Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tinh Tấn Siêu Việt - Thực Hành Của Một Bồ Tát

11/02/201111:41(Xem: 6576)
Tinh Tấn Siêu Việt - Thực Hành Của Một Bồ Tát

labode_9TINH TẤN SIÊU VIỆT – THỰC HÀNH CỦA MỘT BỒ TÁT
Dilgo Khyentse Rinpoche

Chỉ để làm lợi ích cho riêng mình, ngay cả các Thanh Văn và Phật Độc Giác
Cũng phải nỗ lực như người cứu đầu mình đang bốc cháy:
Nhìn thấy điều này, để làm lợi lạc tất cả chúng sinh,
Thực hành hạnh tinh tấn, cội nguồn của những phẩm hạnh tuyệt vời, là thực hành của một Bồ Tát.

Để đánh thức và phát triển tất cả các phẩm hạnh siêu việt (ba la mật), tinh tấn là một hạnh trọng yếu. Tinh tấn là sự nỗ lực đầy hoan hỉ và quyết tâm tích cực để thực hiện những hành động tốt đẹp mà không có chút mong cầu hay tự mãn nào.

Tinh tấn có ba phương diện. Phương diện thứ nhất được gọi là “tinh tấn giống như áo giáp,” là để phát triển một dũng khí và chịu đựng đầy hoan hỉ mà bạn mặc nó như áo giáp chống lại sự ngã lòng. Thứ hai là “tinh tấn trong hành động,” là loại tinh tấn để bắt đầu tích tập công đức qua thực hành sáu ba la mật mà không chậm trễ hay trì hoãn. Thứ ba là “tinh tấn không thể ngừng dứt,” một năng lực vô bờ và liên tục để làm việc cho chúng sinh. Sự tinh tấn nên làm thấm đẫm việc thực hành các ba la mật khác và gia thêm sinh lực cho tất cả những ba la mật đó.

Loại tinh tấn thứ nhất, tinh tấn như áo giáp, là mặc áo giáp của sự quyết tâm mạnh mẽ và can trường khiến bạn chẳng bao giờ là nạn nhân của những chướng ngại do bốn quỷ ma tạo ra (những cảm xúc tiêu cực, tham luyến tiện nghi, bệnh tật vật lý, và cái chết), mà dù có thế nào chăng nữa, bạn cũng sẽ kiên trì trong những nỗ lực của bạn để hoàn thành các hoạt động phi thường của một Bồ Tát cho tới khi bạn an lập tất cả chúng sinh trong sự giác ngộ.

Loại thứ hai, tinh tấn trong hành động, là sự kiên trì quả quyết trong việc thực sự áp dụng ước nguyện đó. Khi cảm nhận một niềm hoan hỉ lớn lao về việc bạn có thể thực hành, đi trên năm con đường và đạt được mười cấp bậc,1 bạn thực hiện một cách nhiệt tâm vô vàn hoạt động đáng ca ngợi, đặc biệt là việc nghiên cứu, quán chiếu và thiền định. Khi dấn mình vào tất cả những hoạt động này, hãy duy trì một dũng khí bất khuất và không bao giờ chịu làm nạn nhân của sự ngã lòng, lười biếng hay trì hoãn.

Loại thứ ba, tinh tấn không thể ngừng dứt, là năng lực không gì có thể thỏa mãn để làm việc liên tục cho chúng sinh. Ngày và đêm, hãy dấn mình vào mọi phương cách có thể, một cách trực tiếp hay gián tiếp, trong những tư tưởng, lời nói, và hành động của bạn để làm lợi lạc chúng sinh. Nếu bạn không thể trực tiếp giúp đỡ họ, bạn không nên lưu giữ điều gì trong tâm ngoài việc làm lợi lạc cho người khác, và hồi hướng mọi sự bạn làm cho việc thành tựu Phật quả của họ. Đừng bao giờ cảm thấy tự mãn bởi một vài phẩm hạnh tốt lành mà bạn có thể đạt được, và đừng bao giờ để sự sỉ nhục của người nào đó hay những nghịch cảnh làm bạn trệch khỏi những mục đích của bạn. Hãy luôn luôn kiên quyết tiếp tục cho tới khi bạn đạt được mục đích.

Đối nghịch với mỗi loại tinh tấn này là một loại lười biếng tương ứng.

Loại lười biếng thứ nhất là không ước muốn gì ngoài sự tiện nghi của riêng bạn. Điều đó biểu lộ như một khuynh hướng mê ngủ và lười nhác, khao khát sự thỏa mãn và tiện nghi tức thì cũng như trong việc không để ý tới Giáo Pháp. Cách đối trị cho loại lười biếng này là thiền định về cái chết và sự vô thường.

Loại lười biếng thứ hai là tánh nhút nhát. Thậm chí bạn cảm thấy ngã lòng trước khi bạn bắt đầu cố gắng làm điều gì đó, bởi bạn nghĩ rằng một người như bạn sẽ chẳng bao giờ đạt được giác ngộ cho dù bạn hết sức cố gắng tới đâu chăng nữa. Cách đối trị là củng cố sự kiên cường của bạn bằng cách quán chiếu về những lợi lạc của sự giải thoát và giác ngộ.

Loại lười biếng thứ ba là việc không biết tới những ưu thế chân thực của bạn. Bạn trở nên vướng kẹt trong những tập quán tiêu cực và vô ích. Quên lãng hay phớt lờ những mục đích sâu xa, bạn hoàn toàn bận tâm về những vấn đề hạn hẹp của cuộc đời này. Cách đối trị là hãy nhận ra rằng tất cả những mối bận tâm tầm thường như thế sẽ chỉ luôn luôn là nguyên nhân của sự đau khổ, và hãy ném chúng đi thật xa.

Người ta làm việc với nỗ lực to lớn cả ngày lẫn đêm để hoàn thành những điều chỉ nhắm đến sự tiện nghi, danh tiếng, và quyền lực của riêng họ - nói cách khác, đó là những điều mà về lâu về dài thì hoàn toàn vô nghĩa. Tuy nhiên, trong những gian khó mà bạn có thể phải trải qua vì Giáo Pháp, sẽ chẳng gian khó nào mà không có ý nghĩa. Những hoàn cảnh khó khăn bạn trải nghiệm sẽ giúp bạn tịnh hóa những tiêu cực được tích tập trong nhiều đời quá khứ và thâu thập công đức như một sự dự phòng cho những đời sau. Những đời sau ấy bảo đảm là sẽ tràn đầy ý nghĩa.

Không có tinh tấn, Bồ đề tâm và các hoạt động của một Bồ Tát sẽ không có phương tiện để bắt rễ và phát triển trong tâm bạn. Như Padampa Sangye đã nói:

Nếu lòng kiên trì của quý vị không có sức mạnh, quý vị sẽ không đạt được Phật quả;
Dân chúng Tingri, hãy bảo đảm là quý vị khoác lên người áo giáp (tinh tấn).

Đức Phật Thích Ca Mâu Ni nổi danh về việc đưa tinh tấn siêu việt tới sự toàn thiện tối thượng của nó. Năng lực và công đức được phát triển bởi nỗ lực của ngài trải qua vô lượng cuộc đời đã có thể khiến cho ngài tái sanh làm một Đại Đế một ngàn lần, nhưng thay vào đó ngài đã quyết định hướng toàn bộ nỗ lực của ngài vào việc thành tựu Giác ngộ. Là những môn đồ của Đức Phật, chúng ta nên sử dụng câu chuyện cuộc đời ngài và những tiểu sử của các vị thánh vĩ đại trong quá khứ như những gương mẫu đầy cảm hứng. Chẳng hạn như Đức Jetsun Milarepa đã phô diễn nỗ lực không thể tin nổi, trải qua nhiều gian khổ để đạt được những mục đích sâu xa của ngài. Vairochana2đã tới Ấn Độ để cầu Pháp khi còn rất trẻ, trải qua năm mươi bảy khó khăn không thể chịu đựng nổi để có được các giáo lý và nhiều lần ngài suýt mất mạng. Ngài và các dịch giả vĩ đại khác của Tây Tạng đã gặp những gian khổ ghê gớm trên bước đường du hành – sức nóng thiêu đốt và những cơn sốt, kế đó là chứng bệnh địa phương trong những đồng bằng Ấn Độ, sự hận thù khắc nghiệt của những nhà cai trị địa phương v.v.. Tuy nhiên các ngài đã kiên trì và thành công trong việc đưa Giáo Pháp đích thực trở về Tây Tạng.

Ngày nay bạn đang sống trong những quốc gia ở đó Giáo Pháp chỉ mới bắt đầu bén rễ, giống như một chồi non yếu ớt trên mặt đất. Chỉ có sự tinh tấn kiên trì liên tục của bạn mới làm cho nó có được trái quả. Tùy thuộc vào nỗ lực mà bạn đặt vào việc nghiên cứu, quán chiếu và thiền định, và việc kết hợp những gì bạn hiểu vào thực hành tâm linh, sự thành tựu có thể xảy đến trong nhiều ngày, nhiều tháng hay nhiều năm. Điều thiết yếu là hãy nhớ tưởng rằng mọi cố gắng của bạn trên con đường là vì chúng sinh. Hãy khiêm tốn và nhận thức rằng những nỗ lực của bạn chỉ như trò chơi của đứa trẻ nếu so sánh với hoạt động như đại dương của các đại Bồ Tát. Hãy giống như một bậc cha mẹ cung cấp cho những đứa con hết sức yêu quý, đừng bao giờ nghĩ rằng bạn đã làm quá nhiều cho người khác – hay ngay cả bạn đã làm đầy đủ. Nếu cuối cùng bạn đã ráng sức, chỉ bằng những nỗ lực của chính bạn, để an lập tất cả chúng sinh trong Phật quả, bạn hãy nghĩ tưởng một cách giản dị rằng mọi ước nguyện của bạn đã được hoàn thành. Đừng bao giờ có mảy may hy vọng nào là bạn sẽ được đền đáp.

So với một vị Thanh Văn hay Phật Độc Giác thì một Bồ Tát phải có sự tinh tấn lớn lao hơn rất nhiều, bởi Bồ Tát đã nhận trách nhiệm hoàn thành hạnh phúc tối thượng của Phật quả không chỉ cho bản thân mình mà còn cho vô lượng chúng sinh. Như có câu nói:

Vị anh hùng mang gánh nặng của tất cả chúng sinh trên đầu không có thời gian rảnh rỗi để bước đi chậm rãi.

Và:

Bởi tôi và tất cả chúng sinh bị trói buộc bằng một trăm xiềng xích,
Tôi phải nhân sự tinh tấn của mình lên một trăm lần.

Để tăng trưởng sự tinh tấn của bạn, hãy quán chiếu về mọi sự thật là vô thường. Cái chết là điều không thể tránh khỏi, có thể xảy ra bất thình lình và vô cùng nhanh chóng. Trong sự soi rọi đó hãy nghĩ rằng những mối bận tâm thế tục của cuộc đời này thì thực sự cạn cợt và thiển cận biết bao, và bạn có thể tự do ra sao nếu bạn có thể xoay chuyển tâm bạn khỏi những bận tâm đó. Nếu bạn thình lình nhận ra rằng một con rắn độc đang ẩn nấp trong lòng bạn, trong nếp gấp y phục của bạn, bạn có chờ đợi để làm một hành động, ngay cả trong một giây?

Chú thích:

1. Bồ Tát là những bậc đã chứng ngộ bản tánh trống không của các hiện tượng và sự không hiện hữu của tự ngã. Các ngài thoát khỏi các klesha, hay những cảm xúc thông thường (các phiền não). Có mười cấp bậc Bồ Tát, hay mười bhumi(thập địa). Bhumi thứ mười một là địa của Phật quả viên mãn, là quả vị được chứng ngộ khi cả hai che chướng – che chướng của các klesha (phiền não chướng) và che chướng ngăn che trí tuệ tuyệt đối (sở tri chướng) – đã hoàn toàn được quét sạch theo một cách thức không thể thay đổi được. Theo một ý nghĩa rộng lớn hơn, Bồ Tát được mô tả như một người dấn mình vào việc thực hành giáo lý Đại Thừa.

2. Lochen Vairochana (lo chen bai ro tsa na): vị lỗi lạc nhất trong các dịch giả (hay lotsawa) Tây Tạng vĩ đại, của thời kỳ Cựu Dịch (snga ‘sgyur) và là một trong tám đệ tử thân thiết nhất của Guru Padmasambhava.

Thanh Liên trích dịch từ nguyên tác:
“The Heart of Compassion – The Thirty-Seven Verses on The Practice of a Bodhisattva”by Dilgo Khyentse Rinpoche



Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
17/07/2020(Xem: 6037)
Trong kinh có ghi lại lời cảnh giác của Đức Phật, Ngài đã từngnói rằng: “Phàm tất cả chúng sinh còn lên xuống trong ba cõi, lăn lộn trong sáu đường thì không một loài nào được hoàn toàn trong sạch, không một giống nào dứt hết tội lỗi sai lầm”.Lời nói của bậc toàn giác thật chính xác. Chúng sinh còn trầm luân trong ba cõi, sáu đường, là còn gây nhiều nghiệp xấu. Cho nên, dù chúng ta là ai của những đời trước, kiếp trước? Kiếp này, tuy chung sống ở cõi Ta-Bà nhưng mỗi người ôm vào đời một biệt nghiệp riêng, do tội lỗi hay phước báo đã gây ra trong đời trước. Nhưng nói chung,dù ở trong bất cứ hoàn cảnh nào thì con người cũng đã từngbị vô minh che mờ lý trí xúi quẩy tạo ra muôn ngàn tội lỗi, và tội lỗi đó cứ chồng chất mãi theo thời gian.
12/07/2020(Xem: 6230)
Theo, Đại-Vô-Lượng-Thọ-Kịnh. Đại-A-Di-Đà-Kinh Q1.- Bình-Đẳng-Giác- Kinh Q1. Đại-Bảo-Tích-Kinh Q17. Bi-Hoa-Kinh Q3. Vô-Lượng-Quảng- Trang-Nghiêm-Đại-Thừa-Kinh… Thì đều lạy tu theo 48 nguyện. 48 đại nguyện có đủ trong 6 bộ kinh nói trên. Chỗ cốt yếu cho người tu niệm Phật và lễ lạy 48 đại nguyện là : 1.Tin tưởng tha thiết nguyện về cõi Phật A Di Đà chắc thật diệt sạch hết tâm nghi ngờ. Lòng tin trọn vẹn trong sạch. 2. Lập thời khóa tu niệm lễ lạy trong một ngày đêm 1, 2, hay 3 Thời, Tùy ý thích. Chọn cho thích hợp để tu. Quan trọng là thành tâm. Đừng ham nhiều mà lụy thân rồi chán bỏ! 3. Quyết tâm phát nguyện vãng sanh về Cực Lạc Tịnh Độ, Tâm luôn kính nhớ ưa thích cõi Cực Lạc của Từ Phụ A Di Đà, quí mến Từ Phụ A Di Đà. niệm Hồng danh Phật liên tục, khi xướng lạy lời nguyện thân tâm vui thích mừng rỡ cảm động, thân nhẹ lân lân như ơn Phật đang ban phước cao vời vô tận, đầy tâm an lạc, như thấy mình đầy đủ sức khỏe. Niệm, chừng nào được “nhứt tâm bất loạn” đồng nghĩa với “hế
22/06/2020(Xem: 4642)
Đi tìm nguồn cội của những việc cần tìm hiểu quả là điều rất hữu ích và cần thiết cho những người học Phật như chúng ta ngày nay. Tuy trong hiện tại chúng ta có quá nhiều phương tiện để tìm hiểu, đọc tụng cũng như học hỏi, nhưng cũng không phải muốn tìm gì là có ngay lời giải đáp đúng như ý ta mong đợi, mà vẫn cần phải qua những trải nghiệm của bản thân cũng như sự tu học hành trì, nghiên cứu lâu ngày, chúng ta mới thẩm thấu được lời Phậtdạy. Vì lẽ lời dạy của Đức Phật nằm rải rác khắp nơi trong ba tạng của Nam Truyền và ba tạng của Bắc Truyền, có cả hàng triệu triệu chữ và nhiều nhà phiên dịch, chú giải khác nhau, nên không phải ai cũng có cơ duyên để trì tụng, nghiên cứu hết ba tạng Kinh điển này. Riêng bản thân tôi không dám làm việc gì quá khả năng, chỉ cố gắng gom góp lại những chỗ đã đọc qua, nhằm cống hiến cho quý vị một sự hiểu biết căn bản về Đức Phật A-di-đà, để chúng ta không còn nghi ngờ gì nữa khi trì tụng các Kinh A-di-đà, Kinh Vô Lượng Thọ hay Kinh Quán Vô Lượng Thọ. Đó
21/06/2020(Xem: 8491)
Do một thiện niệm vừa phát sinh sau khi TT Thích Nguyên Tạng chấm dứt 48 bài pháp thoại liên tục được livestream trên Facebook của trangnhaquangduc trong mùa cách giản xã hội vì đại dịch Corona vào mỗi sáng sau thời công phu khuya ( với kinh Lăng Nghiêm, Đại Bi và thập chú ) mà người viết mới có dịp ôn lại những gì trong “ PHÁP NGỮ CỦA HT TỊNH KHÔNG” đã được TT Thích Nguyên Tạng Việt dịch và được xuất bản từ 2004. Thời gian trôi qua nhanh quá , thấm thoát đã 16 năm mà đến bây giờ đây là lần thứ ba tôi mới đọc lại , phải nói là rất ân hận cho sự vô minh của mình trong nhiều năm và đã uổng phí thời gian để có thể tu tập đúng hơn nữa .
07/05/2020(Xem: 5840)
Đệ tử tên là: .......... Một lòng quy kính - Đức Phật A Di Đà. Thế giới Cực Lạc - Nguyện lấy hào quang - Trong sạch soi cho, Lấy thệ từ bi - Mà nhiếp thọ cho - Con nay chánh niệm, Niệm hiệu Như Lai - Vì đạo Bồ Đề - Cầu sanh Tịnh Độ. Phật xưa có thệ: “Nếu có chúng sinh - Muốn sinh về nước ta Hết lòng tín nguyện - Cho đến mười niệm - Nếu chẳng đặng sinh Chẳng thành Chánh Giác - Chỉ trừ kẻ ngũ nghịch - Kẻ bài báng Chánh Pháp” - Do vì nhân duyên - Niệm hiệu Phật nầy - Được vào trong bể - Đại thệ Như Lai - Nhờ sức Từ Bi Các tội tiêu diệt - Căn lành tăng trưởng.- Khi mạng gần chung, Biết trước giờ chết- Thân không bệnh khổ- Tâm không tham luyến,
05/05/2020(Xem: 5992)
Chiều nay ngày 19 tháng 7 năm Mậu tuất (2018), tôi đến Phương trượng Tổ đình Từ Đàm, đảnh lễ Trí Quang Thượng Nhân, sau khi xuất hạ, Thượng Nhân đã dạy cho tôi những điều hữu ích gồm: 1- Pháp học: Pháp giới tạng thân A-di-đà-Phật là chỉ cho Thân thể của Phật A-di-đà bao trùm khắp cả không gian và thời gian về mặt không gian là cả mười phương. Về mặt thời gian là bao trùm cả ba đời.
13/03/2020(Xem: 17833)
Quyển "The Buddha and His Teachings" (Đức Phật và Phật Pháp) được ấn hành tại Sài gòn năm 1964 nhờ sự phát tâm bố thí của liệt vị Phật tử Việt Nam. Đạo hữu Phạm Kim Khánh, pháp danh Sunanda, đã dày công phiên dịch thiên khái luận nhỏ bé này ra tiếng mẹ đẻ với mục đích đáp lại phần nào lòng mong ước của những ai muốn hiểu Đức Phật và giáo lý của Ngài. Công đức này được hàng Phật tử Việt Nam ghi nhận. Trong hiện tình, nước Việt Nam không mấy được yên ổn. Bao nhiêu người đang đau khổ, về vật chất cũng như tinh thần. Không khí căng thẳng này quả không thích hợp với việc làm có tánh cách tinh thần và đạo đức
20/12/2019(Xem: 5106)
Niệm Phật là phương pháp thực hành rất phổ biến trong Phật Giáo Đại Thừa, đặc biệt là Tịnh Độ Tông hay còn được gọi là Pháp môn Niệm Phật. Nhưng nếu thuần túy chỉ niệm Phật mà thôi, thiếu tu học thì chúng ta có thể tái sanh về cõi Tây Phương Cực Lạc được hay không? Tính cốt lõi của pháp môn Niệm Phật là lấy Minh tâm (trong sáng) làm công yếu, lấy Hạnh môn (tịnh tâm) làm chính yếu. Tu và học phải đi đôi với nhau. Tu là thay đổi bản chất, tánh nết của mình cho được tốt hơn, cho được thiện lành hơn -đó mới là tu tâm dưỡng tánh. Còn Học là để mở mang kiến thức, để hiểu và nhận ra những điều thiện lành. Vậy tu học là đôi chân vững chắc để chúng ta đi đến được bến bờ giác ngộ. Tu làm sao để nở tâm Bồ Đề, đừng nở tâm ganh tỵ. « Văn, tư, tu » như lời Đức Phật dạy, trước tiên chúng ta phải lắng nghe, sau đó suy nghĩ để nhận biết rồi mới thực hành. Khi niệm Phật chúng ta phải nhất tâm tưởng đến Phật hiện tại, giúp tâm chúng ta có chất liệu để thành Phật. « Nhất thiết ch
12/09/2019(Xem: 5754)
Đại sư Từ Chiếu (Chi: Tzu Chao) có lần nói: "Người tu Tịnh độ lúc sắp chết thường bị Ba Điều Nghi và Bốn cửa ải làm trở ngại cho việc vãng sanh Cực Lạc. Do đó hành giả ngày thường cần chuẩn bị, suy tư và đề phòng để có thể loại trừ chúng trong lúc lâm chung.
24/08/2019(Xem: 8898)
Niết bàn là khái niệm thể hiện triết lý độc đáo về giải thoát của Phật giáo. Đây là một trạng thái tâm linh hoàn toàn thanh thản, giải thoát khỏi mọi đau khổ của cuộc đời. Trạng thái này có thể đạt được khi còn đang sống (Hữu dư Niết bàn) hoặc khi đã chết (Vô dư Niết bàn). Phật giáo Tiểu thừa hướng tới Vô dư Niết bàn - một Niết bàn tịch diệt, cô đơn, từ bỏ mọi thú vui trần thế. Phật giáo Đại thừa lại hướng tới Hữu dư Niết bàn - một Niết bàn nhân bản, nhập thế và hoạt động cùng những buồn vui nhân thế. Quan niệm này đã mang lại một sức hấp dẫn, sức sống mới cho Phật giáo, đặc biệt là trong xã hội hiện đại.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567