Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Muốn Vãng Sanh về Cực Lạc phải có điều kiện gì ?

03/04/201202:20(Xem: 3685)
Muốn Vãng Sanh về Cực Lạc phải có điều kiện gì ?


phat a di da-2
MUỐN VÃNG SANH
VỀ XỨ CỰC LẠC CỦA PHẬT A- DI- ĐÀ

CÓ MẤY ĐIỀU KIỆN?

Thích Giác Khang

------ * ------


Muốn cảm ứng đạo giao với Phật A Di Đà để vãng sanh về xứ Cực lạc cần phải tu cho đúng, nghĩa là niệm Phật phải đạt nhất niệm, muốn được vậy phải có 3 điều kiện:

*TÍN # ĐỊNH # THỂ (thuộc tâm)

*HẠNH # GIỚI # TƯỚNG (thuộc thân)

* NGUYỆN # TUỆ # DỤNG (diệu dụng của tâm)

1/ TÍNTIN SÂU: Thế nào gọi là tin sâu?

Muốn có tin sâu thì tối thiểu phải đạt từ nhất niệm của nhị thiền trở lên, đến giai đoạn này, tiếng niệm Phật phát ra từ Vô thứctức là Tàng thứccòn gọi là A Lại Da thứchay Thức thứ 8.Tin sâu có nhiều mức độ, thông qua 4 cấp : Sự - Lý - Sự lý viên dung - Sự sự vô ngại pháp giới.

a/TIN SỰ: là hiện tượng đối với hiện tượng của phàm phu, căn cứ vào thiền định làm minh chứng. Tu thiền định trải qua 5 giai đoạn, lấy câu «Nam mô A Di Đà Phật » làm đề mục để được nhất niệm. Nếu có phát nguyện sẽ vãng sanh về « Hạ phẩm » ở cảnh Phàm thánh đồng cư Tịnh độ.

* Sơ thiền: «ly dục sinh hỷ lạc » niệm Phật bằng ý thức trải qua 2 giai đoạn:

. Tầm : niệm Phật đếm từ 1- 10 cho đến khi không còn tạp niệm xen vào.

. Sát : niệm Phật khỏi đếm, theo dõi lắng nghe tiếng niệm Phật.

Đạt Sơ thiền nếu có phát nguyện sẽ vãng sanh về «Hạ phẩm Hạ sanh».

* Nhị thiền: «định sanh hỷ lạc» niệm Phật bằng vô thức. Khi nghĩ đến là lắng nghe tiếng niệm Phật tự phát từ tàng thức, dẫn đến thân an - tâm hỷ.

* Tam thiền : «ly hỷ diệu lạc» niệm Phật bằng vô thức. Chìm đắm (sâu) vào tiếng niệm Phật, dẫn đến thân lạc - tâm lạc.

Đạt nhị thiền, tam thiền nếu có phát nguyện sẽ vãng sanh về «Hạ phẩm Trung sanh».

* Tứ thiền – Tứ không : «bất lạc bất khổ thọ» (Đại thừa gọi là xả niệm thanh tịnh địa, Tiểu thừa gọi là định bất động hay tịnh định xả). Tâm thức thăng hoa, không dính mắc vào xác thân, thấy tất cả đều là duyên hợp, bấy giờ tiếng niệm Phật tự phát chính là thân-tâm-hoàn cảnh và ngược lại thân-tâm-hoàn cảnh chính là tiếng niệm Phật.

Đạt tứ thiền-tứ không nếu có phát nguyện sẽ vãng sanh về «Hạ phẩm Thượng sanh».

Khi tin sâu sẽ có 6 điều lợi:

  1. Tin sự: có xứ cực lạc ở phương Tây.
  2. Tin lý: tin y báo và chánh báo của xứ Cực lạc phát hiện từ Chân tâm, là báo thân của Đức Phật A Di Đà lập ra để cứu độ chúng sanh.
  3. Tin tự: tin chắc chính mình tự tu, chính mình sẽ được nhất niệm thông qua chứng đắc các tầng thiền : sơ thiền, nhị thiền, tam thiền, tứ thiền, tứ không. Từ nhất niệm chuyển sang vô niệm chắc chắn vãng sanh.
  4. Tin tha: tin chắc Phật A Di Đà dùng tha lực tiếp dẫn thần thức mình về xứ Cực lạc.
  5. Tin nhân: gieo nhân niệm Phật được nhất niệm và nguyện lực sẽ nhận được quả vãng sanh.
  6. Tin quả:gieo được nhân trên sẽ nhận được quả vãng sanh về xứ Cực lạc.

b/ TIN LÝ: từ hiện tượng nhận lại bản thể, từ nhất niệm nhận lại vô niệm, từ vọng tâm nhận lại Chân tâm, từ tướng nhận lại tánh của tứ Thánh. Nếu có phát nguyện sẽ vãng sanh về «Trung phẩm» ở cảnh Phương tiện hữu dư Tịnh độ.

- Thánh Nhập lưu về «Trung phẩm Hạ sanh».

- Thánh Nhất vãng lai và Thánh Bất lai đạo về «Trung phẩm Trung sanh».

- Thánh Bất lai quả và Thánh Alahán về «Trung phẩm Thượng sanh».

c/ TIN SỰ LÝ VIÊN DUNG: từ Bản thể trở ra hiện tượng giới cứu độ chúng sanh của Bồ Thánh thực hiện hạnh đại bi. Nếu có hướng tâm sẽ vãng sanh về «Thượng phẩm» ở cảnh Thật báo trang nghiêm Tịnh độ.

- Từ Sơ địa đến Lục địa về «Thượng phẩm Hạ sanh».

- Từ Thất địa đến Cửu địa về «Thượng phẩm Trung sanh».

- Từ Thập địa đến Đẳng giác về «Thượng phẩm Thượng sanh».

d/ TIN SỰ SỰ VÔ NGẠI PHÁP GIỚI: hiện tượng chính là Bản thể, Bản thể chính là hiện tượng. Bản thể và hiện tượng tương ưng vô ngại, đây là thế giới Diệu giác của chư Phật có Pháp thân thường trụ, tự tại lực ứng hóa. Nếu hướng tâm cõi Tịnh độ, các Ngài lập tức ứng hiện trong phẩm «Tối thượng» ở cảnh Thường tịch quang Tịnh độ.

2/ HẠNHHÀNHCHUYÊN : thế nào gọi là hành chuyên ? là thực hành phải chuyên cần. Trước hết cần giữ giới kỹ lưỡng, tối thiểu là 5 giới không làm 5 điều ác phải làm 5 điều lành:

1/ Không sát sanh mà còn phải 1/ Phóng sanh.

2/ Không trộm cắp mà còn phải 2/ Bố thí.

3/ Không tà dâm mà còn phải 3/ Tiết dục.

4/ Không nói dối mà còn phải 4/ Nói lời chân thật, dịu dàng.

5/ Không dùng các mà còn phải 5/ Tâm thức tỉnh táo quán

chất sai như : cờ bạc, vô thường - vô ngã - khổ đau.

rượu, ma túy,...

Giữ giới kỹ lưỡng sẽ có 4 điều lợi :

1- Rành rõ: rành là từng chữ, từng câu rành rọt không lẫn lộn. Rõ là tự mình nhận lấy tiếng niệm Phật rõ ràng.

2- Tương ưng: tiếng niệm Phật ở đâu thì tâm đó, tâm ở đâu thì tiếng niệm Phật ở đó, tiếng và tâm hòa hiệp với nhau.

3- Chí thiết: nhất tâm tha thiết luôn nhớ - nghĩ - tưởng đến Phật A Di Đà.

4- Nhiếp tâm: chú tâm theo dõi tiếng niệm Phật không cho tạp niệm xen vào, nếu xao lãng thâu lại tức khắc.

Hành có tinh chuyên thì Tín mới sâu và tin có sâu thì hành chuyên thêm. Vì vậy tin sâu và hành chuyên luôn luôn bổ sung, hỗ tương cho nhau.

3/ NGUYỆNphải NGUYỆN THIẾT: nguyện không cần điều kiện, đây là yếu tố quyết định cho vãng sanh. Nguyện thuộc diệu dụng của tâm tức trí huệ.

Như thế nào gọi là nguyện thiết ? nguyện thiết là trong nguyện phải có tin sâu và hành chuyên. Vì hành có chuyên thì tin sâu làm cho thức trong sang quán vô thường - vô ngã - khổ đau để hiểu rõ mà phân tích, so sánh cho được sự khác nhau giữa cõi Uế độ với cõi Cực lạc : cõi Uế độ sinh diệt chu kỳ đưa đến 8 khổ đau, còn cõi Cực lạc sinh diệt sátna được 8 cái vui, từ đó yễm ly cõi Uế độ mà hân nguyện cõi Tịnh độ.

-------- Sư GK đã duyệt tháng 3/2006 (âl) --------

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
04/09/2010(Xem: 5546)
Tổ Long Thọ nói rằng cho một hệ thống nơi mà tính không là có thể, nó cũng có thể có chức năng, và vì chức năng là có thể, tính không cũng có thể. Vì thế khi chúng ta nói về thiên nhiên, căn bản thiết yếu của thiên nhiên là tính không. Tính không hay shunyata nghĩa là gì? Nó không là tính không của sự tồn tại (không đối với có) nhưng đúng hơn là tính không của chân lý (chân không) hay sự tồn tại độc lập, điều này nghĩa là những sự vật khác tồn tại bởi sự lệ thuộc trên những nhân tố khác.
03/09/2010(Xem: 5186)
Theo giáo nghĩa Đạo Phật, có một sự phụ thuộc lẫn nhau rất gần gũi giữa môi trường thiên nhiên và những chúng sinh sống với nó. Vài người bạn đã từng nói với tôi rằng, căn bản tự nhiên của con người là những gì bạo động, nhưng tôi đã nói với họ rằng tôi không đồng ý. Nếu chúng ta thẩm tra những thú vật khác nhau, thí dụ, những thú vật mà chính sự tồn tại của chúng tùy thuộc vào việc lấy đi mạng sống của những thú vật khác, như những con sư tử, beo, hay cọp, chúng ta học rằng căn bản tự nhiên của chúng cung cấp cho chúng với răng nanh và móng vuốt bén nhọn.
28/08/2010(Xem: 9075)
Viết về Thế Tôn, các nhà nghiên cứu Phật học thường đề cập đến Ngài như một đấng Giáo chủ đã tìm ra con đường giải thoát và chỉ rõ con đường ấy cho nhân loại, hoặc đề cập đến Ngài như một nhà đại tư tưởng, một nhà cách mạng xã hội, v.v... Nhưng có rất hiếm những luận văn, công trình đề cập đến Ngài như một nhà giáo dục tư tưởng, và giáo lý của Ngài như là một hệ thống tư tưởng giáo dục toàn diện và tiên tiến.
28/08/2010(Xem: 4350)
Nền giáo dục thiết lập trên nền tảng hiểu biết sự liên hệ giữa nhân duyên, nhân quả của cá nhân và cộng đồng không phải trong một thời gian mà mọi thời gian, và không phải trong một không gian mà mọi không gian là hết sức cần thiết cho đời sống hòa bình, an lạc và văn minh của chúng ta, khiến tự nó có khả năng vãn hồi trật tự và hoàn thiện cho xã hội của chúng ta ngày nay.
14/06/2010(Xem: 3390)
Đời sống quốc gia với hoàn cảnh địa lý và sự ảnh hưởng khí hậu thiên nhiên đã tạo cho Ấn Độ có một lịch sử khác với các quốc gia trên thế giới. Đó là một Ấn Độ có những rừng núi thâm u , tục gọi là Lục địa xanh (Pays blues) đã ảnh hưởng nhiều tới luồng tư tưởng nhân bản, tiến bộ và giải thoát sớm nhất trong lịch sử nhân loại. Các nhà triết học, các luận sư và các luận thuyết trứ danh cũng đều xuất hiện tại xứ sở đầy huyền bí này
15/05/2010(Xem: 6058)
Người học Phật chúng taai cũng đều chứng nghiệm được rằng việc tu học tại xứ người quả thật không đơn giản. Trước tiên vì bối cảnh của quốc độ mình đang trú, sau cùng nhưng lại có ảnh hưởng lớn nhất là cuộc sống của bản thân và chính gia đình mình. Tuy nhiên theo tôi, chúng ta cứ nhìn hay là quán những khúc mắc đó như là một phương tiện trong ý nghĩa của tùy duyên bất biến để học, tu và hành Đạo. Ngoài ra chúng ta cũng đừng quên câu thứ 4 trong mười điều của Luận Bảo Vương Tam Muội có ghi rõ là: xây dựng đạo hạnh thì đừng cầu không bị ma chướng, vì không bị ma chướng thì chí nguyện không kiên cường.
14/05/2010(Xem: 6673)
thế là lá thư tịnh hữu đã thiếu các bạn một kỳ rồi đó. Chúng ta hẳn biết rằng, sự hiện hữu và thành hoại của mọi vạn vật không hề ra ngoài lý nhân duyên và duyên khởi. Nên sự vắng một lần thư trên số báo Viên Giác kỳ trước cũng không ra khỏi phạm trù này vậy! Có; không vì không để mà có và không; không vì không có mà không. Mọi vật, mọi việc đều nằm trong vòng chi phối của nhân và duyên để mà có hay không, thành hay hoại. Đây cũng là tinh túy nội dung một câu chuyện mà ai trong chúng ta đã từng được nghe hoặc đọc rồi. Câu chuyện như sau: giai đoạn đầu thấy núi là núi, sông là sông; giai đoạn giữa thấy núi không là núi, sông không là sông; giai đoạn cuối là thấy núi vẫn là núi và sông cũng vẫn là sông! Theo tôi, ba giai đoạn trên có hiện hữu hay không cũng không ở ngoài nhận thức của chúng ta. Nhưng! Nếu không thấu triệt luật nhân duyên, lý duyên khởi thì mình không thể phá vỡ được những thành kiến, định kiến v.v... Cái mà trong nhà Phật gọi là chấp. Và cũng chính cái này là nhân tố qu
09/05/2010(Xem: 9979)
Có người nói: "Cuộc đời như giấc mộng", có người nói "Cuộc đời như tấn trò", có người nói "Cuộc đời như hạt sương"; cũng có người nói: "Đời là bể khổ", đời người như "khách qua đường", cuộc đời như "mây trôi"! Nếu như những ví von này xác đáng thì cuộc đời quả đáng buồn biết bao.
30/04/2010(Xem: 9292)
Đã khá lâu rồi, „Lá Thư Tịnh Hữu“ vắng bóng trên Viên Giác. Bắt đầu từ năm 2000, đến giờ sắp sang năm 2004, mà cũng chưa chấm dứt. Nhiều bạn hữu nói nhỏ, “không biết ông Thị Chơn Nghiệp Dọc này còn dài dài đến bao lâu nữa!”. Hôm kỷ niệm 25 năm thành lập chùa Viên Giác và báo Viên Giác, Thị Chơn (TC) tôi đảo một vòng trong khuôn viên của chùa để thăm các quầy phát hành bánh trái, nước uống và thức ăn chay. Chợt nghe một giọng Huế khá quen thuộc phát ra dưới mái lều che mưa nắng dựng nơi quầy phát hành của Sư Bà Như Tuấn:
16/03/2010(Xem: 5348)
Tha tội là gì? Triết lý và các tôn giáo phương Tây nghĩ về điều đó như thế nào? Tôi chỉ gợi lên ở đây hai ba câu hỏi thôi, liên quan đến câu chuyện mà tôi sẽ kể. Không biết có phải nhân loại trở nên thánh thiện hay không mà bỗng nhiên xin lỗi, thú tội, hối hận trở thành vấn đề thời sự. Hay có lẽ ai nấy đều theo gương Giáo Hoàng bên La Mã. Bên Mỹ, ông Clinton hối hận đến động lòng, xin lỗi xót xa, vì trót sảy chân chút phận đàn bà. Bên Argentine, nhà thờ lên tiếng xin tha tội vì đã im lặng đồng lõa trong suốt thời gian độc tài quân phiệt. Nhà thờ Brésil cũng vội vàng tuyên bố hối lỗi trước “Người da đỏ và người da đen”. Một vài bạn của ông Chirac giục ông hối hận trước dư luận vì bàn tay của ông có nhúng khá sâu vào những mánh mung kinh tài trong khi làm thị trưởng Paris.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567