sẽ hạnh phúc.” Thế là chúng ta thực hiện sự tách rời. Chúng ta rời gia đình, chúng ta trao lại tài sản của chúng ta và rút lui khỏi thế giới này. Hay chúng ta tham gia vào một tổ chức tôn giáo nào đó, nghĩ rằng chúng ta sẽ được hạnh phúc bằng cách cùng nhau họp mặt và nói chuyện về tình huynh đệ, bằng cách theo sau một vị lãnh đạo, một vị đạo sư, một ông Thầy, một lý tưởng, bằng cách tin tưởng điều gì đó mà thực chất là một tự lừa gạt, một ảo tưởng, một mê tín.

Bạn có hiểu rõ điều gì tôi đang nói không?

Khi bạn chải tóc của bạn, khi bạn mặc vào bộ quần áo sạch sẽ và trang điểm cho bạn trông đẹp đẽ thêm, đó là mọi ham muốn của bạn để được hạnh phúc, đúng vậy chứ? Khi bạn đậu những kỳ thi của bạn và thêm vài chữ cái nào đó của bảng mẫu tự trước danh tính của bạn, khi bạn có một việc làm, có được một ngôi nhà và những tài sản khác, khi bạn lập gia đình và có con cái, khi bạn tham gia một tổ chức tôn giáo nào đó mà người lãnh đạo khẳng định rằng họ có những thông điệp từ những bậc Thầy không nhìn thấy được – đằng sau tất cả những việc đó có sự thôi thúc lạ thường này, sự thúc ép này để tìm ra hạnh phúc.

Nhưng, bạn thấy không, hạnh phúc không đến dễ dàng như thế đâu, bởi vì hạnh phúc không ở trong những sự việc này. Bạn có lẽ có vui thú, bạn có lẽ tìm được một thỏa mãn mới, nhưng sớm hay muộn nó trở thành nhàm chán mệt mỏi. Bởi vì không có hạnh phúc nào bền vững trong những sự việc mà chúng ta biết. Nụ hôn được theo sau những giọt nước mắt, tiếng cười theo sau bởi đau khổ và phân ly. Mọi thứ đều héo tàn mục nát. Vì vậy, trong khi bạn còn nhỏ, bạn phải bắt đầu tìm ra cái sự việc lạ lùng này là gì mà được gọi là hạnh phúc. Đó là một phần tối yếu của giáo dục.

Hạnh phúc không đến khi bạn đang nỗ lực tìm kiếm nó – và đó là điều bí mật kỳ lạ nhất, mặc dù rất dễ dàng khi nói về nó. Tôi có thể diễn tả hạnh phúc trong vài từ ngữ đơn giản; nhưng, bằng cách chỉ lắng nghe tôi và lặp lại điều gì bạn đã nghe, bạn sẽ không có hạnh phúc đâu. Hạnh phúc lạ thường lắm; nó đến khi bạn không đang tìm kiếm nó. Khi bạn không đang tạo ra một nỗ lực để được hạnh phúc, rồi thì bất thình lình, một cách lặng lẽ, hạnh phúc ở đó, được sinh ra từ sự tinh khiết, từ sự trìu mến của thân tâm. Nhưng những việc đó đòi hỏi nhiều hiểu rõ – không phải tham gia một tổ chức hay cố gắng trở thành một người nào đó. Sự thật không phải là một cái gì đó để được thành tựu. Sự thật hiện hữu khi cái trí và tâm hồn của bạn buông bỏ tất cả ý thức của cố gắng và bạn không còn nỗ lực để trở thành một người nào đó; nó ở đó khi cái trí rất yên lặng, lắng nghe không thời gian mọi thứ đang xảy ra. Bạn có lẽ lắng nghe những từ ngữ này nhưng, muốn hạnh phúc hiện hữu, bạn phải tìm ra phương cách để cái trí được tự do khỏi tất cả sợ hãi.

Chừng nào bạn còn sợ hãi bất kỳ ai hay bất kỳ sự việc gì, không thể có hạnh phúc. Không thể có hạnh phúc chừng nào bạn còn sợ hãi cha mẹ của bạn, những giáo viên của bạn, sợ hãi không đậu những kỳ thi, sợ hãi không tiến bộ, sợ hãi không đến gần được vị thầy hơn, sợ hãi không đến gần sự thật hơn, hay sợ hãi không được chấp thuận, bị vỗ vào lưng đuổi đi. Nhưng thực sự nếu bạn không sợ hãi bất kỳ cái gì cả, vậy thì bạn sẽ tìm ra – khi bạn thức dậy một buổi sáng, hay khi bạn đi dạo một mình – rằng là bỗng nhiên một sự việc lạ thường xảy ra: không mời mọc, không nài nỉ, không tìm kiếm, cái đó mà có lẽ được gọi là tình yêu, sự thật, hạnh phúc, bỗng nhiên ở đó.

Đó là lý do tại sao bạn phải được giáo dục đúng đắn ngay khi bạn còn nhỏ là điều rất quan trọng. Điều gì chúng ta gọi là giáo dục hiện nay không là giáo dục gì cả, bởi vì không một ai nói cho bạn biết về tất cả những việc này. Những giáo viên của bạn chuẩn bị cho bạn đậu những kỳ thi, nhưng họ lại không nói với bạn về cách sống, mà là quan trọng nhất; bởi vì chẳng có bao nhiêu người biết cách sống như thế nào. Hầu hết chúng ta chỉ cố mà sống, bằng cách nào đó chúng ta lê lết theo và vì vậy cuộc sống trở thành một sự việc kinh hoàng. Thực ra sống đòi hỏi nhiều tình yêu, một cảm thấy vô cùng của tĩnh lặng, một đơn giản nhẹ nhàng cùng sự phong phú của trải nghiệm; nó yêu cầu một cái trí có khả năng suy nghĩ rất rõ ràng, không bị giới hạn bởi thành kiến hay mê tín, bởi hy vọng hay sợ hãi. Tất cả việc này là cuộc sống, và nếu bạn không đang được giáo dục cách sống, vậy thì giáo dục không có ý nghĩa gì cả. Bạn có lẽ học hỏi để rất ngăn nắp, để có cách cư xử đúng đắn, và bạn có lẽ đậu tất cả các kỳ thi; nhưng, trao tầm quan trọng chính đến những sự việc hời hợt này trong khi toàn cấu trúc xã hội đang vỡ vụn, giống như đang lau chùi và đánh bóng những móng tay của bạn trong khi ngôi nhà đang bị cháy. Bạn thấy không, không một ai nói với bạn về tất cả việc này, không một ai tìm hiểu nó cùng bạn. Khi bạn trải qua hết ngày này sang ngày khác học tập những môn học nào đó – toán, lịch sử, địa lý – bạn cũng nên dành nhiều thời gian nói chuyện về những vấn đề sâu sắc hơn, bởi vì việc này cho bạn sự phong phú của cuộc sống.

Người hỏi: Thờ phụng Chúa không là tôn giáo thực sự hay sao?

Krishnamurti: Trước hết, chúng ta hãy tìm ra điều gì không là tôn giáo. Đó không là sự tiếp cận đúng đắn hay sao? Nếu chúng ta có thể hiểu được điều gì không là tôn giáo, vậy thì chúng ta có lẽ bắt đầu trực nhận cái gì đó. Nó giống như lau sạch một cái cửa sổ bẩn – rồi qua nó người ta bắt đầu nhìn thấy rất rõ ràng. Vì vậy chúng ta hãy xem thử liệu rằng chúng ta có thể hiểu rõ và lau sạch cái trí của chúng ta khỏi điều gì không là tôn giáo; chúng ta đừng nói rằng, “Tôi sẽ suy nghĩ về nó” và chỉ đùa giỡn loanh quanh với những từ ngữ. Có lẽ bạn có thể làm điều đó, nhưng hầu hết những người lớn tuổi đã bị kẹt cứng rồi; họ được củng cố một cách thanh thản trong điều gì không là tôn giáo và họ không muốn bị quấy rầy.

Vì vậy, điều gì không là tôn giáo? Bạn có khi nào suy nghĩ về điều đó hay chưa? Bạn đã được dạy dỗ lặp đi lặp lại rằng tôn giáo phải là gì – niềm tin trong Chúa và hàng tá sự việc khác – nhưng không một ai đã yêu cầu bạn tìm ra điều gì không là tôn giáo và bây giờ bạn và tôi sắp sửa tìm ra cho chính chúng ta.

Khi lắng nghe tôi, hay lắng nghe bất kỳ người nào khác, đừng chịu chấp nhận điều gì được nói ra, nhưng hãy lắng nghe để nhận thức rõ sự thật của vấn đề. Nếu ngay khi bạn trực nhận cho chính mình điều gì không là tôn giáo, vậy thì suốt cuộc sống của bạn không có vị giáo sĩ hay quyển sách nào có thể lừa gạt bạn, không còn một ý thức sợ hãi nào sẽ tạo ra một ảo tưởng mà có lẽ khiến bạn tin tưởng và tuân theo. Muốn tìm được điều gì không là tôn giáo bạn phải bắt đầu ở mức độ hàng ngày, và sau đó bạn có thể leo lên. Muốn đi xa bạn phải bắt đầu từ rất gần, và bước gần nhất là bước quan trọng nhất. Vì vậy, điều gì không là tôn giáo? Những nghi lễ là tôn giáo phải không? Thực hành việc thờ cúng lặp đi lặp lại – đó là tôn giáo à?

Giáo dục thực sự là học hỏi suy nghĩ như thế nào, không là suy nghĩ cái gì. Nếu bạn biết suy nghĩ như thế nào, nếu bạn thực sự có khả năng đó, vậy thì bạn là con người tự do – tự do khỏi những tín điều, những mê tín, những lễ nghi – và vì vậy bạn có thể tìm được tôn giáo là gì.

Rõ ràng những lễ nghi không là tôn giáo, bởi vì trong khi thực hiện những lễ nghi bạn chỉ đang lặp lại một công thức đã được truyền xuống cho bạn. Bạn có lẽ tìm ra một vui thú nào đó, trong việc thực hiện những lễ nghi, giống như những người khác đã làm trong khi hút thuốc lá hay nhậu nhẹt; nhưng đó là tôn giáo hay sao? Khi thực hiện những lễ nghi bạn đang làm điều gì đó mà bạn chẳng biết gì cả. Người cha và người ông của bạn làm điều đó, vì vậy bạn làm nó, và nếu bạn không làm họ sẽ quở mắng bạn. Đó không là tôn giáo phải vậy không?

Và có cái gì trong ngôi đền? Một hình ảnh trang nghiêm được chế tạo theo thời trang bởi một con người tùy theo sự tưởng tượng riêng của anh ấy. Hình ảnh đó có lẽ là một biểu tượng, nhưng nó vẫn chỉ là một hình ảnh, nó không là sự vật thực sự. Một biểu tượng, một từ ngữ không là sự vật mà nó đại diện. Từ ngữ “cửa ra vào” không là cái cửa ra vào, phải vậy không? Từ ngữ không là sự vật. Chúng ta đi vào ngôi đền để thờ phụng – cái gì? Một hình ảnh giả sử là một biểu tượng; nhưng biểu tượng không phải là sự vật thực sự. Vì vậy tại sao lại đi đến đó? Đây là những sự thật; tôi không đang chỉ trích; và, vì chúng là những sự thật, tại sao lại phiền muộn về việc ai đi đến ngôi đền, dù rằng đó là người có liên quan hay người không liên quan, người theo Bà la môn giáo hay không theo Bà la môn giáo? Ai thèm lưu tâm? Bạn thấy không, những người lớn tuổi đã biến biểu tượng thành một tôn giáo và rồi họ sẵn sàng cãi cọ, đánh nhau, giết chóc; nhưng Chúa không có ở đó. Chúa không bao giờ ở trong biểu tượng. Vì vậy sự thờ phụng một biểu tượng hay một hình ảnh không là tôn giáo.

Và niềm tin có là tôn giáo hay không? Điều này phức tạp hơn nhiều. Chúng ta đã bắt đầu từ gần, và bây giờ chúng ta sắp sửa tìm hiểu xa hơn một chút. Niềm tin là tôn giáo hay sao? Những người Thiên chúa giáo tin tưởng một cách, những người Ấn độ giáo tin tưởng cách khác, những người Hồi giáo tin tưởng cách khác, những người Phật giáo lại tin tưởng cách khác và tất cả họ đều nghĩ rằng chính họ là những người rất tôn giáo; tất cả họ có những ngôi đền, những thần thánh, những biểu tượng, những niềm tin của họ. Và đó là tôn giáo hay sao? Đó là tôn giáo khi bạn tin tưởng Chúa, tin tưởng Rama, tin tưởng Rita, tin tưởng Ishawa, và tất cả các loại sự việc đó hay sao? Làm thế nào bạn có được niềm tin như thế? Bạn tin tưởng bởi vì người cha và người ông của bạn tin tưởng; hay đã đọc điều gì đó mà một vị Thầy giống như Shankara hay Buddha chắc là đã nói, bạn tin tưởng nó và nói rằng nó là sự thật. Hầu hết các bạn chỉ tin tưởng điều gì kinh Gita nói, vì vậy bạn không tìm hiểu nó rõ ràng và đơn giản như bạn làm với bất kỳ quyển sách nào khác; bạn không cố gắng tìm ra điều gì là sự thật.

Chúng ta đã thấy rằng những lễ nghi không là tôn giáo, rằng đi đến một ngôi đền không là tôn giáo, và rằng niềm tin không là tôn giáo, niềm tin phân chia con người. Những người Thiên chúa giáo có những niềm tin và vì vậy phân chia cả với những người của những niềm tin khác lẫn với chính họ; những người theo Ấn độ giáo luôn luôn đầy dẫy những kẻ thù bởi vì họ tin chính họ là những người Bà la môn giáo hay không là Bà la môn giáo, điều này hay điều kia. Vì vậy niềm tin tạo ra kẻ thù, phân chia, hủy diệt, và rõ ràng điều đó không là tôn giáo.

Vậy thì tôn giáo là gì? Nếu bạn đã lau chùi sạch sẽ cái cửa sổ rồi – mà có nghĩa là bạn thực sự chấm dứt những lễ nghi, từ bỏ tất cả những niềm tin, không còn tuân phục bất kỳ người lãnh đạo hay vị đạo sư nào – lúc đó cái trí của bạn, giống như cái cửa sổ, được sạch sẽ, được láng bóng và bạn có thể nhìn thấy rất rõ ràng từ cái trí đó. Khi cái trí được lau chùi sạch sẽ không còn những hình ảnh, không còn lễ nghi, không còn niềm tin, không còn biểu tượng, không còn tất cả những từ ngữ, những bùa chú và những câu kinh lặp lại, và không còn tất cả sợ hãi, vậy thì điều gì bạn thấy sẽ là sự thật, không thời gian, vĩnh cửu, mà có lẽ được gọi là Chúa; nhưng công việc này đòi hỏi sự thấu triệt, sự hiểu rõ, sự kiên nhẫn vô hạn, và nó chỉ dành riêng cho những người thực sự tìm hiểu tôn giáo là gì và theo đuổi nó ngày sang ngày đến khi tìm được. Chỉ có những người như thế mới biết tôn giáo thực sự là gì. Những người còn lại chỉ là đang mấp máy những từ ngữ, và tất cả những đồ trang sức dùng điểm tô thân thể của họ, những lễ nghi của họ và tiếng leng keng của những cái chuông – tất cả việc đó đều là mê tín mà không có bất kỳ ý nghĩa nào cả. Chỉ khi nào cái trí phản kháng tất cả cái gì tạm gọi là tôn giáo thì nó mới tìm được sự thật, Chúa.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
25/06/2015(Xem: 6681)
Trong Phật pháp có nhiều pháp môn tu học học và hướng đến giác ngộ giải thoát. Giác ngộ là thấy rõ đạo lý duyên khởi của nhân sanh và vũ trụ. Giải thoát có nghĩa là dứt sự khổ đau luân hồi do tâm thức chấp thật ngã và thật pháp tạo vọng nghiệp. Chung quy tu tập theo Phật giáo nhận thức rõ giải thoát là từ tâm này, luân hồi sanh tử cũng do tâm này, vì tâm này là chủ nhân của muôn pháp. Kinh Tâm Địa Quán có dạy: “Tâm sanh thì pháp sanh,
07/05/2015(Xem: 7670)
Các con ơi! Ta vô cùng hoan hỷ đón nhận tất cả các con về thế giới Cực Lạc trang nghiêm thù thắng mà ta đã thiết lập để cho các con trở về tịnh dưỡng. Ta thật yên tâm khi các con về mái nhà chung tình này để được nghe pháp, tu tập mà không bị quấy nhiễu bởi lục trần nhiễm ô của thế giới Ta Bà. Tuy nhiên, các con ạ! Các con thấy đó. Đa số các con đều được hóa sanh ở những phẩm vị thấp, Trung phẩm và Hạ phẩm.
28/04/2015(Xem: 6554)
Người phương Tây và dân trí thức trong thời mạt pháp hầu như không tin pháp môn niệm phật cầu vãng sanh Cực Lạc. Họ không tin vì hai lý do. Thứ nhất họ cho rằng Phật A DI ĐÀ và Tịnh độ Cực Lạc là huyền thuyết. Thứ hai là Kinh sách Đại Thừa Phật Giáo không đáng tin cậy vì thường hiểu lầm là Đại thừa ra đời từ cuộc Tập Kết Kinh điển thứ thứ Tư, hơn 400 năm sau khi Đức Phật nhập niết bàn, cách thời Phật Thích Ca quá xa khiến cho kinh sách đại thừa có phần sai lệch và khó có thể kiểm chứng. Sau đây là những chân lý chứng minh kinh điển đại thừa Phật giáo và Pháp môn niệm Phật nói riêng là hoàn toàn chân thực, không hư dối. Những chân lý này được kiến giải một cách khách quan dựa trên những sự kiện lịch sử Phật giáo và những lời thuyết giảng của Đức Phật ghi lại trong Kinh điển Đại thừa xảy ra đúng với những sự kiện lịch sử sau thời Đức Phật và phù hợp với những thành tựu khoa học ngày nay.
28/04/2015(Xem: 7316)
Một đời giáo hóa của Đức Phật Thích Ca được khái quát hóa trong ngũ thời bát giáo mà theo ngài Trí Giả, Tổ sư sáng lập ra Tông Thiên Thai đã sử dụng ngũ thời để phân định trình tự thuyết pháp của đức Phật; dùng “Bát giáo” để phân biệt pháp môn được thuyết và nghi thức thuyết pháp. Ngũ thời được chia trình tự như sau:
10/03/2015(Xem: 9108)
Trong diễn đàn này nhiều quý bạn hữu đã nói về niệm Phật A-Di-Đà bốn chữ hay sáu chữ. Theo tôi thì chúng ta đã học Mười hạnh Phổ-Hiền thì bình-đẳng kính chung không từ một ai, nhưng tin vào lời người ta nói thì phải có sự quán xét đúng hay sai. Đặc biệt với Phật pháp và giáo lý nhà Phật thì đòi hỏi phải thật nghiêm túc nếu không sai một ly đi vạn dặm, có khi mất hết cả công sức bao nhiêu năm tu hành bỏ ra mà không thành tựu, thậm chí còn sa hố là phỉ báng chính pháp, phát đi những điều không đúng về giáo lý của Phật.
23/01/2015(Xem: 7675)
Từ khi Phật giáo hòa nhập vào văn hóa nhân loại thì bắt đầu ý nghĩa đón xuân cổ truyền được mở rộng thành ý nghĩa đón Xuân Di Lặc. Từ đó, đón xuân trong quan niệm người Đông Á mang đậm bản sắc văn hóa Phật giáo và văn hóa nhân loại. Chúng ta vận dụng tính nhân bản đạo đức Phật giáo làm tô đẹp ý nghĩa mùa xuân cổ truyền và chuyển hóa những tập quán tiêu cực để quần chúng có thêm chánh kiến trong sinh hoạt đón xuân hằng năm.
23/01/2015(Xem: 7107)
Trong sinh hoạt hằng ngày của chúng ta thường thể hiện và vận dụng trăm pháp rất thực tế, nó là tổng hợp nội dung của hiện tượng tâm lý, những yếu tố cơ bản nhất vốn có trong con người, cũng do đây mà chúng ta có thể biết điều này và biết được điều khác. Chúng ta vì người mà ứng xử, hay hóa độ chúng sanh mà không hiểu hiện tượng tâm lý con người thì rất chướng ngại. Một trăm pháp này bao gồm trong pháp thế gian và pháp xuất thế gian, lộ trình tu học từ địa vị phàm phu đến quả vị thánh, là nền tảng cơ bản của người học Phật, cho nên mọi người cần phải học môn này.
23/01/2015(Xem: 7806)
Chúng ta nghiên cứu xuyên suốt tư tưởng Phật học nhận thức được rằng, có hai pháp môn cần phải tham cứu trước. Một là “Luật Tông” là căn bản nhất của tất cả các pháp môn. Các tông phái Phật học rất nhiều do giới luật mà tồn tại. Khi Đức Phật sắp nhập diệt, đã từng phó chúc cho A Nan rằng: “Sau khi Thế Tôn nhập diệt, các thầy hãy lấy giới luật làm thầy, nương vào giới luật mà tu hành để được giải thoát giác ngộ”. Đây là vấn đề Phật học thường đề cập, đó là điều chắc thật không cần biện giải nhiều lời. Hai là “Duy Thức”, thông đạt tất cả nguyên lý các pháp. Kinh Hoa Nghiêm dạy: “Tâm như người thợ vẽ,
23/01/2015(Xem: 6569)
Bản văn này giới thiệu ý nghĩa căn bản của Thiền và niệm Phật, luận thuật quan niệm các học giả Phật giáo đối với sự phát triển tư tưởng Thiền tông và Niệm Phật. Từ trên khái niệm đến triển khai rõ ý nghĩa và nội dung vô cùng phong phú của Thiền và niệm Phật, đặc biệt chú trọng về phương diện lịch sử từ sau thời đại nhà Tùy để trình bày mối quan hệ về Thiền tông và niệm Phật. Ở đây tóm lược hệ thống ý nghĩa quá trình diễn biến về Thiền và niệm Phật trong mối quan hệ mang tính đặc trưng theo từng giai đoạn. Sau cùng, luận văn từ trong diễn biến lịch sử của Thiền và niệm Phật để đưa đến kết luận xu thế dung hợp giữa Thiền và Tịnh độ theo hướng đi của Phật giáo Trung quốc. Căn cứ hiện thực của lịch sử Phật giáo và đưa đến nhận định rằng: Từ sau thời Tống thì Thiền Tịnh song tu là phương pháp mô phạm căn bản của sự tu trì Phật giáo Trung quốc. Tin chắc rằng, trong tương lai Phật giáo Trung quốc vẫn duy trì năng lực truyền thống Phật pháp vốn có của chính mình.
23/01/2015(Xem: 7294)
Duy thức giảng về vấn đề gì? Tư tưởng trọng tâm của duy thức là cải tạo tâm địa. Kinh Hoa Nghiêm giảng: “Tâm như người thợ vẽ, vẽ ra hết cả thế gian; năm ấm cũng từ tâm sanh, tâm tạo ra tất cả pháp”. Kinh Tâm Địa Quán có dạy: “Tâm sanh thì pháp sanh, tâm diệt thì pháp diệt. Tâm nhiễm thì thế giới nhiễm, tâm tịnh thì thế giới tịnh”. Nếu tâm chúng ta tham, sân, si quá nặng thì hình thành hiện tượng nhiễm ô, tâm chúng ta thanh tịnh, nội tâm thanh tịnh; dùng tâm thanh tịnh, tâm hiền lành thì có thể hình thành hiện thực thế giới thanh tịnh hòa bình. Duy thức học chính là thuyết minh nguyên lý này: “Ba cõi do tâm tạo, vạn pháp do thức sanh”.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]