Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tại Sao Không Có Đức Đạt Lai Lạt Ma Nữ

21/03/201322:04(Xem: 4069)
Tại Sao Không Có Đức Đạt Lai Lạt Ma Nữ
TẠI SAO KHÔNG CÓ ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA NỮ
The Washington Post, Mar 18
By Michaela Haas*
Thích nữ Tịnh Quang chuyển ngữ

Mỗi khi Phật giáo di cư từ vị trí của nó có nguồn gốc tại Ấn Độ đến các quốc gia khác như Sri Lanka, Miến Điện, Nhật Bản, Trung Quốc hay Tây Tạng…triết học, phong tục và nghi lễ cũng được thay đổi. Chẳng có gì đáng ngạc nhiên, sự tái định cư của Phật giáo với phương Tây kèm theo với một số thay đổi của những sự nổi bật và văn hóa. Ở Tây Tạng, các bậc thầy tôn kính có thể cô lập mình trong các hang động xa xôi, đôi khi hàng chục năm trong đại định. Ở phương Tây, các giáo viên đến với hàng ngàn học sinh ngay lập tức bằng cách truyền sự hiểu biết của họ trên podcast. Khắp châu Á, phụ nữ hiếm khi tiếp cận được sự bình đẳng giáo dục. Ở phương Tây, phụ nữ đòi hỏi để được thừa nhận trong nhiều vai trò lãnh đạo mà họ đảm trách. Trong nhiều cộng đồng Phật giáo châu Á, việc thay đổi quan điểm cũ là điều không thể tưởng tượng được, trong khi ở các trường phái, sự luận cứ phê bình là chủ yếu.

Đối với tất cả những thay đổi mà chúng ta đang thấy Phật giáo trải qua ở phương Tây, điều quan trọng nhất có thể là phụ nữ nổi bật, thể hiện vai trò bình đẳng. Ngày càng có nhiều phụ nữ Phật giáo tăng lên khi các nhà giáo với quyền của chính mình, hiểu rõ trách nhiệm của mình: để tiếp thêm sinh lực và nâng đỡ phụ nữ nắm giữ “nửa bầu trời "như những người tìm kiếm tâm linh và các bậc thầy. Như nhà nữ quyền, học giả Phật giáo Rita Gross nêu lên trong cuốn sách của mình "Phật Giáo Đằng Sau Chế Độ Gia Trưởng," “Sự khác biệt lớn nhất giữa việc thực hành Phật giáo ở châu Á và sự thực hành của Phật giáo ở phương Tây là sự tham gia đầy đủ và hoàn chỉnh của phụ nữ Phật giáo phương Tây."Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14đã thừa nhận điều này bằng cách chỉ ra rằng hóa thân tiếp theo của ngàicó thểlà một phụ nữ."Tôi cho rằngbản thân mìnhlà mộtnhà nữ quyền", ngài nói. "Đó không phải là điều mà bạn gọi người nào đó đấu tranh cho nữ quyền ư?" Mặc dù lịch sử có phức tạp, yếu tố tôn giáo và chính trị xung quanh việc lựa chọn của các bậc thầy thị hiện trong truyền thống Tây Tạng lưu vong, Đức Đạt Lai Lạt Ma thì công khai thay đổi. Tại sao không? Vấn đề nào là trọng đại?

“Đức Lạt ma cũng không có thể bỏ qua điều này nữa", nữ tu phương Tây Karma Lekshe Tsomo, người sáng lập tổ chức quốc tế quan trọng nhất đối với phụ nữ Phật giáo, Sakyadhita (" người con gái của Đức Phật ") phát biểu. "Trong hầu hết các trung tâm Phật Giáo, nhìn vào nhà bếp---toàn là phụ nữ. Nhưng nhìn vào các văn phòng hành chánh, ai là người lãnh đạo? Hầu hết là phụ nữ. Ai là nhà hoạt động và tổ chức, dọn dẹp và đưa tin, ai là người đi chợ và quản lý? Chủ yếu là phụ nữ. "Họ là những phụ nữ, sau đó cũng trở thành những bậc thầy, những nữ Viện trưởng Tu viện, và thậm chí cả Đức Đạt Lai Lạt Ma chỉ là một sự hóa thân tự nhiên.”

Việc chuyển đổi hiện tình của Phật giáo trong thế kỷ 21 đang nâng cao trên nhiều cấp độ, và phụ nữ đóng vai trò quan trọng trong nỗ lực này như là môi giới chính. Đức Phật là vị sáng lập tôn giáo đầu tiên sau khi tín đồ Jainism (tại Ấn Độ) cho phép phụ nữ vào hàng ngũ của mình - một quyết định mang tính cách mạng vào thời điểm đó, hơn 2.500 năm trước. Đức Phật lịch sử rõ ràng khuyến khích nữ Phật tử và Ni giới cùng với nam giới là những trụ cột của cộng đồng của mình. Nhưng, trong khi các nguyên lý biểu tượng về sự giác ngộ nữ tính đã được dựng lên trên các đền thờ, ít phụ nữ đã thực sự được khuyến khích đi theo bước chân của các biểu tượng. Mặc dù một sự khích lệ của Đức Padmasambhava, người tiên phong thế kỷ thứ 8 của Phật giáo Tây Tạng, bảo rằng tiềm năng của phụ nữ là đạt được giải thoát tối thượng, hầu hết nền văn hóa Phật giáo xuyên qua nhiều thế kỷ nhận thức rằng phụ nữ như những chúng sinh thấp kém hơn. Những lời sách tấn nhiều hơn bằng nhiều đoạn văn trong các bài viết do Đức Padmasambhava và các bậc đạo sư khác thương xót về những khó khăn của phái nữ. Từ Tây Tạng thường được sử dụng cho phụ nữ, lumenhoặckyemen, nghĩa đen có nghĩa là "người thấp kém" hay “sinh thiếu phước." Vài bậc thầy chính thống nghi ngờ đối với hôm nay nếu phụ nữ có thể đạt được tất cả hiểu biết, và các nghi thức lâu đời dành cho phụ nữ là nguyện ước để được sự tái sinh tốt hơn trong một cơ thể nam giới.

Chắc chắn là có nhiều hành giả nữ vĩ đại ở Tây Tạng," Nữ tu người Anh và là Viện trưởng Jetsunma Tenzin Palmo viết trong cuốn sách của mình “Reflections on a Lake Mountain." “Nhưng bởi vì họ không có một nền tảng đào tạo triết học, họ có thể không thiết tha viết sách, thu thập đệ tử, nghiên cứu Phật Pháp, và thuyết pháp. Khi chúng ta đọc lịch sử, chúng ta sẽ nhận thấy rằng các nữ tu bị phân biệt bởi sự vắng mặt của họ. Nhưng điều này không có nghĩa là họ không có ở đó." Đến hôm nay nhiều Ni viện ở châu Á thường thiếu các tiềm lực mà các tu viện có, và việc truyền Cụ túc giới cho Ni hiện nay không phải là một khả năng trong truyền thống Tây Tạng, mặc dù nhiều Tăng Ni, bao gồm cả Đức Đạt Lai Lạt Ma, đang hoạt động hướng tới một sự thay đổi.

Đức Đạt Lai Lạt Ma đã lên tiếng nhiều lần về sự cần thiết đối với việc phải giải quyết vấn đề này. "Hai ngàn năm trăm năm trước, Đức Phật đã thuyết giảng trong một xã hội bị thống trị bởi nam giới," Ngài phát biểu trong một cuộc phỏng vấn. "Nếu Đức Phậtnghiêng vềquan điểm nữ quyền sẽ không có ainghe ngài. Điều quan trọng là bây giờ, trong suốt ba mươi năm qua, chúng tôi đã làm việc để thay đổi điều đó".

Đây là một sự thách thức cho tất cả các tôn giáo khi đối mặt với thế kỷ 21 trong hình thức này hay hình thức khác. Nhìn sự thay đổi ở Vatican, nhiều người hy vọng rằng Giáo hoàng mới sẽ có chút thay đổi, đặc biệt là khi nói đến các vấn đề và câu hỏi của phụ nữ liên quan đến tình dục và ngừa thai. Hơn 70% người Ky Tô giáo Mỹ muốn vị Giáo hoàng kế tiếp là Nữ Giáo hoàng, ban hành việc sử dụng các biện pháp tránh thai, và chấp nhận cho các linh mục kết hôn (More than 70 percent of American Catholics want the next pope to ordain women, approve the use of contraception, and let priests get married). Nhưng chúng ta biết người Ky Tô giáo sẽ không ưng chuẩn cho một nữ Giáo hoàng hoặc các Nữ Linh mục vào lúc này. Phụ nữ chỉ là nhóm bị loại trừ hoàn toàn, và trong quá khứ Giáo hoàng Francis đã không có sự nỗ lực khích lệ. Tuy nhiên, bất kỳ tổ chức nào mà không bao gồm 50% thành viên có khả năng và sáng chói nhất từ bộ phận lãnh đạo của họ sẽ không thể thoát khỏi sự thay đổi mãi mãi. Triều đại Giáo hoàng sẽ không trường cửu trong thời gian tới, nhưng ít nhất chúng ta biết rằng Đức Đạt Lai Lạt Ma là một sự lựa chọn.”

TN. Tịnh Quang chuyển ngữ

Link:http://www.washingtonpost.com/national/on-faith/why-is-there-no-female-dalai-lama/2013/03/18/75ac132c-8fee-11e2-9cfd-36d6c9b5d7ad_story.html


*Tiến sĩ Michaela Haas, là một nhà báo quốctế, giảng viên, và là nhà tư vấn. Bà là tác giả của tác phẩm Dakini Power: Twelve Extraordinary Women Changing the Transmission of Tibetan Buddhism in the West,” sẽ đượcxuất bản bởi Snow Lion / Shambhala vào tháng tư này. Với bằng tiến sĩ trong ChâuÁHọc, Bà ta là một học giả thỉnh giảng trong Tôn giáo học tại Đại học California Santa Barbara. Bà ta đãnghiên cứu và thực hành Phật Phật pháptrong gần hai mươi năm. Bà talà chủ sở hữu sáng lập của HAAS live!,một công ty huấn luyện quốc tế, kếthợp kinh nghiệm của mình trong các phương tiện truyền thông với việcđào tạochánh niệm. Kể từ khi 16 tuổi, Bà tađã làm việc như một nhà văn và người phỏng vấn chocác tờbáo lớn, các tạp chí và các đài truyền hìnhcủa Đức trên toàn quốc.



Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
17/07/2020(Xem: 6022)
Trong kinh có ghi lại lời cảnh giác của Đức Phật, Ngài đã từngnói rằng: “Phàm tất cả chúng sinh còn lên xuống trong ba cõi, lăn lộn trong sáu đường thì không một loài nào được hoàn toàn trong sạch, không một giống nào dứt hết tội lỗi sai lầm”.Lời nói của bậc toàn giác thật chính xác. Chúng sinh còn trầm luân trong ba cõi, sáu đường, là còn gây nhiều nghiệp xấu. Cho nên, dù chúng ta là ai của những đời trước, kiếp trước? Kiếp này, tuy chung sống ở cõi Ta-Bà nhưng mỗi người ôm vào đời một biệt nghiệp riêng, do tội lỗi hay phước báo đã gây ra trong đời trước. Nhưng nói chung,dù ở trong bất cứ hoàn cảnh nào thì con người cũng đã từngbị vô minh che mờ lý trí xúi quẩy tạo ra muôn ngàn tội lỗi, và tội lỗi đó cứ chồng chất mãi theo thời gian.
12/07/2020(Xem: 6216)
Theo, Đại-Vô-Lượng-Thọ-Kịnh. Đại-A-Di-Đà-Kinh Q1.- Bình-Đẳng-Giác- Kinh Q1. Đại-Bảo-Tích-Kinh Q17. Bi-Hoa-Kinh Q3. Vô-Lượng-Quảng- Trang-Nghiêm-Đại-Thừa-Kinh… Thì đều lạy tu theo 48 nguyện. 48 đại nguyện có đủ trong 6 bộ kinh nói trên. Chỗ cốt yếu cho người tu niệm Phật và lễ lạy 48 đại nguyện là : 1.Tin tưởng tha thiết nguyện về cõi Phật A Di Đà chắc thật diệt sạch hết tâm nghi ngờ. Lòng tin trọn vẹn trong sạch. 2. Lập thời khóa tu niệm lễ lạy trong một ngày đêm 1, 2, hay 3 Thời, Tùy ý thích. Chọn cho thích hợp để tu. Quan trọng là thành tâm. Đừng ham nhiều mà lụy thân rồi chán bỏ! 3. Quyết tâm phát nguyện vãng sanh về Cực Lạc Tịnh Độ, Tâm luôn kính nhớ ưa thích cõi Cực Lạc của Từ Phụ A Di Đà, quí mến Từ Phụ A Di Đà. niệm Hồng danh Phật liên tục, khi xướng lạy lời nguyện thân tâm vui thích mừng rỡ cảm động, thân nhẹ lân lân như ơn Phật đang ban phước cao vời vô tận, đầy tâm an lạc, như thấy mình đầy đủ sức khỏe. Niệm, chừng nào được “nhứt tâm bất loạn” đồng nghĩa với “hế
22/06/2020(Xem: 4633)
Đi tìm nguồn cội của những việc cần tìm hiểu quả là điều rất hữu ích và cần thiết cho những người học Phật như chúng ta ngày nay. Tuy trong hiện tại chúng ta có quá nhiều phương tiện để tìm hiểu, đọc tụng cũng như học hỏi, nhưng cũng không phải muốn tìm gì là có ngay lời giải đáp đúng như ý ta mong đợi, mà vẫn cần phải qua những trải nghiệm của bản thân cũng như sự tu học hành trì, nghiên cứu lâu ngày, chúng ta mới thẩm thấu được lời Phậtdạy. Vì lẽ lời dạy của Đức Phật nằm rải rác khắp nơi trong ba tạng của Nam Truyền và ba tạng của Bắc Truyền, có cả hàng triệu triệu chữ và nhiều nhà phiên dịch, chú giải khác nhau, nên không phải ai cũng có cơ duyên để trì tụng, nghiên cứu hết ba tạng Kinh điển này. Riêng bản thân tôi không dám làm việc gì quá khả năng, chỉ cố gắng gom góp lại những chỗ đã đọc qua, nhằm cống hiến cho quý vị một sự hiểu biết căn bản về Đức Phật A-di-đà, để chúng ta không còn nghi ngờ gì nữa khi trì tụng các Kinh A-di-đà, Kinh Vô Lượng Thọ hay Kinh Quán Vô Lượng Thọ. Đó
21/06/2020(Xem: 8466)
Do một thiện niệm vừa phát sinh sau khi TT Thích Nguyên Tạng chấm dứt 48 bài pháp thoại liên tục được livestream trên Facebook của trangnhaquangduc trong mùa cách giản xã hội vì đại dịch Corona vào mỗi sáng sau thời công phu khuya ( với kinh Lăng Nghiêm, Đại Bi và thập chú ) mà người viết mới có dịp ôn lại những gì trong “ PHÁP NGỮ CỦA HT TỊNH KHÔNG” đã được TT Thích Nguyên Tạng Việt dịch và được xuất bản từ 2004. Thời gian trôi qua nhanh quá , thấm thoát đã 16 năm mà đến bây giờ đây là lần thứ ba tôi mới đọc lại , phải nói là rất ân hận cho sự vô minh của mình trong nhiều năm và đã uổng phí thời gian để có thể tu tập đúng hơn nữa .
07/05/2020(Xem: 5828)
Đệ tử tên là: .......... Một lòng quy kính - Đức Phật A Di Đà. Thế giới Cực Lạc - Nguyện lấy hào quang - Trong sạch soi cho, Lấy thệ từ bi - Mà nhiếp thọ cho - Con nay chánh niệm, Niệm hiệu Như Lai - Vì đạo Bồ Đề - Cầu sanh Tịnh Độ. Phật xưa có thệ: “Nếu có chúng sinh - Muốn sinh về nước ta Hết lòng tín nguyện - Cho đến mười niệm - Nếu chẳng đặng sinh Chẳng thành Chánh Giác - Chỉ trừ kẻ ngũ nghịch - Kẻ bài báng Chánh Pháp” - Do vì nhân duyên - Niệm hiệu Phật nầy - Được vào trong bể - Đại thệ Như Lai - Nhờ sức Từ Bi Các tội tiêu diệt - Căn lành tăng trưởng.- Khi mạng gần chung, Biết trước giờ chết- Thân không bệnh khổ- Tâm không tham luyến,
05/05/2020(Xem: 5963)
Chiều nay ngày 19 tháng 7 năm Mậu tuất (2018), tôi đến Phương trượng Tổ đình Từ Đàm, đảnh lễ Trí Quang Thượng Nhân, sau khi xuất hạ, Thượng Nhân đã dạy cho tôi những điều hữu ích gồm: 1- Pháp học: Pháp giới tạng thân A-di-đà-Phật là chỉ cho Thân thể của Phật A-di-đà bao trùm khắp cả không gian và thời gian về mặt không gian là cả mười phương. Về mặt thời gian là bao trùm cả ba đời.
13/03/2020(Xem: 17802)
Quyển "The Buddha and His Teachings" (Đức Phật và Phật Pháp) được ấn hành tại Sài gòn năm 1964 nhờ sự phát tâm bố thí của liệt vị Phật tử Việt Nam. Đạo hữu Phạm Kim Khánh, pháp danh Sunanda, đã dày công phiên dịch thiên khái luận nhỏ bé này ra tiếng mẹ đẻ với mục đích đáp lại phần nào lòng mong ước của những ai muốn hiểu Đức Phật và giáo lý của Ngài. Công đức này được hàng Phật tử Việt Nam ghi nhận. Trong hiện tình, nước Việt Nam không mấy được yên ổn. Bao nhiêu người đang đau khổ, về vật chất cũng như tinh thần. Không khí căng thẳng này quả không thích hợp với việc làm có tánh cách tinh thần và đạo đức
20/12/2019(Xem: 5098)
Niệm Phật là phương pháp thực hành rất phổ biến trong Phật Giáo Đại Thừa, đặc biệt là Tịnh Độ Tông hay còn được gọi là Pháp môn Niệm Phật. Nhưng nếu thuần túy chỉ niệm Phật mà thôi, thiếu tu học thì chúng ta có thể tái sanh về cõi Tây Phương Cực Lạc được hay không? Tính cốt lõi của pháp môn Niệm Phật là lấy Minh tâm (trong sáng) làm công yếu, lấy Hạnh môn (tịnh tâm) làm chính yếu. Tu và học phải đi đôi với nhau. Tu là thay đổi bản chất, tánh nết của mình cho được tốt hơn, cho được thiện lành hơn -đó mới là tu tâm dưỡng tánh. Còn Học là để mở mang kiến thức, để hiểu và nhận ra những điều thiện lành. Vậy tu học là đôi chân vững chắc để chúng ta đi đến được bến bờ giác ngộ. Tu làm sao để nở tâm Bồ Đề, đừng nở tâm ganh tỵ. « Văn, tư, tu » như lời Đức Phật dạy, trước tiên chúng ta phải lắng nghe, sau đó suy nghĩ để nhận biết rồi mới thực hành. Khi niệm Phật chúng ta phải nhất tâm tưởng đến Phật hiện tại, giúp tâm chúng ta có chất liệu để thành Phật. « Nhất thiết ch
12/09/2019(Xem: 5747)
Đại sư Từ Chiếu (Chi: Tzu Chao) có lần nói: "Người tu Tịnh độ lúc sắp chết thường bị Ba Điều Nghi và Bốn cửa ải làm trở ngại cho việc vãng sanh Cực Lạc. Do đó hành giả ngày thường cần chuẩn bị, suy tư và đề phòng để có thể loại trừ chúng trong lúc lâm chung.
24/08/2019(Xem: 8865)
Niết bàn là khái niệm thể hiện triết lý độc đáo về giải thoát của Phật giáo. Đây là một trạng thái tâm linh hoàn toàn thanh thản, giải thoát khỏi mọi đau khổ của cuộc đời. Trạng thái này có thể đạt được khi còn đang sống (Hữu dư Niết bàn) hoặc khi đã chết (Vô dư Niết bàn). Phật giáo Tiểu thừa hướng tới Vô dư Niết bàn - một Niết bàn tịch diệt, cô đơn, từ bỏ mọi thú vui trần thế. Phật giáo Đại thừa lại hướng tới Hữu dư Niết bàn - một Niết bàn nhân bản, nhập thế và hoạt động cùng những buồn vui nhân thế. Quan niệm này đã mang lại một sức hấp dẫn, sức sống mới cho Phật giáo, đặc biệt là trong xã hội hiện đại.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567