Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

25-Sống không nỗ lực

29/06/201115:25(Xem: 4634)
25-Sống không nỗ lực

NGHĨ VỀ NHỮNG ĐIỀU NÀY
Nguyên tác: Think on These Thingsby Jiddu Krishnamurti
Lời dịch: ÔNG KHÔNG Bản dịch 2006 – Hiệu đính 7- 2008

Chương 25
Sống không nỗ lực

Bạn có khi nào thắc mắc tại sao khi con người lớn lên họ dường như mất đi tất cả niềm vui trong cuộc sống? Lúc này hầu hết các bạn còn trẻ và khá hạnh phúc; bạn có những vấn đề nhỏ xíu của bạn, có những kỳ thi để lo âu, nhưng bất chấp những việc đó trong cuộc sống của bạn có một hân hoan nào đó, phải vậy không? Có sự chấp nhận dễ dàng, cùng lúc về cuộc sống, sự quan sát nhẹ nhàng vui vẻ về mọi thứ. Và tại sao khi lớn lên chúng ta dường như đánh mất đi tánh thân mật vui vẻ về một cái gì đó ở bên ngoài, một cái gì đó có ý nghĩa lớn hơn. Tại sao có quá nhiều người, khi chúng ta lớn lên để tạm gọi là trưởng thành lại trở nên đờ đẫn, vô cảm với hạnh phúc, với vẻ đẹp, với những bầu trời khoáng đạt và quả đất tuyệt vời?

Bạn biết không, khi người ta hỏi chính mình câu hỏi này, nhiều giải thích nảy ra trong cái trí. Chúng ta quá quan tâm đến chính chúng ta – đó là một lời giải thích. Chúng ta đấu tranh để trở thành một ai đó, để thành tựu và duy trì một vị trí nào đó; chúng ta có con cái và những trách nhiệm khác, và chúng ta phải kiếm tiền. Tất cả những sự việc ở bên ngoài này chẳng mấy chốc đè nặng chúng ta, vì vậy chúng ta mất đi hân hoan của đang sống. Hãy nhìn những bộ mặt già hơn quanh bạn, nhận thấy hầu hết mọi người đều buồn bã làm sao, quá tiều tụy và bệnh tật, khép kín, lãnh đạm và thỉnh thoảng loạn thần kinh, không có một nụ cười. Bạn không hỏi chính mình tại sao à? Và thậm chí khi chúng ta hỏi tại sao, hầu hết chúng ta dường như được thỏa mãn với những lời giải thích hời hợt.

Chiều hôm qua tôi thấy một con thuyền với cánh buồm căng gió, được đưa đi bởi gió Tây. Nó là một con thuyền lớn, chất đầy củi chở về thị trấn. Mặt trời đang lặn, và con thuyền này tương phản với bầu trời có vẻ đẹp kinh ngạc. Người chèo thuyền chỉ lái nó, không chút nỗ lực, vì cơn gió đang làm mọi công việc. Tương tự như vậy, nếu mỗi người chúng ta có thể hiểu rõ vấn đề của tranh đấu và xung đột, vậy thì tôi nghĩ rằng chúng ta có thể sống không còn nỗ lực, hạnh phúc, cùng nụ cười trên khuôn mặt chúng ta.

Tôi nghĩ chính sự nỗ lực hủy diệt chúng ta, sự tranh đấu này mà trong đó chúng ta trải qua hầu hết mỗi khoảnh khắc của cuộc sống. Nếu bạn nhìn những người lớn tuổi quanh bạn, bạn sẽ thấy rằng hầu hết cuộc sống của họ là một chuỗi đấu tranh với chính họ, với những người vợ hay những người chồng, với những người hàng xóm, với xã hội; và sự xung đột không ngừng nghỉ này gây hao phí năng lượng. Con người mà hân hoan, thực sự hạnh phúc, không còn bị trói buộc trong nỗ lực. Ở trạng thái không nỗ lực không có nghĩa rằng bạn trì trệ, đờ đẫn, ngu xuẩn; trái lại, chỉ có những người khôn ngoan, những người thông minh tột cùng mới thực sự được tự do khỏi nỗ lực, khỏi đấu tranh.

Nhưng bạn thấy không, khi chúng ta nghe nói về trạng thái không nỗ lực chúng ta lại muốn như vậy, chúng ta muốn đạt được một trạng thái trong đó chúng ta sẽ không còn mâu thuẫn, không còn xung đột; vì vậy chúng ta biến điều đó thành mục đích của chúng ta, lý tưởng của chúng ta, và gắng sức theo đuổi nó; và khoảnh khắc chúng ta làm việc này, chúng ta đã đánh mất đi hân hoan của cuộc sống. Thế là chúng ta bị trói buộc trong nỗ lực, trong đấu tranh. Mục tiêu của đấu tranh thay đổi, nhưng tất cả đấu tranh theo cơ bản đều giống nhau. Người ta có lẽ đấu tranh để mang lại sự đổi mới xã hội, hay để tìm ra Chúa, hay để tạo ra sự liên hệ tốt đẹp hơn giữa con người, với người vợ hay người chồng, hay với người hàng xóm; người ta có lẽ ngồi bên bờ sông Hằng, sùng bái dưới chân vị đạo sư nào đó, và vân vân. Tất cả việc này là nỗ lực, là tranh đấu. Vì vậy điều quan trọng không phải là mục đích của đấu tranh nhưng hiểu rõ sự đấu tranh, hiểu rõ chính nó.

Bây giờ, liệu cái trí có thể không chỉ ngẫu nhiên ý thức được trong chốc lát rằng nó không đấu tranh, nhưng luôn luôn được tự do hoàn toàn khỏi đấu tranh để cho nó khám phá ra một trạng thái hân hoan mà trong đó không có ý thức về người cao quý và kẻ thấp hèn?

Khó khăn của chúng ta là cái trí cảm thấy thấp hèn, và đó là lý do tại sao nó đấu tranh để là hay để trở thành một cái gì đó, hay để vượt qua những ham muốn mâu thuẫn khác nhau của nó. Nhưng chúng ta đừng đưa ra những lời giải thích cho vấn đề tại sao cái trí lại đầy đấu tranh. Mỗi con người có suy nghĩ đều biết tại sao lại có đấu tranh cả bên trong lẫn bên ngoài. Ganh tị, tham lam, tham vọng, ganh đua của chúng ta dẫn đến hậu quả thô bạo – những việc này rõ ràng là những yếu tố thúc đẩy chúng ta đấu tranh, dù trong thế giới này hay trong thế giới sắp tới. Vì vậy chúng ta không phải học những quyển sách tâm lý để hiểu rõ tại sao chúng ta đấu tranh; và chắc chắn, điều quan trọng, là tìm ra liệu rằng cái trí có thể hoàn toàn được tự do khỏi đấu tranh hay không.

Tóm lại, khi chúng ta đấu tranh, có xung đột giữa cái gì chúng ta là và cái gì chúng ta nên là hay muốn là. Bây giờ, không đưa ra những lời giải thích, liệu người ta có thể hiểu rõ toàn qui trình của đấu tranh này để cho nó kết thúc hay không? Giống như con thuyền kia đang chuyển động cùng cơn gió, liệu cái trí có thể không còn đấu tranh hay không? Chắc chắn như thế, đây là một câu hỏi, và không phải làm thế nào đạt được một trạng thái mà trong đó không còn đấu tranh. Chính nỗ lực muốn đạt được một trạng thái như thế trong chính nó là một qui trình của đấu tranh, vì vậy trạng thái đó không bao giờ đạt được. Nhưng nếu bạn quan sát từ khoảnh khắc sang khoảnh khắc làm thế nào mà cái trí bị trói buộc trong sự đấu tranh liên tục – nếu bạn chỉ quan sát cái sự kiện mà không cố gắng thay đổi nó, không có cố gắng cưỡng bách cái trí vào một trạng thái nào đó mà bạn gọi là an bình – vậy thì bạn sẽ phát giác rằng cái trí tự nhiên ngừng đấu tranh; và trong trạng thái đó nó có thể học hỏi vô tận. Rồi thì học hỏi đó không chỉ là tiến trình tích lũy những thông tin, mà còn là một khám phá về sự phong phú lạ thường vượt khỏi lãnh vực của cái trí; và có hân hoan cho cái trí khi thực hiện được khám phá này.

Hãy quan sát chính bạn và bạn sẽ thấy cái cách bạn đấu tranh từ sáng cho đến khuya, và năng lượng của bạn bị hao tổn trong những đấu tranh này nhiều như thế nào. Nếu bạn chỉ giải thích tại sao bạn lại đấu tranh, bạn bị mất hút trong những lời giải thích và sự đấu tranh lại tiếp tục; trái lại, nếu bạn quan sát cái trí của bạn rất yên lặng mà không đưa ra những lời giải thích, nếu bạn chỉ thả cho cái trí ý thức được sự đấu tranh riêng của nó, chẳng mấy chốc bạn sẽ phát giác rằng kia kìa một trạng thái mà trong đó không có đấu tranh gì cả, nhưng là một tỉnh táo kinh ngạc. Trong trạng thái tỉnh táo đó không còn ý thức của cao quý hơn và thấp hèn hơn, không có người quan trọng hay người không đáng quan tâm, không có vị đạo sư. Tất cả những điều vô lý kia đều biến mất bởi vì cái trí của bạn hoàn toàn tỉnh thức; và cái trí hoàn toàn tỉnh thức có hân hoan.

Người hỏi: Tôi muốn làm một sự việc nào đó, và mặc dù tôi đã cố gắng nhiều lần nhưng tôi đã không thể thành công khi thực hiện nó. Tôi có nên từ bỏ sự gắng sức, hay nên kiên quyết trong nỗ lực này?

Krishnamurti: Thành công là đạt được, nhận được một cái gì đó; và chúng ta tôn sùng sự thành công, phải vậy không? Khi một cậu bé nghèo lớn lên và trở thành nhà triệu phú, hay là một cậu học sinh tầm thường trở thành vị thủ tướng, cậu ta được vỗ tay, hoan nghênh, kính trọng nhiều về nó; vì vậy mỗi cậu trai hay cô gái đều muốn thành công bằng một cách này hay một cách khác.

Bây giờ, có một sự việc như thành công, hay nó chỉ là một ý tưởng mà con người theo đuổi? Bởi vì khoảnh khắc bạn đạt đến luôn luôn có một điểm xa hơn nữa ở phía trước mà ở đó bạn vẫn phải đến cho bằng được. Chừng nào bạn còn theo đuổi sự thành công trong bất kỳ phương hướng nào bạn chắc chắn còn trong đấu tranh, trong nỗ lực, phải vậy không? Thậm chí khi bạn đã đến rồi, không có sự nghỉ ngơi cho bạn, bởi vì bạn còn muốn đi xa hơn nữa, bạn muốn có nhiều thêm nữa. Bạn có hiểu không? Sự theo đuổi thành công là sự ham muốn để được “nhiều hơn,” và một cái trí liên tục đòi hỏi “nhiều hơn” không là một cái trí thông minh; trái lại, nó là một cái trí ngu xuẩn, tầm thường, bởi vì đòi hỏi “nhiều hơn” của nó ám chỉ một sự tranh đấu liên tục dựa vào cái khuôn mẫu mà xã hội đã đặt cho nó.

Rốt cuộc, cái gì là hài lòng và cái gì là bất mãn? Bất mãn là sự gắng sức tìm thêm “nhiều hơn” và hài lòng là ngừng lại sự đấu tranh đó; nhưng bạn không thể có được hài lòng nếu không hiểu rõ toàn qui trình của “nhiều hơn,” và tại sao cái trí lại đòi hỏi nó.

Nếu bạn hỏng một kỳ thi, ví dụ như thế, bạn phải thi lại, đúng vậy không? Những kỳ thi trong bất kỳ trường hợp nào là bất hạnh nhất, bởi vì chúng không thể hiện bất kỳ điều gì quan trọng, chúng không bộc lộ giá trị thực sự của thông minh. Đậu một kỳ thi phần lớn là một trò lừa ranh ma của ký ức, hay có lẽ là một vấn đề của may rủi; nhưng bạn cố gắng đậu những kỳ thi, và nếu bạn không thành công bạn phải tiếp tục nó. Với hầu hết chúng ta nó là cùng một qui trình trong cuộc sống hàng ngày. Chúng ta đang đấu tranh để đuổi theo một cái gì đó, và chúng ta không bao giờ ngừng lại để tìm hiểu liệu rằng cái sự việc chúng ta theo đuổi có xứng đáng để đấu tranh hay không. Chúng ta không bao giờ hỏi chính mình liệu rằng nó có đáng để nỗ lực, vì vậy chúng ta vẫn chưa khám phá rằng nó không xứng đáng và chống lại quan điểm của cha mẹ, của xã hội, của tất cả những vị thầy và những vị đạo sư. Chỉ khi nào chúng ta hiểu rõ toàn ý nghĩa của “nhiều hơn” lúc đó chúng ta mới ngừng suy nghĩ đặt nền tảng vào thất bại và thành công.

Bạn thấy không, chúng ta rất sợ hãi thất bại, sợ hãi gây ra những lỗi lầm, không chỉ trong những kỳ thi mà còn trong cuộc sống. Gây ra một lỗi lầm được nghĩ là khủng khiếp bởi vì chúng ta sẽ bị phê bình vì nó, một người nào đó sẽ quở trách chúng ta. Nhưng rốt cuộc, tại sao chúng ta không nên tạo ra một lỗi lầm? Tất cả con người trên thế giới không đang gây ra lỗi lầm hay sao? Và thế giới sẽ không còn tồn tại trong tình trạng hỗn độn kinh khủng này nếu bạn không bao giờ tạo ra một lỗi lầm hay sao? Nếu bạn sợ hãi khi tạo ra một lỗi lầm bạn sẽ không bao giờ học hỏi được. Những người lớn luôn luôn tạo ra những lỗi lầm, nhưng họ không muốn bạn gây ra lỗi lầm, và vì vậy họ bóp chết tánh khởi đầu của bạn. Tại sao vậy? Bởi vì họ sợ rằng bằng cách quan sát và tìm hiểu mọi thứ, bằng cách thử nghiệm và tạo ra lỗi lầm bạn có lẽ tìm ra cái gì đó cho chính bạn và phá vỡ uy quyền của cha mẹ, của xã hội, của truyền thống. Đó là lý do tại sao lý tưởng thành công được dựng lên cho bạn để tuân theo, và bạn sẽ thấy rằng, thành công luôn luôn kéo theo sự kính trọng. Thậm chí cả vị thánh trong những thành tựu tạm gọi là tinh thần của ông ấy phải được kính trọng, nếu không ông ấy không được công nhận, không được tuân theo.

Vì vậy chúng ta luôn luôn đang suy nghĩ dựa vào sự thành công, dựa vào “nhiều hơn”; và “nhiều hơn” được đánh giá bởi sự kính trọng của xã hội. Nói cách khác, xã hội rất cẩn thận thiết lập một khuôn mẫu nào đó và tùy theo đó tuyên bố bạn là một thành công hay thất bại. Nhưng nếu bạn yêu thích làm một công việc gì đó bằng toàn thân tâm lúc đó bạn không cần quan tâm đến thành công và thất bại. Không có một người thông minh nào lại như vậy. Nhưng bất hạnh thay chẳng có bao nhiêu người thông minh, và không một ai bảo cho bạn về tất cả việc này. Toàn bộ quan tâm của một con người thông minh là thấy những sự kiện và hiểu rõ vấn đề – mà không suy nghĩ dựa vào thành công hay thất bại. Chỉ khi nào chúng ta không thực sự yêu thích cái gì chúng ta đang làm thì lúc đó chúng ta mới suy nghĩ dựa vào thành công hay thất bại.

Người hỏi: Tại sao theo căn bản chúng ta lại ích kỷ như vậy? Chúng ta có lẽ cố gắng hết sức mình để không ích kỷ trong cách cư xử, nhưng khi có những lợi ích riêng chen vào thì chúng ta lại bị mê đắm trong chúng và dửng dưng đến những lợi ích của những người khác?

Krishnamurti: Tôi nghĩ rất quan trọng không được gọi chính mình là ích kỷ hay không ích kỷ, bởi vì những từ ngữ có một ảnh hưởng lạ lùng cho cái trí. Gọi một người đàn ông là ích kỷ, và anh ấy sẽ bị buộc tội; gọi anh ấy là một vị giáo sư, và một điều gì đó xảy ra trong sự tiếp cận của bạn đến anh ấy; gọi anh ấy là một Lạt-ma, và ngay lập tức có một vầng hào quang quanh anh ấy. Hãy quan sát những phản ứng riêng của bạn và bạn sẽ thấy rằng những từ ngữ như là “luật sư,” “thương gia,” “thống đốc,” “người hầu,” “tình yêu,” “Chúa,” có một ảnh hưởng lạ lùng trên những dây thần kinh của bạn cũng như là vào cái trí của bạn. Cái từ ngữ chỉ ra một chức năng đặc biệt nào đó gợi lên cái cảm giác của địa vị; vì vậy việc đầu tiên là phải được tự do khỏi thói quen vô ý thức về sự liên kết những cảm giác nào đó với những từ ngữ nào đó, phải vậy không? Cái trí của bạn đã bị điều kiện để suy nghĩ rằng từ ngữ “ích kỷ” đại diện cho một cái gì đó rất sai trái, không cao cả, và ngay tích tắc bạn áp dụng quy định đó vào bất kỳ sự việc nào cái trí của bạn chỉ trích nó. Vì vậy khi bạn hỏi câu này, “tại sao theo căn bản chúng ta lại ích kỷ?”, nó đã có sẵn ý nghĩa chỉ trích rồi.

Rất quan trọng phải ý thức rằng những từ ngữ nào đó gây trong bạn một phản ứng thuộc trí năng, thuộc cảm xúc hay thuộc thần kinh của sự ưng thuận hay chỉ trích. Khi bạn gọi mình là một người ghen tị, ví dụ như thế, tức khắc bạn đã khóa chặt sự tìm hiểu thêm nữa, bạn đã ngừng hiểu rõ toàn vấn đề của ganh tị. Tương tự như vậy, có nhiều người nói rằng họ làm việc cho tình huynh đệ, mọi thứ họ làm vẫn còn chống lại tình huynh đệ; nhưng họ không thấy sự thật này bởi vì từ ngữ “huynh đệ” có một ý nghĩa nào đó đối với họ và họ đã tin tưởng; họ không tìm hiểu sâu thêm nữa và vì vậy họ không bao giờ tìm ra cái gì là những sự kiện đều không liên quan đến phản ứng thuộc cảm xúc và thần kinh mà từ ngữ đó gợi lên.

Vì vậy đây là việc đầu tiên: hãy thử nghiệm và tìm ra liệu bạn có thể thấy những sự kiện mà không có những ngụ ý chỉ trích hay khen ngợi liên kết với những từ ngữ nào đó. Nếu bạn có thể nhìn vào những sự kiện mà không có những cảm thấy của chỉ trích hay tán thành, bạn sẽ thấy rằng trong tiến hành quan sát đó không còn tất cả những rào chắn mà cái trí đã dựng lên giữa chính nó và những sự kiện.

Chỉ cần quan sát cách bạn tiếp cận với một người mà được mọi người gọi là một con người vĩ đại. Những từ ngữ “con người vĩ đại” đã ảnh hưởng đến bạn; những tờ báo, những quyển sách, tất cả những người tuân theo đều nói ông ấy là một người vĩ đại, và cái trí của bạn đã chấp nhận nó. Hoặc ngược lại bạn chọn một quan điểm trái nghịch và nói, “Ồ ngu xuẩn làm sao, ông ấy không là một con người vĩ đại.” Trái lại nếu bạn có thể tách cái trí của bạn khỏi mọi ảnh hưởng và chỉ đơn giản quan sát những sự kiện, vậy thì bạn sẽ thấy rằng cách tiếp cận của bạn hoàn toàn khác hẳn. Cũng như vậy, từ ngữ “người dân quê,” với những liên tưởng của nó là nghèo đói, bẩn thỉu, tầm thường, hay bất kỳ là gì đi nữa, gây ảnh hưởng đến sự suy nghĩ của bạn. Nhưng khi cái trí của bạn được tự do khỏi ảnh hưởng, khi nó không chỉ trích và cũng không tán thành nhưng chỉ nhìn, quan sát, vậy thì nó không còn bị mê muội trong chính nó và không còn vấn đề của trạng thái ích kỷ đang cố gắng trở thành không ích kỷ.

Người hỏi: Tại sao từ khi sinh ra cho đến khi chết đi, một cá thể luôn luôn muốn được thương yêu, và nếu anh ấy không nhận được tình yêu này anh ấy sẽ không thể bình tĩnh và đầy tự tin như những người bạn của anh ấy?

Krishnamurti: Bạn nghĩ rằng những người bạn của anh ấy đầy tự tin hay sao? Họ có lẽ đi đứng nghênh ngang, họ có lẽ tạo ra dáng vẻ phong nhã, có giáo dục, nhưng bạn sẽ phát giác rằng đằng sau sự biểu lộ tự tin đó hầu hết mọi người đều trống rỗng, đờ đẫn, tầm thường, họ thực sự chẳng có chút tự tin nào cả. Và tại sao chúng ta muốn được thương yêu? Bộ bạn không muốn được thương yêu bởi cha mẹ, bởi những giáo viên, bởi bạn bè của bạn hay sao? Và, nếu bạn là một người trưởng thành, bạn muốn được thương yêu bởi người vợ, bởi người chồng, bởi con cái – hay bởi vị đạo sư của bạn. Tại sao luôn luôn có sự khao khát được thương yêu này? Hãy lắng nghe cẩn thận. Bạn muốn được thương yêu bởi vì bạn không thương yêu; nhưng khoảnh khắc bạn thương yêu, nó chấm dứt, bạn không còn tìm hiểu liệu rằng người nào đó có thương yêu bạn hay không. Chừng nào bạn còn đòi hỏi được thương yêu, không có tình yêu trong bạn; và nếu bạn cảm thấy không có tình yêu, bạn là người xấu xa, hung bạo, vì vậy tại sao bạn phải thương yêu? Nếu không có tình yêu bạn là con người chết rồi; và khi cái vật chết đó thỉnh cầu tình yêu; vẫn còn chết rồi. Trái lại, nếu quả tim của bạn ngập tràn tình yêu, vậy thì bạn không bao giờ xin xỏ để được thương yêu, bạn không bao giờ chìa cái tô ăn mày của bạn ra để cho ai đó đổ đầy vào nó. Chỉ có những người trống rỗng mới xin được lấp đầy, và một tâm hồn trống rỗng không bao giờ được lấp đầy bằng cách chạy theo những vị đạo sư hay tìm kiếm tình yêu trong trăm ngàn cách khác.

Người hỏi: Tại sao những người lớn lại ăn cắp?

Krishnamurti: Thỉnh thoảng bạn không ăn cắp hay sao? Bạn không biết một cậu bé ăn cắp một cái gì đó mà cậu ấy muốn có từ một cậu bé khác hay sao? Nó cũng chính xác như vậy suốt cuộc đời mà thôi, dù chúng ta còn trẻ hay già, chỉ có những người lớn làm việc ăn cắp ma mãnh hơn, với nhiều từ ngữ nghe ra có vẻ tốt lành; họ muốn của cải, quyền hành, vị trí, và họ che giấu, bày mưu tính kế, lý luận để có được nó. Họ ăn cắp, nhưng nó không được gọi là ăn cắp, nó được gọi bằng một từ ngữ kính trọng nào đó. Và tại sao chúng ta lại ăn cắp? Trước hết, bởi vì, như xã hội hiện nay được cấu thành, nó tước đoạt những nhu cầu sống của nhiều người; những vùng đất nào đó của thế giới mà con người thiếu thốn lương thực, quần áo và chỗ ở, vì vậy họ làm một cái gì đó gọi là ăn cắp. Có những người ăn cắp, không phải bởi vì họ thiếu thốn lương thực, nhưng bởi vì họ là những người được gọi là chống lại xã hội. Đối với họ ăn cắp đã trở thành một trò chơi, một hình thức của kích thích – mà có nghĩa rằng họ không có được sự giáo dục thực sự. Giáo dục thực sự là hiểu rõ ý nghĩa của cuộc sống, không phải chỉ nhồi nhét để đậu những kỳ thi. Cũng có hành động ăn cắp ở mức độ cao hơn, ăn cắp những ý tưởng của những người khác, ăn cắp sự hiểu biết – khi chúng ta săn đuổi “nhiều hơn” trong bất kỳ hình thức nào, rõ ràng chúng ta đang ăn cắp.

Tại sao chúng ta lại luôn luôn đòi hỏi, xin xỏ, mong muốn, ăn cắp? Bởi vì trong chính chúng ta không có gì cả; bên trong, thuộc tâm lý chúng ta giống như một cái trống bên trong rỗng không. Bị rỗng không, chúng ta cố gắng lấp đầy không chỉ bằng cách ăn cắp mọi thứ, mà còn cả bằng cách bắt chước những người khác. Bắt chước là một hình thức của ăn cắp: bạn không là gì cả nhưng anh ấy là một ai đó, vì vậy bạn sẽ cố gắng để có được một chút vinh quang của anh ấy bằng cách bắt chước anh ấy. Sự đồi bại này xảy ra suốt cuộc đời con người, và rất ít người được tự do khỏi nó. Vì vậy điều quan trọng là tìm ra liệu trạng thái trống rỗng bên trong có khi nào được lấp đầy. Chừng nào cái trí còn đang tìm kiếm để lấp đầy chính nó, nó sẽ luôn luôn bị trống rỗng. Khi cái trí không còn quan tâm đến việc lấp đầy nữa, thì trạng thái trống rỗng mới chấm dứt.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
25/06/2015(Xem: 6681)
Trong Phật pháp có nhiều pháp môn tu học học và hướng đến giác ngộ giải thoát. Giác ngộ là thấy rõ đạo lý duyên khởi của nhân sanh và vũ trụ. Giải thoát có nghĩa là dứt sự khổ đau luân hồi do tâm thức chấp thật ngã và thật pháp tạo vọng nghiệp. Chung quy tu tập theo Phật giáo nhận thức rõ giải thoát là từ tâm này, luân hồi sanh tử cũng do tâm này, vì tâm này là chủ nhân của muôn pháp. Kinh Tâm Địa Quán có dạy: “Tâm sanh thì pháp sanh,
07/05/2015(Xem: 7670)
Các con ơi! Ta vô cùng hoan hỷ đón nhận tất cả các con về thế giới Cực Lạc trang nghiêm thù thắng mà ta đã thiết lập để cho các con trở về tịnh dưỡng. Ta thật yên tâm khi các con về mái nhà chung tình này để được nghe pháp, tu tập mà không bị quấy nhiễu bởi lục trần nhiễm ô của thế giới Ta Bà. Tuy nhiên, các con ạ! Các con thấy đó. Đa số các con đều được hóa sanh ở những phẩm vị thấp, Trung phẩm và Hạ phẩm.
28/04/2015(Xem: 6554)
Người phương Tây và dân trí thức trong thời mạt pháp hầu như không tin pháp môn niệm phật cầu vãng sanh Cực Lạc. Họ không tin vì hai lý do. Thứ nhất họ cho rằng Phật A DI ĐÀ và Tịnh độ Cực Lạc là huyền thuyết. Thứ hai là Kinh sách Đại Thừa Phật Giáo không đáng tin cậy vì thường hiểu lầm là Đại thừa ra đời từ cuộc Tập Kết Kinh điển thứ thứ Tư, hơn 400 năm sau khi Đức Phật nhập niết bàn, cách thời Phật Thích Ca quá xa khiến cho kinh sách đại thừa có phần sai lệch và khó có thể kiểm chứng. Sau đây là những chân lý chứng minh kinh điển đại thừa Phật giáo và Pháp môn niệm Phật nói riêng là hoàn toàn chân thực, không hư dối. Những chân lý này được kiến giải một cách khách quan dựa trên những sự kiện lịch sử Phật giáo và những lời thuyết giảng của Đức Phật ghi lại trong Kinh điển Đại thừa xảy ra đúng với những sự kiện lịch sử sau thời Đức Phật và phù hợp với những thành tựu khoa học ngày nay.
28/04/2015(Xem: 7316)
Một đời giáo hóa của Đức Phật Thích Ca được khái quát hóa trong ngũ thời bát giáo mà theo ngài Trí Giả, Tổ sư sáng lập ra Tông Thiên Thai đã sử dụng ngũ thời để phân định trình tự thuyết pháp của đức Phật; dùng “Bát giáo” để phân biệt pháp môn được thuyết và nghi thức thuyết pháp. Ngũ thời được chia trình tự như sau:
10/03/2015(Xem: 9108)
Trong diễn đàn này nhiều quý bạn hữu đã nói về niệm Phật A-Di-Đà bốn chữ hay sáu chữ. Theo tôi thì chúng ta đã học Mười hạnh Phổ-Hiền thì bình-đẳng kính chung không từ một ai, nhưng tin vào lời người ta nói thì phải có sự quán xét đúng hay sai. Đặc biệt với Phật pháp và giáo lý nhà Phật thì đòi hỏi phải thật nghiêm túc nếu không sai một ly đi vạn dặm, có khi mất hết cả công sức bao nhiêu năm tu hành bỏ ra mà không thành tựu, thậm chí còn sa hố là phỉ báng chính pháp, phát đi những điều không đúng về giáo lý của Phật.
23/01/2015(Xem: 7675)
Từ khi Phật giáo hòa nhập vào văn hóa nhân loại thì bắt đầu ý nghĩa đón xuân cổ truyền được mở rộng thành ý nghĩa đón Xuân Di Lặc. Từ đó, đón xuân trong quan niệm người Đông Á mang đậm bản sắc văn hóa Phật giáo và văn hóa nhân loại. Chúng ta vận dụng tính nhân bản đạo đức Phật giáo làm tô đẹp ý nghĩa mùa xuân cổ truyền và chuyển hóa những tập quán tiêu cực để quần chúng có thêm chánh kiến trong sinh hoạt đón xuân hằng năm.
23/01/2015(Xem: 7107)
Trong sinh hoạt hằng ngày của chúng ta thường thể hiện và vận dụng trăm pháp rất thực tế, nó là tổng hợp nội dung của hiện tượng tâm lý, những yếu tố cơ bản nhất vốn có trong con người, cũng do đây mà chúng ta có thể biết điều này và biết được điều khác. Chúng ta vì người mà ứng xử, hay hóa độ chúng sanh mà không hiểu hiện tượng tâm lý con người thì rất chướng ngại. Một trăm pháp này bao gồm trong pháp thế gian và pháp xuất thế gian, lộ trình tu học từ địa vị phàm phu đến quả vị thánh, là nền tảng cơ bản của người học Phật, cho nên mọi người cần phải học môn này.
23/01/2015(Xem: 7806)
Chúng ta nghiên cứu xuyên suốt tư tưởng Phật học nhận thức được rằng, có hai pháp môn cần phải tham cứu trước. Một là “Luật Tông” là căn bản nhất của tất cả các pháp môn. Các tông phái Phật học rất nhiều do giới luật mà tồn tại. Khi Đức Phật sắp nhập diệt, đã từng phó chúc cho A Nan rằng: “Sau khi Thế Tôn nhập diệt, các thầy hãy lấy giới luật làm thầy, nương vào giới luật mà tu hành để được giải thoát giác ngộ”. Đây là vấn đề Phật học thường đề cập, đó là điều chắc thật không cần biện giải nhiều lời. Hai là “Duy Thức”, thông đạt tất cả nguyên lý các pháp. Kinh Hoa Nghiêm dạy: “Tâm như người thợ vẽ,
23/01/2015(Xem: 6569)
Bản văn này giới thiệu ý nghĩa căn bản của Thiền và niệm Phật, luận thuật quan niệm các học giả Phật giáo đối với sự phát triển tư tưởng Thiền tông và Niệm Phật. Từ trên khái niệm đến triển khai rõ ý nghĩa và nội dung vô cùng phong phú của Thiền và niệm Phật, đặc biệt chú trọng về phương diện lịch sử từ sau thời đại nhà Tùy để trình bày mối quan hệ về Thiền tông và niệm Phật. Ở đây tóm lược hệ thống ý nghĩa quá trình diễn biến về Thiền và niệm Phật trong mối quan hệ mang tính đặc trưng theo từng giai đoạn. Sau cùng, luận văn từ trong diễn biến lịch sử của Thiền và niệm Phật để đưa đến kết luận xu thế dung hợp giữa Thiền và Tịnh độ theo hướng đi của Phật giáo Trung quốc. Căn cứ hiện thực của lịch sử Phật giáo và đưa đến nhận định rằng: Từ sau thời Tống thì Thiền Tịnh song tu là phương pháp mô phạm căn bản của sự tu trì Phật giáo Trung quốc. Tin chắc rằng, trong tương lai Phật giáo Trung quốc vẫn duy trì năng lực truyền thống Phật pháp vốn có của chính mình.
23/01/2015(Xem: 7294)
Duy thức giảng về vấn đề gì? Tư tưởng trọng tâm của duy thức là cải tạo tâm địa. Kinh Hoa Nghiêm giảng: “Tâm như người thợ vẽ, vẽ ra hết cả thế gian; năm ấm cũng từ tâm sanh, tâm tạo ra tất cả pháp”. Kinh Tâm Địa Quán có dạy: “Tâm sanh thì pháp sanh, tâm diệt thì pháp diệt. Tâm nhiễm thì thế giới nhiễm, tâm tịnh thì thế giới tịnh”. Nếu tâm chúng ta tham, sân, si quá nặng thì hình thành hiện tượng nhiễm ô, tâm chúng ta thanh tịnh, nội tâm thanh tịnh; dùng tâm thanh tịnh, tâm hiền lành thì có thể hình thành hiện thực thế giới thanh tịnh hòa bình. Duy thức học chính là thuyết minh nguyên lý này: “Ba cõi do tâm tạo, vạn pháp do thức sanh”.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]