Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Súc Quyền Và Kinh Pháp Cú

15/02/201223:25(Xem: 4888)
Súc Quyền Và Kinh Pháp Cú
SÚC QUYỀN VÀ KINH PHÁP CÚ
Rosemary Amey
Thích nữ Tịnh Quang dịch

Đừng làm các việc ác, siêng làm các hạnh lành, giữ tâm ý thanh tịnh, là lời chư Phật dạy. (Pháp Cú, 183).

Bối cảnh: Phật giáo và Kinh Pháp Cú

Phật giáo đề cập đến súc quyền như thế nào? Xuyên qua hàng trăm triệu Phật tử trên thế giới, có sư bất đồng về vấn đề cơ bản này. Lần đầu tiên tôi bỗng nhiên thích thú Phật giáo bởi vì hai nhà hàng yêu thích của tôi (Buddha’s Vegetarian Food và Lotus Garden, cả hai ở trên hướng nam đường Dundas Street bangToronto) là Phật tử, và rất cẩn thận chỉ để phục vụ thức ăn chay không có trứng. Trong một nhà hàng mà tôi cho rằng việc này là cần thiết vì các tu sĩ Phật giáo và các nữ tu ăn ở đây. Điều này giúp tôi hiểu rằng Phật giáo có lời nguyền đối với súc vật thực sự rất rất nghiêm túc. Mặt khác, vị hôn phu của tôi và tôi có một vài người bạn là Phật tử, nhưng vẫn tiếp tục ăn thịt và cảm thấy điều này là phù hợp với Phật giáo. Phật tử, hoặc ít nhất là Tăng Ni Phật giáo có ăn chay không? Phật giáo nói gì về việc chúng ta đối xử với loài vật? Điều này rất cần thiết để giải quyết tranh cãi này, tôi cảm thấy quay trở về kinh điển Phật giáo để tìm thấy những gì mà con người phải nói đến vấn đề này.

Cho đến nay, tôi thật thất vọng trong sự cố gắng để mua bản sao về kinh điển Pali cho mình - có lẽ bởi vì nó dài gấp mười một lần Kinh Thánh. Các cửa hàng sách tôi mua đã bao gồm tất cả các cổ phần lớn của những sách về Phật giáo, nhưng không phải là kinh điển chính! Các nguồn trích dẫn phụ (hoặc tệ hơn!) về Phật giáo có làm sáng tỏ chỉ một chút đối với những gì về lời dạy của Đức Phật đối với động vật. Tuy nhiên, tôi đã có được một bản sao của một phần quan trọng của kinh điển Pali, Kinh Pháp Cú. Giáo Pháp (Dharma trong tiếng Sanskrit), có nghĩa là "luật, đạo luật, đạo đức chính trực, luật vĩnh cửu của vũ trụ, chân Lý", và pada có nghĩa là "chân" hoặc "bước chân". Vì vậy, Kinh Pháp Cú là những bước mà chúng ta phải có để sống theo đạo luật và tâm luật (Phật giáo). Theo học giả Juan Mascaró, tinh thần của Kinh Pháp Cú là tinh thần của Đức Phật, được ứng dụng cho cả hai, những người xuất gia và các học giả". Vì vậy, nó có vẻ hợp lý rằng chúng ta có thể tìm thấy được tối thiểu sự tương ứng đầu tiên về phương pháp tiếp cận của Phật giáo đối với câu hỏi về súc quyền từ nền tảng đạo đức cơ bản được đặt ra bởi Đức Phật Gotama trong Kinh Pháp Cú.

Không sát sanh không làm tổnhại


Trong Phật giáo, có năm giới, mà có thể được coi là đóng một vai trò tương tự như Mười Điều Răn cho người Do Thái và Kitô hữu. Những giới luật này cung cấp sự hướng dẫn đạo đức cho các Phật tử cư sĩ cũng như Tăng Ni. Chúng nó được tóm tắt như sau:

He who destroys life, who utters lies, who takes what is not given to him, who goes to the wife of another, who gets drunk with strong drinks -- he digs up the very roots of his life.(Dhammapada, 246-247).

Ai ở đời sát sinh/ nói láo không chân thật/ lấy của không được cho/qua lại với vợ người /nghiện ngập với rượu mạnh/tự đào bới gốc mình.

Giới cấm sát sinh được biết như là giới đầu tiên. Ngoài ra, Đức Phật cũng khuyên chúng ta không "làm tổn thương" những người khác, ví dụ:

He who for the sake of happiness hurts others who also want happiness, shall not hereafter find happiness. (Dhammapada, 131.)

Ai cũng cần hạnh phúc/cầu hạnh phúc cho mình/hại hạnh phúccủa người/đời sau không hạnh phúc

Có lẽ bởi vì không sát sinh và không làm tổn thương kẻ khác là rất quan trọng, Đức Phật nhiều lần yêu cầu chúng ta không nên có hành động đó ở nhiều đoạn văn trong Kinh Pháp Cú (xem phần tiếp theo để biết thêm chi tiết). Thực tế rằng ở giới thứ nhất và các giáo lý khác cấm sát sinh và làm tổn thương không gây tranh cãi giữa các Phật tử với nhau. Trường hợp có tranh cãi đến là câu hỏi của người Phật tử bị cấm không được giết chết hoặc làm tổn thương.

Giới đầu tiên và sự ngăn cấm làm tổn hại để bảo vê ai?

Giới thứ nhất và các lời dạy khác chống làm tổn thương và bảo vệ súc vật? Có lẽ giống như điều răn của Do Thái-Kitô giáo "Ngươi chớ giết" nhằm áp dụng đối với loài người. Khả năng này có thể được loại trừ gần như ngay lập tức, trong Kinh Pháp Cú, có rất nhiều huấn thị rõ ràng chống lại việc sát hại hoặc làm tổn thương chúng sinh, chứ không phải chỉ dành cho "con người ":

But although a man may wear fine clothing, if he lives peacefully; and is good, self-possessed, has faith and is pure; and if he does not hurt any living being,he is a holy Brahmin, a hermit of seclusion, a monk called a Bhikkhu. (Dhammapada, 142. Emphasis added.)

Ngườicó trang sức tốt/nếu sống tâm tịnh thiện/có kiên định phạm hạnh/không tổn hại chúng sinh/vị ấy là phạm chí/ là ẩn sĩ sa môn.

The wise who hurt no living being, and who keep their body under self-control, they go to the immortal NIRVANA, where once gone they sorrow no more. (Dhammapada, 225 Emphasis added.)

Người trí không sát sinh/thường chế ngự bản thân/Đạt niết bàn bất tử/cảnh giới không ưu buồn.

A man is not a great man because he is a warrior and kills other men; but because he hurts not any living beinghe in truth is called a great man. (Dhammapada, 405. Emphasis added.)

Một con người vĩ đại/vì y là chiến sĩ/giết chết nhiều người khác/nhưng người không sát sại/bất kỳ mọi chúng sinh/xứng danh: người vĩ đại.

Rõ ràng rằng Đức Phật đã cố gắng làm cho điều này rõ ràng, rằng huấn thị chống lại việc sát sanh hoặc làm tổn thương không chỉ giới hạn đối với con người, nhưng mở rộng ra đối với tất cả "chúng sinh."
Sau đó, chúng ta có thể tự hỏi, "chúng sinh" là gì hoặc những ai? Một số người lập luận rằng sự bảo vệ của "chúng sinh" bao gồm thực vật cũng như các loài động vật, vì chúng nó cũng có sự sống. Nếu đây là trường hợp, thì điều này có thể tuyên bố rằng đối với một Phật tử, ăn một con thỏ là không tồi tệ hơn ăn một củ cà rốt.

Ở đây tôi đang ở thế bất lợi, khi tôi chưa học tiếng Pali, cũng như tôi không có những bản kinh nguyên gốc bằng tiếng Pali. Tuy nhiên, một đoạn huấn thị tuyệt vời diễn tả rằng chúng sanh là ám chỉ đến những loài có tri giác (hữu tình).

All beings fear before danger, life is dear to all. When a man considers this, he does not kill or cause to kill. (Dhammapada, 129-130.)

Chúng sinh sợ nguy hiểm/chúng sinh sợ tử thần/Biết cân nhắc điều này/không giết không bảo giết.

Ở đây, Đức Phật giải thích rằng chúng ta không nên sát hại thay vì quan tâm đối với nỗi sợ hãi và yêu thương sự sống mà mọi loài cần có. Hơn nữa, Ngài nói rằng tất cả chúng sinh đều có chung những thuộc tính này, cho thấy rằng từ mà Mascaró đã dịch như "beings" thực sự có nghĩa là "chúng hữu tình" (sentient beings). Một số người hoài nghi có thể cho rằng loài động vật phi nhân không phải là chúng sinh có tri giác (hữu tình). Tuy nhiên, trong đoạn văn khác, Đức Phật đề cập đến tri giác của con cá trong một phép ẩn dụ mô tả một tâm trí loạn động:

Like a fish which is thrown on dry land, taken from his home in the waters, the mind strives and struggles to get free from the power of Death. (Dhammapada, 34.)


Như cá ném đất khô/vứt ra khỏi nguồn nước/tâm tranh đấu vẫy vùng/để thoát khỏi thần chết.

Đoạn này cho thấy rằng, từ “chúng sinh” được diễn tả trong Kinh Pháp Cú 130 (xem ở trên), cuộc sống của con cá rất đáng quí đối với nó - nếu không thì tại sao nó "tranh đấu vùng vẫy dể thoát khỏi thần chết” khi bị đưa ra khỏi dòng nước của nó? Nếu Đức Phật cho rằng loài cá là loài chúng sinh có tri giác, điều này cho thấy rằng ngài đã đề cập đến nhiều loài động vật khác thông thường bị giết hại bởi con người. trong số các loài động vật khác thường thiệt mạng và bị thương của con người (ví dụ như động vật có vú và chim) cũng là hữu tình chúng sinh. Vì vậy, ít nhất là cá, chim và động vật có vú không thể bị giết hoặc bị làm tổn thương theo giới đầu tiên và các giáo lý khác nhằm bảo vệ chúng sinh . Nó có thể là hoàn toàn ở giới đầu tiên bao gồm các động vật khác vậy.

Vậy tại sao Đức Phật không nói thẳng rằng không nên làm hại "động vật”, thay vì là "chúng sinh"? Có lẽ nó là bởi vì thời điểm và quốc độ trong thời Phật, những tín đồ của các tôn giáo nổi tiếng khác chẳng hạn như đạo Jainism đã bảo vệ động vật và như vậy điều này rất rõ ràng đối với đệ tử của Đức Phật trong việc bất sát không giết chết "chúng sinh", có nghĩa là không giết chết động vật . Có lẽ không có từ trong tiếng Pali bao gồm cả những loài động vật nhân và phi nhân, vì thế thuật ngữ được dịch là "chúng sinh (living beings)" là đề cập chung. Hoặc có lẽ là Đức Phật muốn chúng ta phải quan tâm hơn đến các động vật có tri giác (hữu tình), chứ không phải sự sống của loài thực vật vô tình.

Sự gợi ý về việc đối xử của chúng ta đối với động vật

Từ thời Đức Phật, đã có những thay đổi đáng kể trong mối quan hệ giữa động vật và con người. Các thao tác như thuật giải phẩu sinh thể và nhà máy sản xuất nông nghiệp sẽ không được biết trong thời Đức Phật, và do đó, tất nhiên chúng không được đề cập đến một cách chi tiết ở trong Kinh Pháp Cú. Hơn nữa, Kinh Pháp Cú là rất ngắn gọn, và không liệt kê tất cả các hành vi bất thiện có thể được thực hiện đối với động vật (bao gồm con người cũng như động vật!). Tuy nhiên, mặc dù vô số sự hãm hại đối với động vật, không phải tất cả được nói một cách chi tiết trong Kinh Pháp Cú, chúng ta có thể suy ra nhiều điều, đơn thuần là ở giới thứ nhất và những lời dạy chống lại việc làm tổn thương các chúng sinh khác. Rõ ràng rằng Đức Phật không muốn chúng ta tiêu diệt hoặc làm tổn thương động vật như chính bản thân mình. Do đó, Phật tử không thể là thợ săn, người đánh cá, bẫy chim, kẻ đồ tể, kẻ chặt thịt vv… cũng không phải chúng ta có thể dồn động vật đến chỗ không còn đất sống trong những nơi được gọi là ngôi nhà của động vật.

Không ăn thịt như thế nào? Một số người cho rằng miễn đừng giết động vật thì ăn thịt cũng không sao. Tuy nhiên, lưu ý rằng đoạn 129 và 130 trong Kinh Pháp Cú xác định rằng chúng ta không nên "giết hoặc gây ra cái chết". Khi mọi người mua sản phẩm làm ra từ cơ thể động vật đã chết, họ hẳn nhiên gián tiếp giết hại những động vật . Do đó, thịt, da và lông cũng bị cấm. Điều này có đúng chăng, để có hiệu quả kinh tế, giết động vật già và kém năng suất là cần thiết để sản xuất sữa và trứng - chắc chắn đây là một trong những yêu cầu của các ngành công nghiệp trứng và sữa biện minh cho hành vi này. Nếu vậy, thì mua sữa và trứng cũng hẳn nhiên là nguyên nhân tạo ra sát sinh, và do đó nên tránh điều này nếu giữ giới thứ nhất.

Món thịt mà người khác đã mua như thế nào? Hầu hết, có lẽ tất cả các trường hợp, với việc chấp nhận thịt phục vụ cho chúng ta bởi người khác, chúng ta đang gây ra việc sát sinh. Ví dụ, nếu ăn thịt bạn bè mời chúng ta đến ăn bữa tối, họ sẽ mua thêm thịt cho chúng ta trong sự mong đợi về chuyến thăm của chúng ta, hoặc nếu chuyến thăm của chúng ta nằm ngoài kế hoạch, họ có thể mua thêm thịt để cất lại trong tủ đựng thịt của họ sau khi chúng ta rời khỏi. Trong cả hai trường hợp, sự chấp nhận của chúng ta đối với thịt đã gây ra cho việc giết hại động vật thêm. Vì vậy, lý tưởng nhất, chúng ta không nên chấp nhận dùng thịt cung cấp từ những người khác, và nên để cho mọi người biết trước điều này bất cứ khi nào có thể.

Một số người cho rằng thức ăn của dạ dày không quan trọng, chỉ có thức ăn của tâm mới quan trọng. Tuy nhiên, Đức Phật đã chỉ ra rằng chúng ta nên đưa ra sự suy nghĩ với những gì chúng ta ăn:

He who lives only for pleasures, and whose soul is not in harmony, who considers not the food he eats,is idle, and has not the power of virtue -- such a man is moved by MARA, is moved by selfish temptations, even as a weak tree is shaken by the wind. (Dhammapada, 7. Emphasis added.)

Người sống theo dục lạc/không chế ngự tâm mình/ăn uống không điều chế/biếng nhác không chuyên cần—như bị ma dẫn đắt/bị ích kỷ khống chế/như cành cây yếu đuối/lung lay theo chiều gió.

Not to hurt by deeds or words, self-control as taught in the Rules, moderation in food, the solitude of one's room and one's bed, and the practice of the highest consciousness: this is the teaching of the Buddhas who are awake. (Dhammapada, 185. Emphasis added.)

Thân khẩu đừng não hại/tự hộ trì giới luật/ăn uống có tiết độ/sống ở nơi thanh tịnh/chuyên tu tập thiền định/đây lời chư Phật dạy.

Có lẽ những lời dạy trên khuyên chúng ta tránh đi thói ham ăn cũng như nên ăn chay. Nhất định nhiều người tìm cách "từ bỏ" sự khổ đau từ thịt (hoặc các sản phẩm khác giết hại động vật) cũng nên xem xét nếu họ đã tự cho phép mình trở nên quá gắn liền với những thú vui vật chất, và chú ý đến những lời của Đức Phật:

He who does what should not be done and fails to do what should be done, who forgets the true aim of life and sinks into transient pleasures -- he will one day envy the man who lives in high contemplation.


Làm việc không nên làm/không làm việc cần làm/người đắm chìm dục lạc/quên chân lý cuộc đời--rồi y sẽ đố kỵ/bậc an trú đại định.

Let a man be free from pleasure and let a man be free from pain; for not to have pleasure is sorrow and to have pain is also sorrow. (Dhammapada, 209-210.)

Hãy thoát khỏi dục lạc/hãy thoát khỏi cực hình/không dục lạc thì khổ/cực hình cũng đớn đau.

Mặc dù lý tưởng của sự tách biệt không có nghĩa là chúng ta bị cấm để trải nghiệm những thú vui vật chất, rõ ràng cho phép hưởng thụ dục lạc đối với thịt để vượt qua giới cấm thứ nhất là trái với tinh thần của Kinh Pháp Cú. Nhiều người đã cố gắng biện minh cho việc giết chết động vật bởi vì những lợi ích mà nó mang lại, cho dù lợi ích kinh tế cho những người làm nghề giết chết động vật, hoặc các lợi ích có tiềm năng y học có thể phát sinh từ sự giải phẩu sinh thể. Tuy nhiên, Đức Phật nói:

He who for himself or others craves not for sons or power or wealth, who puts not his own success before the success of righteousness,he is virtuous, and righteous, and wise. (Dhammapada, 84. Emphasis added.)

Không vì mình vì người/ và không cầu con cái/ hoặc tài sản lớn lao/chẳng mong mình thành tựu/với thành tựu đạo đức/vị ấy có giới hạnh/có chánh pháp, trí tuệ.

Đó là, sự thực hành chánh đạo (tuân theo giới luật) có mức ưu tiên cao hơn sự “thành tựu” thế gian. Hơn nữa, Đức Phật cảnh báo về vìệc tham luyến đối với thân thể:

Consider this body! A painted puppet with jointed limbs, sometimes suffering and covered with ulcers, full of imaginings, never permanent, for ever changing.

Hãy quán sát thân này/như con rối tô màu/với chân tay ráp lại/đau đớn và ung nhọt/tràn đầy điều khởi tưởng/ không bao giờ trường cửu/và thay đổi không ngừng.

This body is decaying! A nest of diseases, a heap of corruption, bound to destruction, to dissolution. All life ends in death.

Thân này đang suy già/là một ổ bịnh hoạn/một đống phân thúi nát/buộc ràng với hoại diệt/Vì tất cả đời sống/kết thúc bằng cái chết.

Look at these grey-white dried bones, like dried empty gourds thrown away at the end of the summer. Who will feel joy in looking at them?

Nhìn xương xám trắng này/như bầu bí rỗng khô/ném bỏ cuối mùa hè/ai còn thích nhìn chúng?

A house of bones is this body, bones covered with flesh and with blood. Pride and hypocrisy dwell in this house and also old age and death.

Thân này làm bằng xương/xương phủ bằng thịt máu/kiêu mạn và dối trá/trụ trong ngôi nhà này/rồi cũng già và chết.

The glorious chariots of kings wear out, and the body wears out and grows old; but the virtue of the good never grows old... (Dhammapada, 147-151).

Như xe vua rực rỡ/rồi cũng phải mục hư/thân này rồi già suy/nhưng giới đức thiện pháp/chẳng già suy bao giờ…

Mặc dù Đức Phật không yêu cầu chúng ta gây tổn hại cho cơ thể của chúng ta, hoặc trực tiếp hoặc bằng cách bỏ qua các nhu cầu của cơ thể chúng ta (điều này sẽ là vô nghĩa), ngài nhấn mạnh rằng cơ thể là vô thường, và chúng ta nên quan tâm nhiều về đạo đức hơn là việc bảo vệ cơ thể. Do đó, giết chết động vật (một hành vi vi phạm của giới đầu tiên), không thể được biện minh bằng cách tuyên bố rằng nó sẽ kéo dài tuổi thọ của con người. Hơn nữa, không giống như kinh điển Do Thái-Kitô giáo, Kinh Pháp Cú không cho rằng con người là cao hơn hoặc quan trọng hơn các động vật khác.

Vậy kết thúc ở đâu? Đây là một điều đáng buồn đối với cuộc sống mà mọi thứ chúng ta mua hoàn toàn liên quan đến sự hãm hại chúng sinh ở một số điểm trong sản xuất, đơn giản bởi vì đại đa số người sẵn sàng giết hại động vật bất cứ khi nào cần thiết. Ví dụ, các loại rau cải mà chúng ta ăn có thể đã được bón bằng phân bột làm bằng xương, quần áo kết bằng sợi thực vật có thể được làm bằng các sản phẩm có nguồn gốc từ động vật, thuốc men hiện tại được giám định bởi pháp luật xuyên qua việc thử nghiệm trên thân thể động vật. Tuy nhiên, việc mua các sản phẩm như thế này không đòi hỏi phải giết hại cho việc sản xuất của họ, nó không rõ ràng rằng chúng ta đang gây ra cái chết cho những loài khác - đặc biệt là nếu chúng ta cũng đang làm việc để thay đổi những phương thức trong các ngành công nghiệp. Vậy thì, tốt nhất là để duy trì mức tiêu thụ của tất cả các sản phẩm ở mức tối thiểu, cả hai để giảm thiểu những vụ lợi chung để sát sinh, với việc tuân thủ lý tưởng buông xả của Phật giáo bằng mọi cách.

Những gợi ý của Kinh Pháp Cúđối với nhữngnhà bảo vệ Súc quyền

Ở mức tối thiểu, Kinh Pháp Cú là phù hợp với những quyền lợi động vật. Thật vậy, có vẻ như nó chỉ thị đối với các mục tiêu của phong trào súc quyền, ví dụ như việc bãi bỏ ngành công nghiệp thịt và thuật giải phẩu sinh thể. Kinh Pháp Cú được cho là một trong những kinh điển cốt lõi của Phật giáo, điều này thì không dễ dàng để thấy được làm thế nào mà Phật tử tham gia vào hoạt động giết thú vật có thể biện minh cho sự tương phản giữa thực hành và những lời dạy của Đức Phật.

Tuy nhiên, những nhà hoạt động súc quyền nên lưu ý rằng giết chết các loài động vật trong các"trang trại" cũng bị cấm. Theo như tôi hiểu, đây là một hệ quả hợp lý của súc quyền cũng như Phật giáo, tuy nhiên một thực tế không may là nhiều người tự coi mình là một phần của phong trào đòi quyền động vật vẫn thấy giết mèo vô gia cư và con chó hợp pháp hoặc trường hợp cần thiết. Cũng thế, dù các mục tiêu của súc quyền là bởi và rất thích hợp với Phật giáo, các hành động thường xuyên được thực hiện để đạt được những mục tiêu này thì không thấy. Nhiều người ủng hộ các quyền lợi của động vật chỉ trích gay gắt về những người hành hạ động vật. Nhưng đìều tốt nào mà con người cần thực hiện? Đức Phật nhắc nhở chúng ta.


Never speak harsh words, for once spoken they may return to you. Angry words are painful and there may be blows for blows. (Dhammapada, 133.)

Chớ nói lời cay độc/một khi đã thốt ra/chúng trở về với bạn/lời thù hận làm đau/ và đánh bật lại mình.


Vì vậy, làm thế nào chúng ta có thể hành động để giải thoát chúng sinh từ nỗi đau khổ? Nếu chúng ta làm tốt sẽ có kết quả tương ứng sau đây:


Overcome anger by peacefulness: overcome evil by good. Overcome the mean by generosity; and the man who lies by truth. (Dhammapada, 223.)

Định tĩnh thắng sân hận/lòng thiện thắng ác hung/rộng lượng thắng bủn xỉn/chân thật thắng dối lừa.

Và nếu chúng ta phấn đấu để sống một cách hòa bình sẽ là bài học cho thế giới về từ bi hơn là sự hênh hoang đầy thù địch. Tất nhiên, đây không phải là dễ dàng! Tôi không tuyên bố làm chủ được bản thân mình, mặc dù nó là một vài đìều mà tôi còn phấn đấu. Đức Phật thừa nhận những khó khăn, nhưng khuyến khích chúng ta tiếp tục nỗ lực:

If he makes himself as good as he tells others to be, then he in truth can teach others. Difficult indeed is self-control. (Dhammapada, 159.)

Nếu tự làm mình tốt/như răn bảo người khác/người sống thật với mình/có thể dạy người khác/tự điều phục khó thay.


Đôi khi lý tưởng này dường như vô nghĩa, và vô vọng, vô ích, chúng ta hãy cố gắng gạt qua cơn giận dữ và nỗi tuyệt vọng của chúng ta ở những gì mà con người đồng loại của chúng ta đang đối xử với động vật, và hãy tập trung tình yêu dành cho động vật, thúc đẩy sự tranh đấu dành cho súc quyền: Vì lòng căm thù không chinh phục được lòng căm thù: lòng căm thù được chinh phục bởi tình yêu. Đây là một định luật nghìn thu. (Kinh Pháp Cú, 5.)

Trích từ: E Book 3D (dạng sách đọc): Sự Quyến Rũ Của Đạo Phật Trong Thế Giới Mới - Thích nữ Tịnh Quang




Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
17/07/2020(Xem: 5984)
Trong kinh có ghi lại lời cảnh giác của Đức Phật, Ngài đã từngnói rằng: “Phàm tất cả chúng sinh còn lên xuống trong ba cõi, lăn lộn trong sáu đường thì không một loài nào được hoàn toàn trong sạch, không một giống nào dứt hết tội lỗi sai lầm”.Lời nói của bậc toàn giác thật chính xác. Chúng sinh còn trầm luân trong ba cõi, sáu đường, là còn gây nhiều nghiệp xấu. Cho nên, dù chúng ta là ai của những đời trước, kiếp trước? Kiếp này, tuy chung sống ở cõi Ta-Bà nhưng mỗi người ôm vào đời một biệt nghiệp riêng, do tội lỗi hay phước báo đã gây ra trong đời trước. Nhưng nói chung,dù ở trong bất cứ hoàn cảnh nào thì con người cũng đã từngbị vô minh che mờ lý trí xúi quẩy tạo ra muôn ngàn tội lỗi, và tội lỗi đó cứ chồng chất mãi theo thời gian.
12/07/2020(Xem: 6138)
Theo, Đại-Vô-Lượng-Thọ-Kịnh. Đại-A-Di-Đà-Kinh Q1.- Bình-Đẳng-Giác- Kinh Q1. Đại-Bảo-Tích-Kinh Q17. Bi-Hoa-Kinh Q3. Vô-Lượng-Quảng- Trang-Nghiêm-Đại-Thừa-Kinh… Thì đều lạy tu theo 48 nguyện. 48 đại nguyện có đủ trong 6 bộ kinh nói trên. Chỗ cốt yếu cho người tu niệm Phật và lễ lạy 48 đại nguyện là : 1.Tin tưởng tha thiết nguyện về cõi Phật A Di Đà chắc thật diệt sạch hết tâm nghi ngờ. Lòng tin trọn vẹn trong sạch. 2. Lập thời khóa tu niệm lễ lạy trong một ngày đêm 1, 2, hay 3 Thời, Tùy ý thích. Chọn cho thích hợp để tu. Quan trọng là thành tâm. Đừng ham nhiều mà lụy thân rồi chán bỏ! 3. Quyết tâm phát nguyện vãng sanh về Cực Lạc Tịnh Độ, Tâm luôn kính nhớ ưa thích cõi Cực Lạc của Từ Phụ A Di Đà, quí mến Từ Phụ A Di Đà. niệm Hồng danh Phật liên tục, khi xướng lạy lời nguyện thân tâm vui thích mừng rỡ cảm động, thân nhẹ lân lân như ơn Phật đang ban phước cao vời vô tận, đầy tâm an lạc, như thấy mình đầy đủ sức khỏe. Niệm, chừng nào được “nhứt tâm bất loạn” đồng nghĩa với “hế
22/06/2020(Xem: 4598)
Đi tìm nguồn cội của những việc cần tìm hiểu quả là điều rất hữu ích và cần thiết cho những người học Phật như chúng ta ngày nay. Tuy trong hiện tại chúng ta có quá nhiều phương tiện để tìm hiểu, đọc tụng cũng như học hỏi, nhưng cũng không phải muốn tìm gì là có ngay lời giải đáp đúng như ý ta mong đợi, mà vẫn cần phải qua những trải nghiệm của bản thân cũng như sự tu học hành trì, nghiên cứu lâu ngày, chúng ta mới thẩm thấu được lời Phậtdạy. Vì lẽ lời dạy của Đức Phật nằm rải rác khắp nơi trong ba tạng của Nam Truyền và ba tạng của Bắc Truyền, có cả hàng triệu triệu chữ và nhiều nhà phiên dịch, chú giải khác nhau, nên không phải ai cũng có cơ duyên để trì tụng, nghiên cứu hết ba tạng Kinh điển này. Riêng bản thân tôi không dám làm việc gì quá khả năng, chỉ cố gắng gom góp lại những chỗ đã đọc qua, nhằm cống hiến cho quý vị một sự hiểu biết căn bản về Đức Phật A-di-đà, để chúng ta không còn nghi ngờ gì nữa khi trì tụng các Kinh A-di-đà, Kinh Vô Lượng Thọ hay Kinh Quán Vô Lượng Thọ. Đó
21/06/2020(Xem: 8395)
Do một thiện niệm vừa phát sinh sau khi TT Thích Nguyên Tạng chấm dứt 48 bài pháp thoại liên tục được livestream trên Facebook của trangnhaquangduc trong mùa cách giản xã hội vì đại dịch Corona vào mỗi sáng sau thời công phu khuya ( với kinh Lăng Nghiêm, Đại Bi và thập chú ) mà người viết mới có dịp ôn lại những gì trong “ PHÁP NGỮ CỦA HT TỊNH KHÔNG” đã được TT Thích Nguyên Tạng Việt dịch và được xuất bản từ 2004. Thời gian trôi qua nhanh quá , thấm thoát đã 16 năm mà đến bây giờ đây là lần thứ ba tôi mới đọc lại , phải nói là rất ân hận cho sự vô minh của mình trong nhiều năm và đã uổng phí thời gian để có thể tu tập đúng hơn nữa .
07/05/2020(Xem: 5803)
Đệ tử tên là: .......... Một lòng quy kính - Đức Phật A Di Đà. Thế giới Cực Lạc - Nguyện lấy hào quang - Trong sạch soi cho, Lấy thệ từ bi - Mà nhiếp thọ cho - Con nay chánh niệm, Niệm hiệu Như Lai - Vì đạo Bồ Đề - Cầu sanh Tịnh Độ. Phật xưa có thệ: “Nếu có chúng sinh - Muốn sinh về nước ta Hết lòng tín nguyện - Cho đến mười niệm - Nếu chẳng đặng sinh Chẳng thành Chánh Giác - Chỉ trừ kẻ ngũ nghịch - Kẻ bài báng Chánh Pháp” - Do vì nhân duyên - Niệm hiệu Phật nầy - Được vào trong bể - Đại thệ Như Lai - Nhờ sức Từ Bi Các tội tiêu diệt - Căn lành tăng trưởng.- Khi mạng gần chung, Biết trước giờ chết- Thân không bệnh khổ- Tâm không tham luyến,
05/05/2020(Xem: 5907)
Chiều nay ngày 19 tháng 7 năm Mậu tuất (2018), tôi đến Phương trượng Tổ đình Từ Đàm, đảnh lễ Trí Quang Thượng Nhân, sau khi xuất hạ, Thượng Nhân đã dạy cho tôi những điều hữu ích gồm: 1- Pháp học: Pháp giới tạng thân A-di-đà-Phật là chỉ cho Thân thể của Phật A-di-đà bao trùm khắp cả không gian và thời gian về mặt không gian là cả mười phương. Về mặt thời gian là bao trùm cả ba đời.
13/03/2020(Xem: 17719)
Quyển "The Buddha and His Teachings" (Đức Phật và Phật Pháp) được ấn hành tại Sài gòn năm 1964 nhờ sự phát tâm bố thí của liệt vị Phật tử Việt Nam. Đạo hữu Phạm Kim Khánh, pháp danh Sunanda, đã dày công phiên dịch thiên khái luận nhỏ bé này ra tiếng mẹ đẻ với mục đích đáp lại phần nào lòng mong ước của những ai muốn hiểu Đức Phật và giáo lý của Ngài. Công đức này được hàng Phật tử Việt Nam ghi nhận. Trong hiện tình, nước Việt Nam không mấy được yên ổn. Bao nhiêu người đang đau khổ, về vật chất cũng như tinh thần. Không khí căng thẳng này quả không thích hợp với việc làm có tánh cách tinh thần và đạo đức
20/12/2019(Xem: 5065)
Niệm Phật là phương pháp thực hành rất phổ biến trong Phật Giáo Đại Thừa, đặc biệt là Tịnh Độ Tông hay còn được gọi là Pháp môn Niệm Phật. Nhưng nếu thuần túy chỉ niệm Phật mà thôi, thiếu tu học thì chúng ta có thể tái sanh về cõi Tây Phương Cực Lạc được hay không? Tính cốt lõi của pháp môn Niệm Phật là lấy Minh tâm (trong sáng) làm công yếu, lấy Hạnh môn (tịnh tâm) làm chính yếu. Tu và học phải đi đôi với nhau. Tu là thay đổi bản chất, tánh nết của mình cho được tốt hơn, cho được thiện lành hơn -đó mới là tu tâm dưỡng tánh. Còn Học là để mở mang kiến thức, để hiểu và nhận ra những điều thiện lành. Vậy tu học là đôi chân vững chắc để chúng ta đi đến được bến bờ giác ngộ. Tu làm sao để nở tâm Bồ Đề, đừng nở tâm ganh tỵ. « Văn, tư, tu » như lời Đức Phật dạy, trước tiên chúng ta phải lắng nghe, sau đó suy nghĩ để nhận biết rồi mới thực hành. Khi niệm Phật chúng ta phải nhất tâm tưởng đến Phật hiện tại, giúp tâm chúng ta có chất liệu để thành Phật. « Nhất thiết ch
12/09/2019(Xem: 5698)
Đại sư Từ Chiếu (Chi: Tzu Chao) có lần nói: "Người tu Tịnh độ lúc sắp chết thường bị Ba Điều Nghi và Bốn cửa ải làm trở ngại cho việc vãng sanh Cực Lạc. Do đó hành giả ngày thường cần chuẩn bị, suy tư và đề phòng để có thể loại trừ chúng trong lúc lâm chung.
24/08/2019(Xem: 8780)
Niết bàn là khái niệm thể hiện triết lý độc đáo về giải thoát của Phật giáo. Đây là một trạng thái tâm linh hoàn toàn thanh thản, giải thoát khỏi mọi đau khổ của cuộc đời. Trạng thái này có thể đạt được khi còn đang sống (Hữu dư Niết bàn) hoặc khi đã chết (Vô dư Niết bàn). Phật giáo Tiểu thừa hướng tới Vô dư Niết bàn - một Niết bàn tịch diệt, cô đơn, từ bỏ mọi thú vui trần thế. Phật giáo Đại thừa lại hướng tới Hữu dư Niết bàn - một Niết bàn nhân bản, nhập thế và hoạt động cùng những buồn vui nhân thế. Quan niệm này đã mang lại một sức hấp dẫn, sức sống mới cho Phật giáo, đặc biệt là trong xã hội hiện đại.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567