Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Nhận ra thân hữu

07/02/201203:19(Xem: 4441)
Nhận ra thân hữu

NHẬN RA THÂN HỮU
Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma
Anh dịch: Jeffrey Hopkins, Ph. D.
Chuyển ngữ: Tuệ Uyển - 22/10/2011

Trong khi con thấy rằng những ai thân cận với con
đang chìm đắm trong đại dương luân hồi
Và giống như rơi vào cơn bảo lửa
Không có gì ghê sợ hơn để hành động
cho sự giải thoát của riêng con,
Quên lãng những ai con không
nhận ra qua tiến trình sinh tử.
-CHANDRANGOMIN, Lá thư cho một học trò

Đã tạo nên một thái độ bình đẳng đối với bạn hữu, kẻ thù, và người trung tính, chúng ta có một nền tảng để nhìn mỗi con người như người bạn thân nhất của chúng ta. Khuynh hướng bây giờ là để phát triển một cảm giác chân thật về sự mật thiết với mọi người. Vì sự mến chuộng được phát sinh một cách dễ dàng cho bạn hữu, chúng ta cần một kỷ năng cho việc trau dồi việc nhận thức tất cả chúng sinh như bạn hữu, sử dụng chính những mối quan hệ thân hữu nhất của chính chúng ta như kiểu mẫu. Ai là người bạn thân nhất của chúng ta?

Một sự phương pháp khác là sử dụng lòng yêu thương vô điều kiện của bà mẹ của chính mỗi chúng người như một kiểu mẫu. Bởi vì tôi được xác nhận như sự tái sinh của Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ mười ba nên tôi đã không sống tại nhà cho đến ba hay bốn tuổi. Như một đứa trẻ, tôi đã thăm mẹ tôi thực tế mỗi ngày, hay bà sẽ đến để gặp tôi, vì gia đình tôi sống gần nơi cư trú của tôi ở Lhasa, thù đô của Tây Tạng. Bà luôn luôn có một trái tim hiền lương, rất tử bi, ân cần trong một sự cư xử rộng rãi đối với người khác, những người nghèo túng. Bà tử tế đến mọi người. Bà không bao giờ gắt gỏng đối với tôi, mặc dù sau này bà nói với tôi rằng tôi sẽ khó chịu nếu không vừa ý, và tôi sẽ giật mạnh lỗ tai của bà khi bà đang bồng tôi. Bà đã nói rằng, một ngày nọ tôi đã đã kéo rất mạnh và làm tổn thương vành tai của bà.

Từ lúc tôi bốn tuổi, người đem thức ăn cho tôi mỗi ngày ở Lhasa là một ông già hói đầu, râu quay nón tên là Ponpo. Tôi rất gần gũi với ông; ông giống như một bà mẹ. Khi tôi ở tại cung điện Mùa Hè học thuộc lòng những bài kinh luận, ông luôn luôn ở gần bên; tôi sẽ khóc nếu ông không làm thế. Tối thiểu tôi phải thấy vạt áo của ông trong khi ông ngồi phía bên kia bình phong khoảng gần một thước từ cửa ra vào. Ông phải ở đấy; bằng nếu không, tôi sẽ khóc. Ponpo, là người đã từng nấu ăn cho Đức Đạt Lai Lạt Ma tiền nhiệm, không biết kể chuyện như thế nào, không biết đùa giờn như thế nào, và không được học hỏi trong hình thức hoặc là tôn giáo hay những chủ đề khác. Tôi rất quý trọng ông vì ông đã cung cấp thức ăn và săn sóc tôi.

Đối với tôi dường như chúng ta, giống như những động có vú như chó và mèo, thương mến nhất những ai nuôi nấng chúng ta. Chúng ta thương mến bà mẹ của chúng ta không phải bởi vì các bà đã sinh ra chúng ta nhưng bởi vì các bà đã cho chúng ta sửa và săn sóc chúng ta. Khi tôi bệnh, Ponpo cỏng tôi đi xung quanh hay để tôi trong lòng ông. Khi chúng ta ôm một con mèo trong lòng, con mèo con sẽ rên ư ư thích thú; cũng giống với những đứa trẻ. Tôi rất thích ông ta.

Mọi người, cho dù có tín ngưỡng hay không, có thể thấu hiểu từ kinh nghiệm tự nhiên và ý nghĩa thông thường rằng tình cảm quan trọng một cách thật sự từ ngày được sinh ra; đấy là căn bản của đời sống. Chính sự sống còn thân thể của chúng ta đòi hỏi tình cảm của người khác, đến điều mà chúng ta cũng đáp ứng bằng tình cảm. Mặc dù điều này hòa lẩn với luyến ái hay dính mắc, nhưng tình cảm này không căn cứ trên sự hấp dẫn của thân thể hay tình dục. Loại tình cảm này, mặc dù không phải không thiên kiến, nhưng có thể được mở rộng để bao trùm tất cả chúng sinh, làm nó không định kiến. Đây là những gì gọi là mở rộng tình thương cùng khắp hay mở rộng từ ái.

Đối với những thiền quán theo sau, nếu mối quan hệ đối với mẹ của hành giả phức tạp, thay vì thế chúng ta có thể quan tâm đến mối quan hệ tình mẹ lý tưởng, hay chúng ta có thể sử dụng bất cứ người thân, người bạn, hay bất cứ thành viên nào của gia đình.

THIỀN QUÁN

Trước nhất, chúng ta hãy quan tâm đến nền tảng của loại thiền quán này. Sự sắp xếp được xây dựng trên giả định của tái sinh, là điều chúng ta có một ý niệm mơ hồ có thể là đúng, chúng ta có thể sử dụng để khảo sát kỷ lưỡng mối quan hệ mật thiết của vô thỉ tái sinh cho những mối quan hệ với những người khác. Tuy nhiên, nếu chúng ta không hoài nghi rằng tái sinh là thật, vẫn có thể sử dụng những bước này như một sự thực tập quán tưởng thuần khiết để giúp tháo gở những gút mắc trong những mối quan hệ của chúng ta.

1- Quán chiếu rằng nếu có tái sinh, vòng luân hồi, có nghĩa rằng những sự sinh của chinh chúng ta là không có bắt đầu (vô thỉ).

2- Quan tâm rằng khi chúng ta sinh ra từ một bào thai như một con thú, hay một con nhền nhện, chúng ta đòi hỏi một bà mẹ. Và bởi vì sự sinh của chúng ta là vô số, chúng ta phải có vô số bà mẹ trải qua nhiều kiếp sống. Điều này ngụ ý rằng mỗi chúng sinh đã từng là mẹ của chúng ta vào một kiếp sống nào đấy. Nếu quý vị có rắc rối đến với kết luận ấy, thế thì hãy thấy quý vị có thể đi theo sự tương tục của những đời sống hay không và khám phá ra rằng có bất cứ chúng sinh nào không từng là bà mẹ của chúng ta hay không, một kết luận như thế là không thể được.

3- Quán chiếu rằng những lúc chúng ta được sinh ra từ một bào thai hay một cái trứng là vô hạn, và vì thế các bà mẹ của chúng ta cũng là vô số.

4- Phản chiếu trên những điểm này, hãy thấu hiểu rằng mỗi chúng siinh trong kiếp sống hiện tại của chúng ta đã là bà mẹ của chúng ta trong nhiều lần. Đừng vội vả qua những bước này; khuynh hướng ở đây là không chấp nhận một sự hợp lý (logic) nông cạn, mà thấm nhuần tâm thức và thái độ của chúng ta với tác động của nhận thức về tái sinh. Hãy cố gắng trên điều này, ví dụ như thế, và xem nó có hữu dụng hay không.

* Hãy nghĩ về một người bạn thân nhất của hành giả và xác định rằng người bạn này, qua tương tục của những kiếp sống, đã là một người bạn nuôi nấng [ta]. Hãy giữ người này trong tâm cho đến khi ta cảm thấy một sự thay đổi nhận thức.

* Sau đó dần dần xem người khác, không quá gần gũi, những người bạn, từng người một trong cùng một cách như thế, xác nhận và cảm nhận rằng qua sự tương tục của những kiếp sống, họ là rất gần gũi với ta. Điều này có thể cần nhiều ngày để thực hành - ngay cả hàng tuần.

* Rồi thì đem đến tâm một người trung tính - người nào đấy không từng giúp đở cũng không từng làm tổn hại ta trong kiếp sống này. Hãy xem rằng người này qua những kiếp sống cũng có những lúc nào đấy là một người gần gũi và nuôi nấng như người bạn thân thiết nhất của chúng ta.

* Dần dần mở rộng sự nhận thức này đến những người trung tính - những người đã thấy trong một trạm xe điện ngầm, đi ngang qua trên đường, hay thấy trong một cửa hàng.

* Khi chúng ta trở nên thành thạo thế nào ấy với việc nhận ra những người bạn và những người trung tính đã từng nuôi nấng ta, và có thể cảm thấy nhận thức của chúng ta thay đổi như thế nào, xem xét một người nào đấy đã từng làm gây hại một ít đến ta hay người thân chúng ta. Hãy bắt đầu với một kẻ thù thứ yếu, như một người đã nói điều gì đấy bình phẩm ta, vì thế chúng ta có thể phát triển một kinh nghiệm với việc tạm thời để qua một bên những cảm giác tiêu cực trong thiện ý của việc thực chứng rằng tại một thời điểm nào đấy chúng ta đã là từng là những người bạn thân. Nếu chúng ta nhảy quá nhanh trong việc lưu tâm đến những người mà chúng ta thật là không thích, thì ý tưởng tiêu cực sẽ có thể làm lưỡng lự tiến trình của chúng ta.

* Khi chúng ta cảm thấy quan điểm của chúng ta đã thay đổi đối với kẻ thù không quan trọng, trụ lại với thái độ mới ấy trong một lúc, rồi thì quan tâm một cách chậm rãi đến trình độ tiếp theo của kẻ thù (kẻ thù nặng cân hơn).

Qua sự thực tập, có thể xem mỗi chúng sinh như một người thân hữu. Nói thì dễ, nhưng làm thì khó. Đừng trở nên thối chí; hãy duy trì sự diễn tập những bước này hết lần này đến lần khác. Tích tập kinh nghiệm một cách từ từ.

Đối với tôi, do tôi mang trách nhiệm vì quyền lợi của Tây Tạng, những người khó khăn nhất để nhận thức như những thân hữu là những ai đang làm tổn hại đến đồng bào Tây Tạng một cách chủ tâm. Tuy thế, từ kinh nghiệm với những thân hữu, người trung tính, và những kẻ thù ít quan trọng, tôi có thể thấy rằng một cách căn bản họ không có khác biệt.

Điều gì đã làm tôi khỏi bị chán nản mặc dù hơn năm mươi năm hành động cho Tây Tạng không có nhiều thành công trước nhất vì nguyên nhân là công bằng, chân thật, và lợi ích cho người khác. Nguyên nhân chân thật chưa đủ; nó phải ích lợi. Việc làm của tôi cho Tây Tạng không gia tăng hoặc là tiếng tăm của tôi, ảnh hưởng của tôi, năng lực của tôi, hay lợi ích của tôi trong bất cứ cách nào; đấy là cho đồng bào Tây Tạng, những người có quyền để được tự do và để bảo tồn giáo huấn Đạo Phật lợi ích đến tất cả chúng sinh. Vì vậy, cho dù chúng tôi có đạt được mục tiêu trong kiếp sống này của chúng tôi hay không, thì nó đáng giá để duy trì cuộc đấu tranh. Chúng tôi đang ở vào một thời điểm cấp bách qua việc người Hoa đổ nhanh chóng vào Tây Tạng; giống như Mãn Châu và Nội Mông, là những nơi đã hoàn toàn trở thành bị đồng hóa với văn hóa Hán tộc. Văn hóa Tây Tạng có thể bị biến mất nếu xu hướng hiện tại tiếp diễn. Một dấu hiệu hy vọng là bây giờ mọi người trên thế giới kể cả chính nhiều người Hoa, đang ý thức hơn về những gì đang xảy ra - khả năng mất mát có thể có đối với thế giới về một nền văn hóa quý giá và do vậy có sự quan tâm đạo đức hơn. Vấn đề sẽ tiếp tục từ thế hệ này sang thế hệ khác không giống như một nhiệm kỳ chính trị ở văn phòng, nó không có giới hạn bởi một sự phân ranh giới nào đó cua thời gian. Đây là những lý do của tôi cho việc duy trì lòng nhiệt huyết.

KỶ NĂNG HỔ TRỢ

Giữa những sự thiền quán, thảng hoặc xác định bất cứ ai mà chúng ta chạm trán như là một thân hữu giúp cho sự trưởng thành. Thí dụ, khi đi ngang qua một người trung tính (không thân cũng không thù) trong một đám đông, hãy nghĩ: Con người này dường như không có bất cứ liên hệ nào đối với tôi trong kiếp sống này, nhưng qua sự tương tục của những kiếp sống chắc chắn đã từng là cha, mẹ, con, hay bạn thân của tôi. Trong cách này, chúng ta sẽ từ từ phát triển một cảm nhận rằng tất cả chúng sinh là những thân hữu của chúng ta.

LƯỢNG ĐỊNH THÀNH CÔNG

Với nhiều thực tập sẽ đi đến điều: ngay cả khi chúng ta thấy một bọ, chúng ta sẽ nghĩ, Ô, con vật này đã được sinh ra trong một điều kiện khổ sở như vậy! Mặc dù tôi là một con người, và tạo vật này là một con bọ, trong quá khứ đã là mẹ tôi, và tôi là con của bà. Vào lúc ấy, sự sống của tôi tùy thuộc vào bà, và bà đã yêu thương tôi hơn cả đời sống của chính bà. Sau sự thiền quán đầy đủ, loại suy nghĩ này sẽ sinh khởi một cách tự phát. Dấu hiệu của việc có nhận thức hoàn toàn thành công về vấn đề tất cả chúng sinh như những thân hữu giúp cho sự trưởng thành là khi chúng ta nhìn vào thế giới chung quanh chúng ta và nghĩ, những chúng sinh từ thú vật trở lên đã từng chăm sóc tôi trong những thời quá khứ không chỉ chăm sóc tôi một lần mà là nhiều lần.

Nguyên tác: The First Step: Recognizing Friends trích từ quyển How to Expand Love
Ẩn Tâm Lộ ngày 22/12/2011

Bài liên hệ:

1- Quan điểm của tôi

2- Những giai tầng phát triển

3- Tịnh hóa tâm thức

4- Nghĩ về thân và thù

5- Nhận ra thân hữu

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
18/08/2019(Xem: 5897)
Bài kết tập này sử dụng phương pháp so sánh đối chiếu trực tiếp từ những bài kinh thuộc Nikàya (Pali tạng), và Hán tạng ngõ hầu giúp quý đạo hữu nhận biết tính tương đồng, nhất quán của hai hệ thống giáo điển trong việc ứng dụng lời Phât dạy trong đời sống thực tế hàng ngày, qua đó hành giả có thể đoạn ác tu thiện, tự lợi, lợi tha, lợi cho quần nhân, xã hội, lợi cho Tam Bảo; và sau khi mãn phần đối với hành giả Tịnh Độ, sẽ được thoát sanh về miền Cực Lạc.
05/08/2019(Xem: 5749)
Hành giả tùy niệm Như Lai khi tâm không bị tham chi phối, tâm không bị sân chi phối, tâm không bị si chi phối, được nghĩa tín thọ, pháp thọ, tâm hân hoan đến pháp do dựa vào Như Lai. Đây là cách niệm Phật mà Đức Thích Tôn đã chỉ dạy cho cư sỹ Mahànàma trong chương Sáu Pháp, Tăng Chi Bộ (Pali). Khi tâm không bị tham sân si chi phối do dựa vào Đức Phật, tức là hành giả xả bỏ tâm tự ngã (không tham, không sân, không si) khi Niệm Phật, Niệm ân đức Như Lai.
01/07/2019(Xem: 5100)
"Niệm Phật" nghĩa là xưng danh hiệu - hay nhớ tưởng đến hình tướng, bản nguyện hay công đức của một đức Phật - như Phật Thích-ca hay Phật A-di-đà. Nói chung, có ba cách niệm Phật sau đây:
14/04/2019(Xem: 9224)
Theo âm Hán Viêt, A Di Đà Phật có nghĩa là Vô Lượng Thọ Phật, Vô Lượng Quang Phật, Tây Phương Phật. Trong kinh A Di Đà, Đức Phật Thích Ca giảng là Phật A Di Đà, Giáo Chủ cõi Cực Lạc (Soukhavati (Scr.), ở phương Tây, cách cõi Ta Bà của chúng ta mười vạn ức cõi Phật. Đó là một cõi đầy đủ các công đức trang nghiêm. Lầu các, cây cối, đất đai toàn là châu báu. Nào là các loài chim bạch hạt, khổng tước, anh võ, xá lợi, ca lăng tầng già v.v… ngày đêm sáu thời ca hát ra những lời pháp: năm căn, năm lực, bảy món bồ đề, bát chánh đạo… Đức Phật A Di Đà tự thân có ánh sáng vô lượng, chiếu khắp cả mười phương mà không có vật gì có thể ngăn che. Vì vậy nên Phật A Di Đà có nghĩa là Vô Lượng Quang Phật. Ngài có đời sống dài vô hạn lượng nên còn có nghĩa là Vô Lượng Thọ Phật.
22/02/2019(Xem: 5871)
Một bài pháp được ban cho chư Tăng Ni ở International Mahayana Institute tại Boudhanath, Nepal, ngày 2 tháng 2, năm 1975. Nicholas Ribush hiệu đính. Xin xem bản Phụ Lục 1 Illuminating the Path to Enlightenment của Đức Đạt Lai Lạt Ma, hay www.lam-rim.org, để có bản dịch chánh văn. Lama Zopa Rinpoche dịch Tạng ngữ sang Anh ngữ. Bài pháp này đã được ấn tống năm 2005, trong tác phẩm Teachings from Tibet của nhà xuất bản LYWA. Quý vị có thể đọc thêm những bài pháp của Khunu Lama Rinpoche và các Lạt Ma Tây Tạng cao quý khác ở TeachingsFromTibet.com.
17/12/2018(Xem: 5446)
Ngày đăng tải: tháng 10, năm 2005 Rinpoche đã cho lời khuyên sau đây về ngũ lực để thực hành vào phút lâm chung. [Chú thích: Lời khuyên này đang hiện hành trong một quyển sách nhỏ ở FPMT Shop.] Có năm lực phải được thực hành khi gần kề cái chết. Chúng rất quan trọng. Hiện nay, đó là điều chúng ta cần phải tu tập. Phải nhớ chúng là những điều gì, ít nhất là tên gọi và ý nghĩa của chúng, rồi ta sẽ có khả năng để đưa chúng vào thực hành.
22/10/2018(Xem: 5353)
Nếu chúng ta bỏ chút thì giờ để tìm hiểu “Sở tri chướng” (所知障) là gì? thì trên mạng Internet cho chúng ta kiến giải hoặc của các bậc thầy đáng kính: Hòa thượng, Thiền sư … hay của các chùa, các trung tâm Phật học, trung tâm hoằng pháp. Chẳng hạn như: 1. Sở Tri Chướng [1] 2. Thế nào là sở tri chướng và phiền não chướng? [2]] 3. Sở tri chướng và phiền não chướng [3]
11/10/2018(Xem: 4800)
Mỗi sáng Sư thức dậy thật sớm, đánh chuông báo thức mọi người vào lúc bốn giờ sáng. Trong không gian tĩnh mịch của vùng núi, tiếng chuông nhỏ nhưng ngân dài, vang thật sâu trên dãy hành lang im lặng. Bên ngoài cửa sổ trời vẫn còn mịt tối. Tôi bước ra ngoài phòng, đi về phía thiền đường.
13/09/2018(Xem: 9873)
Đột nhiên tôi nhớ lại câu nói của một người đã nói với tôi: “Khi chưa tu học, núi là núi, sông là sông; tu học đến một giai đoạn nào đó, núi chẳng là núi, sông chẳng còn là sông; đến khi giác ngộ, núi lại là núi, sông lại là sông!”. Không biết mình đã đến giai đoạn nào nhưng hôm nay, trong tôi chợt vang lên vài câu hát “…Một hôm ngựa bỗng thấy thanh bình, thảm cỏ tình yêu dưới chân mình…”. Rồi tôi nhớ tới ông ngoại, một người mà tôi gắn bó rất thân thiết từ ngày thơ ấu.
03/09/2018(Xem: 4572)
Dòng sanh tử giống như một dòng nước lũ quá mạnh. Người nào không gan dạ không vững bền thì sẽ bị nó cuốn phăng đi. Vì vậy mỗi người phải gan dạ, vững vàng để vượt lên, đừng để cuốn đi.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com