Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Thần A Tu La

18/08/201211:28(Xem: 3732)
Thần A Tu La

THẦN A TU LA
Toàn Không

Một hôm, đức Phật dạy các Tỳ Kheo:

- Thuở xưa, Chư Thiên đánh nhau với Thần A Tu la. Thích Đề Hòan Nhân (Vua trời Đế Thích) ra lệnh cho Chư Thiên Đạo Lợi:

“- Các Ông đánh nhau với Thần A Tu La, làm sao bắt được Vua Thần A Tu La, hãy dùng 5 sợi dây trói lại, đem về giảng đường Thiện Pháp, ta muốn thấy mặt nó.”

Lúc ấy Chư Thiên Đạo lợi vâng lệnh Đế Thích, mỗi vị Trời đều trang bị sẵn sàng. Tỳ Ma Chất Đa La, Vua Thần A Tu La cũng ra lệnh cho binh chúng Thần A Tu La nếu bắt được Vua Đế Thích hãy trói bằng 5 dây, mang về giảng đường Thất Diệp nơi cung điện Thần A Tu La để coi mặt. Mỗi Thần A Tu La đều chuẩn bị đầy đủ sẵn sàng.

Như vậy, hai bên đều mặc áo giáp, mang đủ loại vũ khí như: dao gậy, đao kiếm, mâu giáo, cung tên, búa rìu, bánh xe lăn, lưới dây, v.v... Rồi hai bên đối trận nhau, sẵn sàng khai chiến.

Lúc ấy trước mặt trận, Vua trời Đế Thích nói:

“- Các Ngươi cần gì phải trang bị vũ khí và ôm lòng sân hận, ham đánh nhau, nay ta cùng Ông tranh biện về đạo lý xem ai thắng ai bại.”

Vua Thần Chất Đa La nói:

“- Giả sử có bỏ vũ khí, có đình chỉ sự tranh đấu, để cùng nhau tranh luận đạo lý, thì làm sao biết được ai thắng ai bại, ai là người biết được bên nào hơn bên nào thua”

Vua Đế Thích nói:

“- Khi bàn luận, trong chúng của ta và trong chúng của Ngươi tất có những vị có trí tuệ, họ sẽ biết được ai thắng ai bại; Đó là bằng chứng ai sẽ thắng.”

Vua Thần A Tu La nghe rồi đồng ý, liền nói:

“- Ta đồng ý, vậy Ngươi hãy nói trước đi”

Vua Đế Thích nói:

“- Ngươi nguyên trước kia là Trời, vậy Ngươi hãy nói trước”

Bấy giờ Vua Thần A Tu La vì Vua Trời nói kệ:

“Nay không trị kẻ ngu,

E sau này khó nhịn,

Hãy trừng trị nó ngay,

Cho nó tự sửa lỗi.”

Khi Vua Tỳ Ma Chất Đa La nói kệ xong, tất cả chúng Thần A Tu La đều vui mừng reo hò, còn chư Thiên im lặng. Vua Thần A Tu La bảo Vua Đế Thích:

“- Bây giờ đến phiên Ngươi nói đi.”

Khi đó, Vua Đế Thích vì Vua Thần A Tu La nói kệ:

“Ta thường nói kẻ trí,

Không tranh với kẻ ngu,

Họ mắng, kẻ trí nhịn,

Kẻ trí thắng kẻ ngu.”

Thích Đề Hoàn Nhân nói kệ xong, Chư Thiên vui mừng và lớn tiếng khen hay, chúng Thần A Tu La im lặng không phản ứng. Đế Thích bảo:

“- Bây giờ đến lượt Ngươi nói tiếp.”

Vua A Tu La lại nói:

“Sở dĩ Vương ta nhịn,

E tổn hạnh kẻ trí,

Nhưng kẻ ngu lẩn thẩn,

Cho là ta sợ hãi.

Kẻ ngu không tự xét,

Có thể chống với ta,

Liều lĩnh dám xúc phạm,

Muốn Ngươi như trâu thua.”

Khi nói xong, chúng Thần A Tu La khen, chúng Thiên không nói. Vua Thần nói:

“- Bây giờ đến lượt Ngươi nói tiếp.”

Vua Trời lại nói:

“Kẻ ngu không hiểu biết,

Nói là ta sợ hãi,

Ta quán đệ nhất nghĩa,

Nhẫn nhục là bậc nhất.

Nếu có kẻ tranh luân,

Không đáp là hơn hết,

Thấy ai không tranh biện,

Đừng cho là ngu ngốc.

Nếu ai có sức lớn,

Nhịn được kẻ không sức,

Sức ấy là bậc nhất,

Hơn hết trong sự nhẫn.

Kẻ ngu bảo có sức,

Sức ấy không phải sức,

Có sức nhẫn đúng pháp,

Sức ấy là vô địch.”

Khi Vua Đế Thích nói kệ xong, Chư Thiên vui mừng hớn hở, lớn tiếng khen hay, chúng Thần A Tu La im lặng lùi bước và nói với nhau: “Vua Thần chúng ta nói bài kệ có chỗ xúc phạm, sẽ sinh đao kiếm oán thù, gây tranh đấu lẫn nhau và nuôi lòng oán hận không hay. Còn Vua Đế Thích nói không có chỗ xúc phạm, không khởi đao kiếm, không sinh tranh đấu, không nuôi oán hận; Đế Thích nói là thiện, Vua Thần chúng ta nói là không thiện; vì vậy Chư Thiên thắng, chúng ta bại, nên rút về cung thôi; thế là chúng Thần A Tu La cùng nhau lui binh, Vua Thần lúc ấy không làm sao được, bèn cùng rút về cung.

--- :: ---

Một lần khác, Binh chúng Thần A Tu La tấn công như vũ bão, chư Thiên thua chạy. Khi đó, Đế Thích ngồi trên xe báu sợ hãi chạy dài, đến một chỗ nọ Vua nhìn từ xa thấy trên cây Điện Bà La có tổ chim trong đó có hai con chim con. Vua vội nói kệ:

“Trên cây có đôi chim,

Ngươi hãy cho xe tránh,

Dù giặc có giết ta,

Cũng chớ làm hại chim.”

Rồi Vua bảo Thiên Thần đánh xe chạy qua hướng khác để tránh làm hại chim. Lúc ấy Thiên Thần liền cho xe rẽ ngang chạy qua hướng khác. Khi xe rẽ ngang, ba mặt đều có quân chúng Thần A Tu La đuổi tới, quân chúng Thần thấy xe báu của Vua Trời quay về hướng của họ, nên nói với nhau: “Nay Thiên Đế ngồi trong xe báu đang chạy về hướng chúng ta, chắc sẽ chiến đấu lại, chúng ta chắc chống không nổi đâu.” Thế là binh chúng Thần A Tu La cùng nhau rút lui chạy tán loạn. Do đó Thần A Tu La thua, chư Thiên thắng.

Khi ấy Đế Thích chiến thắng trở về, tạo lập một Điện đường to lớn tên là Tối Thắng. Điện đường có chiều dài Đông Tây 100 do tuần (100 x 18 cây số = 1,800 cây số), Nam Bắc 60 do tuần (60 x 18 = 1,080 cây số). Điện đường có 100 gian, mỗi gian có 7 đài lộ thiên liên kết nhau, trên mỗi đài có 7 Ngọc nữ, mỗi Ngọc nữ có 7 kẻ hầu. Vì chiến thắng Thần A Tu La nên tâm vui vẻ mà lập Điện đường này, bao nhiêu cung điện trong một nghìn thế giới, không có cái nào so sánh được với điện đường Tối Thắng này.

Đức Phật bảo các Tỳ Kheo:

- Bấy giờ Đế Thích là ai khác, chớ nghĩ như thế, vì sao? Vì đấy chính là Ta, đối với chúng sanh phát khởi lòng thương xót, từ bi; này các Tỳ Kheo, các Ông tu đạo ở trong giáo pháp của Ta, phải khởi lòng từ bi, thương xót tất cả chúng sinh.

--- :: ---

Một thời gian sau, Vua Thần A Tu La tự nghĩ: “Ta có đại uy đức, có thần lực không phải ít, nhưng chư Thiên Đạo Lợi thường ở trên đầu ta trên hư không một cách tự tại, ta không muốn như vậy.” Nghĩ rồi Vua Thần Tỳ Ma Chất Đa La sân giận nổi lên, bèn nghĩ đến đánh nhau, nghĩ đến các Thần chiến đấu (Tướng lãnh A Tu La), nghĩ đến Thần Xá Ma Lê (Lãnh chúa), nghĩ đén các A Tu La đại Thần, nghĩ đến các tiểu Thần A Tu La (Tiểu chúa).

Bấy giờ các vị vừa nêu đều nghĩ: “Nay Vua Thần A Tu La đang nghĩ đến chúng ta, chúng ta nên mau chuẩn bị” Rồi các vị ấy ra lệnh cho tả hữu quân binh của mình sửa soạn xe báu, mặc áo giáp, mang vũ khí đủ loại, trước sau vô số vây quanh, đến trước Vua Thần A Tu La đợi lệnh chiến đấu.

Lúc ấy, Vua Thần liền tự trang bị mặc áo giáp báu, cầm kiếm báu, ngự trên xe báu, có vô số Tướng Tá, Lãnh Chúa, Đại Thần, Tiểu Thần, cùng với vạn ức binh Thần A Tu La với đầy đủ vũ khí trong bầu không khí nghiêm trang, đi ra khỏi cứ địa để đi giao chiến với chư Thiên.

Khi đó, Long Vương (Vua Rồng) Nan Đà, Long Vương Bạt Nan Đà, dùng thân quấn quanh núi Tu Di 7 vòng làm chấn động cả núi non, mây mỏng bủa giăng, làm mưa cùng khắp, nước biển dâng, sóng biển vọt lên khủng khiếp.

Lúc ấy Chư Thiên Đạo Lợi liền nghĩ: “Nay có mây mỏng bủa giăng, mưa rơi cùng khắp, nước dâng biển trào, hẳn là Thần dữ A Tu La muốn sinh sự đánh nhau, nên mới có hiện tượng này.”

Trong khi đó, vô số binh chủng thuộc loại Rồng ở trong biển đều mặc áo giáp, cầm vũ khí như cầm mâu giáo, cung tên, đao kiếm; tất cả đều chiến đấu chống lại binh Thần A Tu La. Nếu Long chúng thắng, sẽ đuổi binh chúng Thần về cung của họ, nếu thua Long chúng sẽ chạy rút lui đến chỗ Quỷ Già Lâu La nói:

“- Binh chúng Thần A Tu La muốn đánh chư Thiên, chúng tôi chiến đấu chống lại, nhưng họ đang thắng; các Ông nên chuẩn bị cho mau cùng chúng tôi đánh nhau với chúng.”

Các Quỷ Già Lâu La nghe nói liền cấp tốc mặc giáp cầm vũ khí phối hợp với Long chúng cùng đánh chúng Thần A Tu La. Nếu thắng, Binh Thần chạy rút về cung, nếu thua, Long binh chạy đến chỗ Quỷ Trì Hoa yêu cầu trợ chiến.

Các Quỷ Trì Hoa liền cấp tốc trang bị và cùng Long binh chiến đấu đánh binh Thần A Tu La. Nếu thắng, binh Thần phải chạy về cung của họ, nếu thua Long binh chạy đến chỗ Quỷ Thường Lạc cũng nói như thế, Quỷ Thường Lạc cũng phối hợp cùng đánh như thế. Nếu thắng binh Thần phải rút về cung, nếu Long binh thua, không rút về cung Long Vương, nhưng đến chỗ Tứ Thiên Vương báo việc binh Thần A Tu La tấn công không chống trả lại được.

Bốn Thiên Vương liền ra lệnh cho Quỷ Thần vô số mặc áo giáp, cầm vũ khí, cùng Long binh đánh nhau với binh Thần A Tu La. Nếu thắng đuổi chúng về cung, nếu thua Tứ Thiên Vương chạy đến giảng đường Thiện Pháp báo cáo với Vua trời Đế Thích và chư Thiên Đạo Lợi sự việc binh Thần A Tu La đang tấn công Long binh sắp tới nơi.

Vua Trời liền ra lệnh cho hầu cận:

“- Ông hãy thay lời ta đi báo cho các Vua Trời: Diệm Ma, Đâu Suất, Hóa Tự Tại, Tha Hóa Tự Tại biết và nói: “Vua Thần A Tu La cùng với vô số quân Thần bộ hạ đang đến đánh; vậy quý Chư Thiên hãy trang bị đầy đủ giúp Vua Đế Thích chiến đấu”.”

Khi Vua trời Diệm Ma nghe nói như thế, liền mặc áo giáp báu, cầm vũ khí, ngồi xe báu có vô số trăm nghìn Thiên chúng vây quanh, đến phía Đông núi Tu Di trấn đóng ở đó nghênh binh địch Thần A Tu La.

Vua trời Đâu Suất cũng liền trang bị y như thế và kéo đến trấn đóng nghênh binh địch tại phía Nam núi Tu Di, Vua trời Hóa Tự tại cùng Thiên chúng đến đóng ở phía Tây, và Vua trời Tha Hóa đến đóng ở phía Bắc núi tu Di để cùng nghênh địch.

Đồng thời Vua Đế Thích nghĩ đến các Đại Thiên, và Chư Thiên Đạo Lợi, nghĩ đến Quỷ Thần Diệu Tượng và Long Vương Thiện Trụ.

Lúc ấy các Đại Thiên và Chư Thiên cõi Đạo Lợi biết ngay: “Vua Đế Thích đang nghĩ đến ta” Vậy ta mau chuẩn bị vũ khí, ngồi xe báu cùng vô số trăm nghìn Thiên chúng vây quanh trước sau đến trước Đế Thích chờ lệnh.

Quỷ Thần Diệu Tượng cũng biết ngay, liền tập trung vô số quỷ Thần trang bị đầy đủ, đến trước Đế Thích, Vua Rồng Thiện Trụ cũng liền đến trước Đế Thích chờ lệnh.

Bấy giờ Vua trời Đế Thích thân mặc áo giáp, ngồi trên đầu Vua Rồng Thiện Trụ chỗ bậc nhất, rồi lần lượt các Đại Thần theo thứ lớp ngồi, có vô số chư Thiên, Quỷ Thần bao quanh trước sau; tất cả ra khỏi Thiên cung đi giao chiến với binh Thần A Tu La.

Bấy giờ chư Thiên thắng, A Tu La bại bỏ chạy tán loạn, Chư Thiên bắt được Vua Thần Tỳ Ma Chất Đa La, họ dùng 5 sợi dây trói lại rồi đem về giảng đường Thiện Pháp.

Lúc đó Vua Thần A Tu La trông thấy cõi Trời đẹp vui quá, nên sinh tâm vui thích, liền tự nghĩ: “Cõi này đẹp quá, ta có thể sống ở đây, rồi sau này ta sẽ trở về cung của ta cũng được.” Khi ý nghĩ ấy phát sinh, sợi dây đang buộc chặt, tự nhiên nới lỏng ra, đồng thời 5 thứ dục lạc xuất hiện trước mặt; nếu Vua Thần muốn trở về cung, các sợi dây liền tự nhiên siết chặt lại, và 5 thứ dục lạc đều biến mất hết, Vua Thần càng bị trói chặt hơn; nhưng sự trói buộc của Ma còn chắc chắn hơn nữa. Chẳng hạn: chấp ngã chấp nhân bị trói cột, chấp thọ chấp ái bị trói buộc, chấp ngã là có hay là không đều bị trói buộc cả; các Ông hãy học điều này.

LỜI BÀN:

Trước hết, chúng ta nên tìm hiểu xem Thần A Tu La là gì? A Tu La: dịch từ tiếng Phạn là Ãsura có nghĩa là Thần, phi Thiên (Trời mà không phải Trời). Họ sống trong những cung điện ở lưng chừng núi Tu Di, hoặc sống trong những lâu đài trong hư không, họ giống như các vị Trời, nhưng hình thể không đẹp đẽ bằng Chư Thiên; có hai loại Thần:

- Thần loại hiền: Đây là loại Tròi cấp thấp, loại này hạnh phúc hơn Người.

- Thần loại đau khổ (Thần dữ): Loại này hay chống lại Chư Thiên, thường gây gỗ, tranh cãi với đồng loại. Loại này kém hạnh phúc giống cõi Người hay không bằng cõi Người. Loại này tương tự như những người hay vạch lá tìm sâu, sống không yên, hay thù hằn, tìm cách trả thù bằng ý bằng lời, hoặc bằng hành động. Khi có việc bé xé ra to, nên luôn có chuyện tranh cãi.

Đọc lược trích bài Kinh trên, chúng ta thấy không chỉ có loài người mới có chiến đấu, mà cõi Thần cũng thường gây chiến với cõi Trời; sở dĩ như thế là do cõi Thần cảm thấy thua cõi Trời, Chư Thiên thường đi qua đi lại bên trên cõi Thần, ở trên đầu họ, nên họ cảm thấy bực; khi nào họ không chịu được sự gai mắt ấy, chiến đấu lại bùng phát.

Bởi vậy, trong cuộc tranh biện, Vua Trời đã dùng nhẫn nhục để dạy cho Vua Thần bài học “Nhẫn nhục”, nếu có nhẫn nhục thì làm sao có đấu tranh; trong gia đình nào nếu mọi người đều nhẫn nhục, gia đình ấy sẽ êm ấm, gia đình nào mà mọi người đều không nhẫn nhục, gia đình ấy dễ đi đến tan vỡ. Trong một tổ chức, một đoàn thể, một đảng phái, một xã hội, nếu mọi người đêu nhẫn nhục, tổ chức ấy, đoàn thể ấy, đảng phái ấy, xã hội ấy, sẽ đoàn kết hòa thuận yên vui.

Câu đức Phật nói: “Đối với chúng sanh phát khởi lòng thương xót, từ bi. Này các Tỳ Kheo, các Ông tu đạo ở trong giáo pháp của Ta, phải khởi lòng từ bi, thương xót tất cả chúng sinh.”

Câu này ý Phật muốn những người con Phật khi tu theo giáo pháp của Ngài thì phải có lòng “Từ Bi” đối với tất cả chúng sinh; nghĩa là không những cho vui cứu khổ đối với đồng loại con người, mà còn phải có lòng thương xót cứu khổ tất cả các loài vật to nhỏ nữa.

Câu chót của bài Kinh, đức Phật nói: “Nhưng sự trói buộc của Ma còn chắc chắn hơn nữa. Chẳng hạn chấp ngã chấp nhân bị trói cột, chấp thọ chấp ái bị trói buộc, chấp ngã là có hay là không đều bị trói buộc cả.”

Tại sao chấp ngã bị trói cột?

Chấp ngã: là chấp cái “ta”, chấp cái “tôi”, cho rằng thân ta là thật, nếu xúc chạm đến thân ta không thể chấp nhận được; khi chấp cái ta thì tìm đủ cách để phục vụ cho cái ta, chấp ngã thì chấp cái của ta là thật, không ai được quyền xâm phạm đến những cái của ta. Chấp ngã như muốn ta có địa vị danh vọng nên phải tìm cách triệt hạ kẻ khác bằng mọi giá dù có phải xuyên tạc sự thật, có nói không, không nói có vẫn làm, hoặc luồn cúi nịnh hót hối lộ người trên, để có được địa vị danh vọng mong muốn. Tất cả những hành vi ấy đều đưa đến sự trói cột, bởi vậy, đức Phật bảo “chấp ngã bị trói cột” là vậy.

Tại sao chấp nhân bị trói cột?

Chấp nhân là chấp có người, tức là có người có ta, người khác ta khác, đã có sự phân biệt như thế thì có yêu có ghét, có phải có trái, yêu thì thân thiện, ghét thì không ưa, nên sẽ có nhiều ràng buộc khi yêu, và nhiều sự ngăn cách khi ghét, sự ngăn cách cũng là điều ràng buộc, chỉ là ngược lại thôi; bởi vậy Phật nói “Chấp nhân bị trói cột” là vậy.

Nếu biết thân này (ta) hay thân khác (nhân) đều do bốn đại đất nước gió lửa hợp lại mà tạm có thân, khi hết nhân hết duyên, ta và người đều trở về với đất nước gió lửa, trở về với cát bụi, chứ chẳng phải là thật ta. Như vậy, đời sống không bị kiểm tỏa, không bị ràng buộc, không có một chút phiền muộn, mà sống một cách tự tại vậy.

Chấp thọ chấp ái bị trói cột là sao?

Thọ là thụ, là cảm giác, cảm giác có cảm giác vui, cảm giác buồn, cảm giác không vui không buồn; Ái là ái ố, là yêu ghét; nếu chúng ta chấp vào cảm giác vui hoặc buồn, khi vui thì ưa thích, khi buồn thì ghét bỏ, chính sự ưa thích và ghét bỏ này đem lại sự ràng buộc chúng ta, tại sao? Vì khi ưa thì cố tìm cách đạt cho được, khi ghét thì cố làm sao gạt bỏ nó, và chính sự ưa ghét này đưa chúng ta vào trong sự ràng buộc để đạt sự ưa ghét. Ví dụ khi ăn một món ăn ngon, ta cảm thấy thích, nên cứ muốn ăn hoài, tìm cách này hay cách nọ để có ăn, đó là sự ràng buộc; bởi vậy đức Phật bảo “Chấp thọ chấp ái bị trói cột” là thế.

Nếu khi năm căn mắt, tai, mũi, lưỡi, thân tiếp xúc năm trần là sắc, thanh, hương, vị, xúc, chúng ta biết cảnh đẹp xấu, tiếng hay dở, mùi thơm thối, vị chua cay, thân nóng lạnh. Chúng ta biết nó là như thế, xong rồi thôi, không khởi yêu ghét, khen chê, vui buồn, thì chúng ta không bị ràng buộc bởi những thứ ấy, và lúc đó chúng ta được thảnh thơi tự tại vậy.

Chấp ngã là có hay không đều bị trói buộc cả là sao?

Chấp ngã là có cái ta như trên đã nói, bị trói cột.

Chấp ngã là không cũng bị trói buộc là sao?

Chấp ngã là không, tức cái ta chẳng có gì, nó là không ngơ chẳng còn gì cả, ví như khi ta ăn một cái bánh, khi ăn xong là hết bánh chẳng còn gì, đây là thuyết của những người “chấp đoạn”. Người có quan điểm này cho rằng con người sinh ra là ngẫu nhiên, tự nhiên như thế, có hợp có sinh, mọi việc ở đời chỉ là may rủi, gặp may có vui, gặp rủi phải buồn; khi già bệnh phải chết là lẽ tự nhiên. Khi chết là hết chẳng còn gì nữa, sự may rủi cũng theo cái chết mà không còn gì nữa, thân xác thành cát bụi, hư vô, không còn một tí gì cả.

Theo quan điểm “chấp đoạn”, con người sống chỉ nghĩ đến hưởng thụ cho mau, nên đưa đến tình trạng dành giật, không cần biết tới bình đẳng, đạo đức, tôn ty, đây là quan điểm có tính cách buông xuôi, không phải quan điểm của những người trí tuệ, mà giống như cách đối xử hạ đẳng của các loài vật. Bởi vì con người ngoài phần thể xác, còn có phần tinh thần, nên bảo rằng chết là hết thì không đúng, tại sao? Vì phần tinh thần nó vô hình vô tướng, mắt người thường không thể thấy được, nên tưởng rằng không có gì cả, nhưng đối với các bậc Giác ngộ, các vị biết thấy rõ phần tinh thần này.

Do đó đức Phật nói “chấp ngã là có hay không đều bị trói buộc” là vậy.

Toàn Không

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
01/11/2010(Xem: 3933)
Mặc dù không thể nói nhiều nhưng tôi muốn nói ít lời này. Tulku Urgyen Rinpoche và tôi cùng quê quán ở miền Đông Tây Tạng, nhưng chúng tôi vẫn có vẻ rất xa cách nhau. Vào thời ấy chúng tôi không có phương tiện để tới với kỹ thuật tân tiến. Bởi không có máy bay, không xe lửa, không xe hơi nên mọi người phải đi bộ hay đi ngựa, vì thế một khoảng cách mà ngày nay chúng ta thấy dễ dàng vượt qua bằng phương tiện vận chuyển hiện đại thì vào thời đó nó có vẻ rất dài. Mặc dù dĩ nhiên là chúng tôi có nghe nói về nhau, nhưng mãi tới khi lần đầu tiên tôi tới Thung lũng Kathmandu thì chúng tôi mới bắt đầu có một sự nối kết.
30/10/2010(Xem: 4047)
Trước tiên chúng ta phải học “giới học” để thực hành. Nếu không biết giới học, chúng ta không thể nào tịnh hóa những hành vi cư xử của mình. Rồi chúng ta phải học thêm chỉ (samatha) để kiểm soát và tập trung tâm ý. Nếu không biết về thiền chỉ, chúng ta sẽ trau dồi định như thế nào? Nếu không hành định, làm sao chúng ta có thể kiểm soát được tâm mình? Sau đó, chúng ta phải học cách làm thế nào để trau dồi trí tuệ. Nếu không biết về tuệ học, chúng ta trau dồi trí tuệ ra sao?
29/10/2010(Xem: 4737)
Căn cơ của một người bình thường không thể nào biết được có kiếp trước hay kiếp sau. Chỉ có những người tu tập thiền định, đi sâu vào nội tâm, chứng được các tầng thiền, hoặc có thiên nhãn thông, túc mạng thông thì mới thấy được kiếp sống quá khứ và vị lai.
26/10/2010(Xem: 4080)
Đề mục kinh này vô cùng rõ ràng, nội dung cũng rất đơn giản, trong sáng, thiết yếu. Trong bộ kinh này, đức Phật dạy chúng ta phương pháp để cái tâm được thanh tịnh. Trong pháp môn Tịnh Độ, chúng ta đều biết đến đạo lý “tâm tịnh cõi nước tịnh”.Do đây biết rằng: đối với việc tu học Tịnh Độ tông, tâm thanh tịnh vô cùng trọng yếu. Người phiên dịch bộ kinh này là ngài Thi Hộ, Ngài là người ngoại quốc đến Trung Quốc hoằng pháp vào thời Nam Bắc Triều.
23/10/2010(Xem: 9593)
Trên đời này có những người có chánh kiến, tin rằng sự bố thí cúng dường sẽ đem lại những kết quả tốt đẹp; các hành vi thiện ác đều dẫn đến quả báo; đồng thời cũng tin rằng có những người chân chánh hành trì Chánh pháp, tuyên bố những điều do tự mình thể nghiệm và chứng ngộ. Do nguyên nhân chánh kiến này mà một số loài hữu tình sau khi mệnh chung được sinh vào thiện thú, cõi đời này (Trung Bộ kinh I)
22/10/2010(Xem: 4233)
Mỗi một trong vô lượng cuộc đời của chúng ta từ vô thuỷ, chúng ta phải có những bậc cha mẹ. Vào lúc này hay lúc khác, mỗi một chúng sinh duy nhất hẳn đã từng là mẹ hay cha của ta. Khi chúng ta nghĩ tưởng tới tất cả chúng sinh này - những người từng là cha mẹ của chúng ta - đã phải lang thang quá lâu và không người cứu giúp trong vòng luân hồi sinh tử giống như những người mù lạc đường, thì chúng ta không thể không cảm thấy một lòng bi mẫn lớn lao đối với họ. Tuy nhiên, tự bản thân lòng bi mẫn thì không đủ; họ cần sự giúp đỡ thực sự.
22/10/2010(Xem: 4833)
Một Giáo lý của Jetsunma Ahkon Lhamo Trong Phật Giáo Kim Cương thừa – là hình thức Phật Giáo được bảo tồn ở Tây Tạng và Mông Cổ và là một tông phái được tu hành ở chùa của tôi – một trong những giáo lý căn bản làsự hiểu biết và thực hành lòng bi mẫn. Cá nhân tôi nhận ra rằng một triết học tôn giáo được đặt nền trên lòng bi mẫn vô ngã mang lại cho ta một sự hài lòng sâu xa và tôi tin rằng nó đánh trúng tình cảm của nhiều người Mỹ.
21/10/2010(Xem: 4313)
Ở Solu Kumbu mọi người lớn tuổi đều quay Bánh Xe Cầu nguyện mỗi ngày. Khi họ ở nhà vào buổi sáng và buổi tối trước khi đi ngủ, họ cầm một mala (chuỗi hột) trong bàn tay trái, một Bánh Xe Cầu nguyện trong bàn tay phải, và trì tụng thần chú OM MANI PADME HUNG. Và khi họ đi vòng quanh, họ liên tục quay Bánh Xe Cầu nguyện và tụng OM MANI PADME HUNG.
19/10/2010(Xem: 4656)
Một lần, khi Đức Phật nhuốm bệnh ở Beluvà, trước sự lo âu buồn khổ của tôn giả Ananda (Trường III, trang 101), và một lần khác, trước tin tôn giả Sàriputta (Xá lợi Phất) đã mệnh chung và trước sự lo âu của tôn giả Ananda (A Nan) (Tương V, 170), Đức Phật đã tuyên bố lời dạy này, vừa là lời chỉ dạy tóm thâu mọi phương pháp tu hành của ngài được cô đọng lại, và cũng là một lời trăn trối của một bậc Đạo sư biết mình sắp lâm chung, nên có những lời nhắn nhủ và khích lệ đệ tử của mình những gì các đệ tử cần phải tu tập, sau khi bậc Đạo sư viên tịch...
16/10/2010(Xem: 4508)
Bạn đã được giới thiệu về “phương châm tu tập”, “ý nghĩa của Sám hối”, và “tâm Bồ đề”. Đó chính là những hành trang cần thiết, quan trọng để xây dựng những nhận thức căn bản và thực tiễn cho cuộc sống hạnh phúc cũng như cho cuộc hành trình tâm linh của bạn. Khi đã có đầy đủ những hành trang cần thiết cho tư duy và hành động rồi, bây giờ là lúc bạn có thể đi vào thực tập những pháp môn căn bản không phải để có ý niệm về hạnh phúc hay để lí luận về hạnh phúc, mà để “sống hạnh phúc” ngay bây giờ và ở đây.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567