Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Thiền Tịnh Song Tu

14/05/201021:03(Xem: 6776)
Thiền Tịnh Song Tu


ngoi thien_2

Thiền Tịnh song tu



"Vừa tọa Thiền, vừa niệm Phật,
Triệu người tu, triệu người chứng Phật quả. 
Có tọa Thiền, không niệm Phật,
triệu người tu, hiếm người không lạc lối"

(Vĩnh Minh Diên Thọ Thiền Sư)

A Di Đà Phật,

thế là lá thư tịnh hữu đã thiếu các bạn một kỳ rồi đó. Chúng ta hẳn biết rằng, sự hiện hữu và thành hoại của mọi vạn vật không hề ra ngoài lý nhân duyên và duyên khởi. Nên sự vắng một lần thư trên số báo Viên Giác kỳ trước cũng không ra khỏi phạm trù này vậy! Có; không vì không để mà có và không; không vì không có mà không. Mọi vật, mọi việc đều nằm trong vòng chi phối của nhân và duyên để mà có hay không, thành hay hoại.

Đây cũng là tinh túy nội dung một câu chuyện mà ai trong chúng ta đã từng được nghe hoặc đọc rồi. Câu chuyện như sau: giai đoạn đầu thấy núi là núi, sông là sông; giai đoạn giữa thấy núi không là núi, sông không là sông; giai đoạn cuối là thấy núi vẫn là núi và sông cũng vẫn là sông! Theo tôi, ba giai đoạn trên có hiện hữu hay không cũng không ở ngoài nhận thức của chúng ta. Nhưng! Nếu không thấu triệt luật nhân duyên, lý duyên khởi thì mình không thể phá vỡ được những thành kiến, định kiến v.v... Cái mà trong nhà Phật gọi là chấp. Và cũng chính cái này là nhân tố quan trọng tác động và luân chuyển sinh tử.

Mới đây,tôi đã đọc quyển sách của Sư phụ tôi viết cho năm 2000. Cứ mỗi năm Người viết một quyển với một tựa đề khác nhau. Năm nay là "Có và Không". Sư phụ tôi đã viết "Có và Không" theo quan niệm: về tình yêu và ái nhiễm (Chương 1); về hạnh phúc và khổ đau (Chương 2); vũ trụ và nhân sinh (Chương 3); theo tinh thần Bát Nhã (Chương 4); theo tinh thần Trung Quán luận (Chương 5); vô thường (Chương 6) cuối cùng là phần kết (Chương 7).

Chương 5 là chương tôi nghiền ngẫm, đọc tới lui nhiều lần để học và hiểu "446 câu kệ về Trung Luận của Ngài Long Thọ" do chính Sư phụ chuyển từ chữ Hán sang Việt ngữ. 446 câu kệ này được chia ra làm 27 phẩm. Mỗi phẩm được bố cục rất chặt chẽ để trình bày cái có và không trong tinh thần trung đạo qua kiến giải của Ngài Long Thọ.

Tôi không biết nhiều về thơ văn và cú pháp. Chỉ biết rằng sự cấu kết trong mỗi câu kệ gồm có 2 vế, mỗi vế có 5 chữ và được tách ra bằng một dấu chấm phẩy. Dù đọc đi đọc lại nhiều lần nhưng tôi cũng chưa thấm được. Thôi đành gác lại để có dịp nghiên cứu sau.

Tiếp sang Chương 6. Trong Chương này Sư phụ tôi viết về Vô Thường. Cái mà ai cũng có thể diễn tả được. Nhưng để chứng nghiệm nó thì ít có mấy ai. Chỉ khi chính bản thân mình trực diện với vô thường thì mới biết nó là ai ? Còn sự vô thường chúng ta thấy, nghe và hiểu cũng vẫn luôn còn là một nhận thức. Nó chưa hẳn và hoàn toàn là một chứng nghiệm tự bản thân. Câu nói người ta thường dẫn dụ cho ý này là chỉ khi mình tự uống nước nóng thì mới biết cái nóng của sự phỏng ra sao ! Nhưng tất cả sự vô thường không thể ngoài lý nhân duyên mà có được. Nếu cái nhân là sự huân tập chủng tử không có; thì dù cho có duyên đến cũng không thể khởi được.Cái nhân được học Pháp, gần Tăng, người Phật Tử chúng ta đã và đang có. Chỉ còn việc huân tập chủng tử A Di Đà Phật thì chúng ta được diện kiến Phật ngay trong hiện tại (kiến tánh). Vì sao? Vì Tây Phương Cực Lạc dựa theo bốn chữ A Di Đà Phật. Nên một niệm A Di Đà là chánh niệm, là Tịnh Độ, là Phật. Bởi không còn vọng tưởng điên đảo nữa ! Mới chiếu kiến ngũ uẩn giai không, độ nhất thiết khổ ách được.

Trong trang 187 Sư phụ tôi viết như sau: Sau khi về lại chùa Viên Giác, Thầy (Thầy Thiện Thông: lời người viết) đã bảo với tôi rằng "Thầy Viên Giác ơi! Tôi đã rút hết ruột gan, tim phổi của mình để giảng cho các Phật Tử ở Đức nghe về Pháp Môn Tịnh Độ rồi đó. Bây giờ (sang trang 188) chỉ còn tu nữa thôi, chứ không còn gì nữa cả...".

Đọc đến đây, tôi gấp sách lại. Hình ảnh đầu tiên hiện ra trong tôi là Thầy Thiện Thông. Sát na kế tiếp trong tâm thức tôi là hai chữ nhân và duyên. Thật vậy. Đây chính là cái nhân và duyên Thầy Thiện Thông đã có đối với Phật Tử tại Đức Quốc và ngược lại.

Vì sao ? Thứ nhất người ta thường nói Phật độ kẻ có duyên. Cũng như ánh sáng mặt trời không soi sáng được kẻ mù; lời hay ý đẹp không làm cho người điếc nghe được. Thật không sai! Người mù đâu có duyên để được nhìn ánh sáng mặt trời. Và người điếc cũng đâu có duyên để được nghe những lời hay ý đẹp. Pháp Phật nhiệm mầu như thế, đã có mấy ai có duyên để được nghe. Nhưng hễ nói đến duyên thì phải có nhân. Bằng không, hết chuyện! Vậy cái nhân ở đây là gì? Xin thưa chính là chủng tử Tịnh Độ, cái mà người Phật Tử ở trú xứ này đã gieo từ bao nhiêu kiếp rồi, cũng như của riêng Thầy Thiện Thông đối với Phật Tử ở Đức. Tại sao? Vì đã có bao nhiêu người đã có duyên để được nghe Thầy Thiện Thông thuyết giảng về pháp môn Tịnh Độ, cho dù họ cũng có nhân. Nhưng chắc cái nhân của họ đặt ở nơi khác!

Hai là cái duyên của Thầy Thiện Thôngcó với Phật Tử tại Đức phát xuất từ hạnh nguyện của Thầy. Khi duyên hết thì Thầy từ giã chúng ta. Điều này chứng minh rõ ràng qua câu nói của Thầy: "... Tôi đã rút hết ruột gan, tim phổi của mình để giảng cho các Phật Tử ở Đức nghe về Pháp Môn Tịnh Độ rồi đó".

Tịnh Hữu thân mến, một người đã rút hết ruột gan, tim phổi của mình ra rồi thì còn gì để mà hít vào thở ra nữa! Thầy Thiện Thông đã báo trước rõ ràng cho mọi người biết sự ra đi của Thầy rồi. Như trong các Kinh Tịnh Độ đã có nói đến. Như sự ra đi của các Tổ xưa. Cũng như của những người tu Tịnh Độ trong hiện tại. Những ai còn thắc mắc để tìm biết Thầy đi về đâu, theo thiển ý của tôi thì họ còn đem cái kiến chấp hạn hẹp để so với hạnh nguyện bao la của Thầy. Cho nên chúng ta đừng thắc mắc là Thầy sẽ đi về đâu cả. Tu Tịnh Độ thì về Tây Phương Cực Lạc, chứ còn đi đâu nữa. Chỉ có những ai tu Tịnh Độ mà tâm không chí thành, nguyện không sâu, hạnh chưa rốt ráo (ba la mật) nghĩa là niệm A Di Đà mà không biết ai niệm, tâm ý rong ruổi theo huyễn cảnh, vọng tưởng điên đảo (miệng thì Nam Mô A Di Đà Phật liên tục, nhưng tâm ý thì như trái banh, mình không đá thì cũng bị người ta đá tới đá lui!); hoặc giả niệm A Di Đà Phật chỉ muốn về Tây Phương Cực Lạc hưởng lạc, thì ôi thôi, ai tai! Chính họ mới là những người khổ tâm, đáng thương nhất khi cơn vô thường bất chợt đến với họ. Tại sao? Vì họ đã lầm đường, lạc lối rồi. Uổng công, vô ích!

Các Tịnh Hữu thân mến.Trên cõi này, mấy ai biết trước được cơn vô thường đến lúc nào. Nếu có duyên lành thì được ở gần Chùa, hoặc ở những nơi có Tăng Ni trú ngụ. Lúc lâm chung sẽ được Chư Tôn Đức, Ban Hộ Niệm nhắc nhở cho niệm A Di Đà. Tro cốt còn đưa về Chùa để được Chư Tôn Đức hộ niệm, thân nhân cúng kiến thăm viếng! Nhưng đặt trường hợp, mình đang tha phương cầu thực ở đâu đó, hay trong bất kỳ một hoàn cảnh nào mà rủi ro bị một tai nạn và hết thở thì sao? Ai sẽ hộ niệm cho mình? Ai sẽ nhắc nhở cho mình nhớ đến bốn chữ A Di Đà Phật, chứ đừng nói tới lục tự? Ở đây tôi mong các bạn nhận ra được chữ Ai. Nếu được như vậy thì cái sống và sự chết là gì đối với các bạn? Nó chỉ là hai từ trống rỗng (vì hình thể và nội dung của nó do nhận thức của mình mà có!), là hai cái đối đãi của giai đoạn một và giai đoạn hai trong câu chuyện bên trên.

Riêng tôi chỉ biết có một điều là Thầy Thiện Thông đã về Tây Phương Cực Lạc để được Đức Phật A Di Đà thọ ký độ tiếp những loài chúng sanh ở một quốc độ nào đó có nhân và duyên với Pháp Môn Tịnh Độ. Đó là bản hoài của Thánh chúng ở Tây Phương Cực Lạc. Vì họ sẽ không trụ tại đó để hưởng lạc, mà tùy theo hạnh nguyện của mình, họ sẽ được Đức Phật A Di Đà thọ ký cho thị hiện trong vô lượng quốc độ để độ cho vô lượng những chúng sanh.

Đã có nhân và duyên nhưng chưa chắc đã khởi được. Còn phải cần thêm cái trợ duyên nữa. Nếu Đạo hữu Minh Tấn, là con rể của bào đệ của Thầy Thiện Thông, không phải là một Phật Tử thuần thành của Chùa Viên Giác, thì Thầy Thiện Thông đã đâu có về Chùa Viên Giác, thì làm sao Phật Tử tại Đức có duyên được nghe Thầy Thiện Thông giảng về pháp môn Tịnh Độ trong suốt thời gian gần nửa năm trong lần đầu Thầy đến Đức. Và nếu bào đệ của Thầy không ở Đức, thì Thầy sang Đức làm gì? Nếu như vậy thì cũng giống như bao nhiêu Chư Tôn Đức từ Việt Nam đã, đang và sẽ sang Đức thăm viếng mà thôi!

Nhưng câu nói sau của Thầy Thiện Thông mới là nhân duyên chính để có lá thư tịnh hữu này gửi đến các bạn. Thầy nói tiếp: "... Bây giờ chỉ còn tu nữa thôi, chứ không còn gì nữa...".Bây giờ chỉ còn tu nữa thôi. Nhưng tu như thế nào để khi cơn vô thường đến chúng ta còn nhất tâm niệm được bốn chữ A Di Đà Phật mà trực chỉ đến Tây Phương Cực Lạc, đảnh lễ Phật A Di Đà cùng Thánh Chúng chứ ?

Câu chuyện như sau.Lần đầu tiên khi Thầy Thiện Thông đến Đức, tôi đã có duyên kể cho Thầy nghe biết về căn bệnh của tôi. Và nhờ biết niệm A Di Đà Phật mà tôi còn hít thở cho đến ngày hôm nay. Thầy cũng có kể sơ cho tôi biết về việc Thầy niệm A Di Đà Phật và trì chú Đại Bi sám hối để thoát khỏi một căn bệnh ngặt nghèo. Nhưng Thầy không kể chi tiết cho tôi nghe về chuyện đó như Sư phụ tôi đã viết trong quyển Có và Không.

Tôi chỉ còn nhớ là Thầy Thiện Thông đã dạy bảo tôi sau đó như sau: "Niệm A Di Đà Phật có 10 cách. Cách mà anh áp dụng để qua khỏi căn bệnh là 1 trong 10 cách đó. Lúc đang tu tập thì cách nào cũng được. Nhưng nó phải trải qua quá trình của nhân và duyên nên lúc hữu sự mới có thể chứng nghiệm được. Chứ không phải tự nhiên mình có thể niệm được đâu. Điều quan trọng là còn phải biết nhất tâm nữa. Anh sẽ là người sau này nói cho mọi người biết niệm như thế nào để được nhất tâm khi cơn vô thường đến. Tại sao? Vì ai đã ra đi thì đi luôn. Nếu có, thì họ cũng chỉ để lại một vài sự linh hiển nào đó, như cho biết trước ngày chết, một bài kệ, có xá lợi v.v... Điều này cũng để cho người đời biết được diệu dụng của pháp môn Tịnh Độ mà thôi. Cũng như để chứng minh rằng họ tu hành đã đắc đạo quả, làm gương cho hậu thế. Chứ điều này đối với họ không có ý nghĩa gì cả. Vì họ biết họ làm gì. Nhưng phương pháp nào để nhất tâm niệm được bốn chữ A Di Đà Phật trong khi vừa hít vào mà không thở ra được nữa, cũng như trong giai đoạn của cận tử nghiệp như thế nào thì cho đến nay họ chưa thể nói cho con người sống biết được. Trường hợp của anh thì khác, vì anh còn sống. Vậy anh nên kể lại cho mọi người biết. Đây cũng là một duyên lành cho những người tu Tịnh Độ. Lý thuyết thì nó như vậy đó. Lời Phật dạy, Kinh sách, các Tổ cũng chỉ bày và giảng dạy như vậy thôi. Còn trong thực tế thì đã có mấy ai chứng nghiệm được. Quan trọng ở chỗ là huân tập chủng tử A Di Đà Phật ngay lúc còn sống, nghĩa là biết nhất tâm niệm A Di Đà Phật ngay từ lúc này. Chứ không phải chờ đến lúc lâm chung để trông đợi người ta hộ niệm, nhắc nhở cho mình".

- "Bạch Thầy, theo lời Thầy chỉ dạy thì con phải làm sao?" Tôi hỏi Thầy Thiện Thông.

- "A Di Đà Phật. Anh tự biết phải làm gì rồi. Tuy nhiên mọi sự việc đều không hề ra ngoài lý nhân duyên và duyên khởi. Từ từ rồi anh sẽ nhận ra?". Thầy Thiện Thông chỉ dạy tôi như vậy.

Tịnh Hữu mến, thật ra lúc đó tôi đâu có hiểu Thầy Thiện Thông nhắn nhủ tôi cái gì? Nên tôi chỉ biết ghi nhận và tạ ơn Thầy.

Đến lần thứ hai khi Thầy trở lại Đức, tôi cố gắng thu xếp thì giờ tìm mọi cách gặp Thầy để được học hỏi thêm. Nhưng mỗi lần như vậy thì Thầy cười (nhưng nụ cười không còn tươi như lần trước nữa; gương mặt có vẻ mệt mỏi!) và nói Thầy rất bận. Thầy luôn kết thúc bằng một câu: "Lần trước tôi đã nói với anh rồi mà. Anh tự biết phải làm gì. Tôi rất bận và không còn gì để nói với anh nữa!".

A Di Đà Phật, Tịnh Hữu mến, làm sao tôi có thể hiểu được ý của Thầy trong câu nói đó ? Nay khi đọc đến câu: ... Bây giờ chỉ còn tu nữa thôi, chứ không còn gì nữa cả...". Thì Thầy ơi! cái duyên của Thầy đối với Phật Tử ở Đức dù đã hết nhưng đó đã là nhân để khởi cái duyên cho con biết làm gì rồi. Vì con còn sống trong cõi ta bà này! Còn Thầy thì đã đến quốc độ khác để độ cho những kẻ có duyên với Pháp Môn Tịnh Độ. Thầy tuy đã xa chúng con, nghĩa là không hiện hữu trong cõi ô trọc này nữa, nhưng Thầy lúc nào cũng ở bên chúng con trong bốn chữ A Di Đà Phật, phải không Thầy ?

Chữ tu trong câu nói của Thầy Thiện Thông đã nhắc nhở chúng ta là sự chuyên tu. Nhưng chuyên tu gì? Là huân tập chủng tử A Di Đà Phật trong vô ký a-lại-da thức của mình. Đây là nhân. Quả của nó là: khi mình không còn hít thở được nữa mà trong thức thứ 8 của mình vẫn có thể an nhiên nhất tâm niệm 10 lần A Di Đà Phật, thì Tịnh Độ hay Tây Phương Cực Lạc hiện hữu trong 4 chữ A Di Đà Phật ngay lúc đó.

Đó là nói trong trạng thái của cận tử nghiệp. Khi 7 thức kia không còn hoạt động được nữa. Nhưng khi mình còn hít thở được thì sao? Nó cũng không khác. Các bạn cứ thử đi! Nói thì dễ. Thực hành, tập luyện thì cũng chưa khó. Nhưng chứng nghiệm được mới thật là điều không đơn giản. Vì cái gì cũng không ra ngoài nhân và duyên mà thành hay hoại.

Chúng ta phải thấm thấu duy thức (thực nghiệm chứ không phải duy thức của trừu tượng, định nghĩa để lý giảng!) thì mới khám phá được A Di Đà Phật. Được như vậy thì Thiền là Tịnh, Tịnh là Thiền. Tất cả chỉ là một chuỗi nhân duyên trùng trùng điệp điệp tiếp nối nhau của sự luân hồi và giải thoát. Các Tịnh Hữu có biết tại sao khi Thái Tử Tất Đạt Đa thành đạo đã giảng cho 5 anh em Kiều Trần Như về Tứ Diệu Đế là Khổ, Tập, Diệt, Đạo. Nhưng tại sao trước khi Đức Thích Ca nhập Niết Bàn, Ngài đã giảng bộ Kinh Đại Bát Niết Bàn để nói về Thường, Lạc, Ngã, Tịnh. Hai điều này trái ngược hẳn nhau? Các bạn cứ niệm A Di Đà Phật thật rốt ráo thì có ngày các bạn cũng sẽ nhận ra được. Không cần phải qua một kiến thức nào cả!

Cách đây không lâu. Tôi có đến thăm một Bác lớn tuổi tại thành phố này. Y khoa không còn giúp được gì cho Bác ấy nữa. Bác chỉ nằm ở nhà để được chồng, con và cháu săn sóc. Cơn vô thường đến lúc nào thì hay lúc đó. Gặp tôi, Bác ứa lệ và nói: 

- "Con trai. Diệp, tao cám ơn mày đến thăm tao. Chắc tao không còn sống được lâu nữa đâu, Diệp à!".

Tôi lấy khăn tay thấm nước mắt cho Bác và nói:

- "Bác à! Rồi thì con cũng sẽ giống như Bác vậy thôi. Cái gì có đến thì cũng phải đi. Chết đâu phải là hết. Nếu có hết chỉ là kết thúc cái xác phàm ngũ uẩn vay mượn tạm này mà thôi. Chứ lúc nào mình cũng còn sống, Bác ơi! Cái thần thức (a-lợi-da) của mình không bao giờ biết chết. Nó hết gá chỗ này, thì vịn vô chỗ khác. Nhớ năm xưa lúc con nằm trong nhà thương bị liệt và không cử động được. Chuyện đó cách nay đã 16 năm, Bác còn nhớ không? Bác và Bác trai đã có đến thăm con và nói: tội nghiệp cho thằng Diệp. Tuổi còn trẻ mà phải nằm liệt như vậy. Cũng tội cho Thầy (Sư phụ của tôi) nay mất đi một đệ tử thân thương rồi. Hai Bác thương mày quá, Diệp ơi! Bác biết, lúc đó con chỉ biết nhìn hai Bác. Con rất xúc động. Rồi những giọt nước mắt lăn từ trong khóe mắt ra để thầm cám ơn hai Bác. Vì lúc đó con nghe hết, nhìn thấy hết nhưng con có cử động được đâu. Bác còn nhớ không? Bác thấy đó. Rồi thì con cũng còn sống mà. Chết chỉ là một dấu hiệu cho mọi người biết mình không còn hiện hữu trong cõi này nữa. Chứ mình còn sống mà Bác. Bác còn sẽ sống mãi trong cõi an lạc khi Bác cùng con niệm A Di Đà Phật, Bác cứ niệm và đếm từ 1 đến 10 với con nghe."

Bác gật đầu. Tôi bắt đầu niệm và Bác cũng thầm niệm theo: 

"A Di Đà Phật (một), A Di Đà Phật (hai), A Di Đà Phật (ba), A Di Đà Phật (bốn), A Di Đà Phật (năm), A Di Đà Phật (sáu), A Di Đà Phật (bảy), A Di Đà Phật (tám), A Di Đà Phật (chín), A Di Đà Phật (mười). Bác niệm xong đến mười rồi Bác niệm trở lại từ đầu như vậy nghe Bác. Nếu Bác niệm được như vậy thì Bác có chết đâu. Vì Bác còn có con và những người thân thương nữa, khi mọi người cùng biết niệm như vậy. Mình còn cái thân trong cõi này hay không thì đâu có là gì phải không Bác? Bác thương chồng, thương con cháu và bè bạn, thì con mong Bác gắng niệm 10 lần A Di Đà Phật liên tục để Bác về cõi Phật A Di Đà mà độ cho chúng con và mọi người. Vậy mới gọi là Bác thương tụi con chứ! Còn nếu Bác cứ quyến luyến, than ngắn thở dài thì làm sao Bác về Tây Phương được để rồi độ cho tụi con. Nếu không được vậy thì làm sao Bác thương chồng, thương con, thương cháu được. Chính cái sự lưu luyến đó làm Bác phải luân hồi mãi mãi, thì làm sao tụi con biết sau này Bác là ai? Bác ơi! Nếu có ai đến thăm, thì Bác cũng nên nói cho mọi người đừng kể chuyện xưa tích cũ làm gì cho Bác bận tâm và lưu luyến nữa. Mà Bác hãy yêu cầu mọi người rằng: mấy người thương tôi thì niệm A Di Đà Phật với tôi đi, cứ từ 1 đến 10 là tui vui rồi. Như thằng Diệp, nó thương tui và nhắc cho tui như vâỵ đó. Bác ơi! nếu con có đến quan tài của Bác để hai Bác cháu mình chia tay nhau trong cõi này thì Bác biết rằng con cũng sẽ tụng cho Bác 4 chữ A Di Đà Phật để "Auf Wiedersehen" Bác (tiếng Đức nghĩa là hẹn gặp lại) mà thôi. Chứ con không có khóc đâu nghe!".

Bác mới hỏi tôi: "Mày hẹn gặp tao ở đâu vậy mậy?"

- "Bác ơi! con muốn nói là hẹn gặp Bác ở Tây Phương Cực Lạc, chứ có hẹn Bác ở đâu đâu?! Bác đi trước. Con thì còn nhiều việc làm ở cõi này lắm, chưa có xong. Khi xong rồi con sẽ về gặp Bác sau!", tôi trả lời Bác.

Ánh mắt Bác tươi hẳn lên. Tôi cầm tay Bác tụng lớn tiếng cho Bác nghe. Bác cũng niệm thầm A Di Đà Phật, 10 x 10 lần với tôi. Tôi nguyện lớn cho Bác nghe: "Con nguyện cho Bác sớm giải nghiệp chướng, hoan hỷ lìa khỏi xác phàm ô trược tạm bợ đầy khổ đau này trong sự an lạc của tâm thần với 4 chữ A Di Đà Phật. Bác cứ từ một đến mười mà niệm nghe Bác".

Vì đến giờ đi làm nên tôi tạm biệt Bác và hẹn gặp lại Bác ở Tây Phương Cực Lạc. Trên nét mặt, Bác không còn chút ưu tư, lo lắng gì cả. Miệng mỉm cười và những giọt lệ đã khô từ bao giờ trên khóe mắt. Tôi nắm chặt hai bàn tay của Bác. Buông ra, chắp tay xá và lui ra.

Con cà con kê trên mặt báo thật làm mất thì giờ của Tịnh Hữu. Cũng như làm tốn trang giấy của báo Viên Giác thân thương. Nhưng nếu không chi tiết thì làm sao chúng ta nhìn ra được những chuỗi nhân duyên đó. Sự ra đi của Thầy Thiện Thông đã là duyên để khởi cho tôi ghi lại những gì tôi đã trải qua trong cuộc sống Thiền, tụng Kinh, trì Chú và niệm Phật suốt một thời gian dài học hỏi nơi Sư Phụ. Tôi luôn được người hướng dẫn, dìu dắt và nhắc nhở. Tất cả những điều đó tôi đã chứng nghiệm được trong lúc tôi bị liệt toàn thân. Vì tôi đã được uống nước nóng và đã biết phỏng! Lá Thư Tịnh Hữu chỉ là một việc làm tương ưng lời phó chúc của Thầy Thiện Thông: anh tự biết phải làm gì!

"Anh tự biết phải làm gì"
phải chăng đó chính là một
"công án của Tịnh Độ pháp môn"

Nam Mô A Di Đà Phật

(Tin cuối: Lá Thư này viết xong vào trưa ngày 18.5.2001. Tối hôm đó trong Chùa điện thoại báo cho biết là Sư Phụ, quý Thầy Cô Chú và Đạo Hữu công quả trong Chùa đã đến nhà thương tụng kinh hộ niệm cho Bác. Vì không biết phút giây nào Bác sẽ ra đi. Sáng hôm sau, tôi đi chợ Netto, phía bên kia đường đối diện Chùa, và gặp em Cẩm, con gái út của Bác. Em Cẩm cho biết là Bác đã từ giã chúng ta lúc 3 giờ sáng rồi.

Bác ơi! Con trai Diệp của Bác cầu nguyện tâm thức của Bác luôn an ổn để niệm được 10 câu A Di Đà Phật mà trực vãng Tây Phương Cực Lạc quốc. Và con sẽ hội ngộ với Bác tại đó khi con xong chuyện của con nghe Bác. A Di Đà Phật).

(Xin xem tiếp lá thư số 4)
Thị Chơn Ngô Ngọc Diệp
(19.05.2001)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
21/09/2010(Xem: 3768)
Nghe là sự vận hành tự nhiên của một cơ thể bình thường. Thế nhưng sự vận hành này tuy tự nhiên nhưng không phải hoàn toàn phóng túng, bừa bãi, vô tổ chức…mà có chọn lọc. Chúng ta có thể ví lỗ tai (nhĩ căn) của chúng ta giống như một chú lính. Khi nhận được một tín hiệu, một thông điệp, một tin tức nào…thì chú vội vàng báo ngay cho chủ tướng của mình – không ai khác hơn là chính Ta. Mà cái Ta này chính là cái Tôi hay cái Ngã do Nhãn (Mắt), Nhĩ (Tai), Tị (Mũi), Thiệt (Lưỡi), Thân, Ý (Ý thức) kết hợp lại mà thành.
12/09/2010(Xem: 4517)
Vào những năm đầu Tây lịch, Phật giáo từ miền Đông bắc Ấn Độ truyền vào Trung Quốc, từ đó Phật giáo lại truyền vào bán đảo Hàn Quốc và Nhật Bổn. Ở những quốc gia này, Phật giáo đại thừa được quảng đại quần chúng tin theo và thọ trì. Như các tông phái Tịnh độ khác, Chân tông Tịnh độ cũng thuộc đại thừa Phật giáo. Giáo lý căn bản của Chân tông Tịnh độ cùng tương đồng với các giáo phái đại thừa khác như Thiền tông, Mật tông Tây Tạng là những tông phái được phổ biến thạnh hành ở Tây phương.
04/09/2010(Xem: 5583)
Tổ Long Thọ nói rằng cho một hệ thống nơi mà tính không là có thể, nó cũng có thể có chức năng, và vì chức năng là có thể, tính không cũng có thể. Vì thế khi chúng ta nói về thiên nhiên, căn bản thiết yếu của thiên nhiên là tính không. Tính không hay shunyata nghĩa là gì? Nó không là tính không của sự tồn tại (không đối với có) nhưng đúng hơn là tính không của chân lý (chân không) hay sự tồn tại độc lập, điều này nghĩa là những sự vật khác tồn tại bởi sự lệ thuộc trên những nhân tố khác.
03/09/2010(Xem: 5228)
Theo giáo nghĩa Đạo Phật, có một sự phụ thuộc lẫn nhau rất gần gũi giữa môi trường thiên nhiên và những chúng sinh sống với nó. Vài người bạn đã từng nói với tôi rằng, căn bản tự nhiên của con người là những gì bạo động, nhưng tôi đã nói với họ rằng tôi không đồng ý. Nếu chúng ta thẩm tra những thú vật khác nhau, thí dụ, những thú vật mà chính sự tồn tại của chúng tùy thuộc vào việc lấy đi mạng sống của những thú vật khác, như những con sư tử, beo, hay cọp, chúng ta học rằng căn bản tự nhiên của chúng cung cấp cho chúng với răng nanh và móng vuốt bén nhọn.
28/08/2010(Xem: 9188)
Viết về Thế Tôn, các nhà nghiên cứu Phật học thường đề cập đến Ngài như một đấng Giáo chủ đã tìm ra con đường giải thoát và chỉ rõ con đường ấy cho nhân loại, hoặc đề cập đến Ngài như một nhà đại tư tưởng, một nhà cách mạng xã hội, v.v... Nhưng có rất hiếm những luận văn, công trình đề cập đến Ngài như một nhà giáo dục tư tưởng, và giáo lý của Ngài như là một hệ thống tư tưởng giáo dục toàn diện và tiên tiến.
28/08/2010(Xem: 4416)
Nền giáo dục thiết lập trên nền tảng hiểu biết sự liên hệ giữa nhân duyên, nhân quả của cá nhân và cộng đồng không phải trong một thời gian mà mọi thời gian, và không phải trong một không gian mà mọi không gian là hết sức cần thiết cho đời sống hòa bình, an lạc và văn minh của chúng ta, khiến tự nó có khả năng vãn hồi trật tự và hoàn thiện cho xã hội của chúng ta ngày nay.
14/06/2010(Xem: 3417)
Đời sống quốc gia với hoàn cảnh địa lý và sự ảnh hưởng khí hậu thiên nhiên đã tạo cho Ấn Độ có một lịch sử khác với các quốc gia trên thế giới. Đó là một Ấn Độ có những rừng núi thâm u , tục gọi là Lục địa xanh (Pays blues) đã ảnh hưởng nhiều tới luồng tư tưởng nhân bản, tiến bộ và giải thoát sớm nhất trong lịch sử nhân loại. Các nhà triết học, các luận sư và các luận thuyết trứ danh cũng đều xuất hiện tại xứ sở đầy huyền bí này
15/05/2010(Xem: 6160)
Người học Phật chúng taai cũng đều chứng nghiệm được rằng việc tu học tại xứ người quả thật không đơn giản. Trước tiên vì bối cảnh của quốc độ mình đang trú, sau cùng nhưng lại có ảnh hưởng lớn nhất là cuộc sống của bản thân và chính gia đình mình. Tuy nhiên theo tôi, chúng ta cứ nhìn hay là quán những khúc mắc đó như là một phương tiện trong ý nghĩa của tùy duyên bất biến để học, tu và hành Đạo. Ngoài ra chúng ta cũng đừng quên câu thứ 4 trong mười điều của Luận Bảo Vương Tam Muội có ghi rõ là: xây dựng đạo hạnh thì đừng cầu không bị ma chướng, vì không bị ma chướng thì chí nguyện không kiên cường.
09/05/2010(Xem: 10443)
Có người nói: "Cuộc đời như giấc mộng", có người nói "Cuộc đời như tấn trò", có người nói "Cuộc đời như hạt sương"; cũng có người nói: "Đời là bể khổ", đời người như "khách qua đường", cuộc đời như "mây trôi"! Nếu như những ví von này xác đáng thì cuộc đời quả đáng buồn biết bao.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567