Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tìm Hiểu Nhẫn Nhục Ba La Mật (Kṣānti-pāramitā)

29/09/201119:23(Xem: 3523)
Tìm Hiểu Nhẫn Nhục Ba La Mật (Kṣānti-pāramitā)
TÌM HIỂU NHẪN NHỤC BA LA MẬT
(Kṣānti-pāramitā)
Trí Giải

1. Định nghĩa nhẫn nhục:

Chữ “nhẫn” trong chữ Hán được viết như sau: 刃 (nhận) +心 (tâm) = 忍

Chữ 刃 (nhận) nghĩa là sự nguy hiểm, mũi nhọn, chém giết

Chữ 心 nghĩa “tim”, chữ tâm được dùng rất phổ biến như tâm cảnh心境, tâm địa心地 nghiên cứu về hiện tượng ý thức gọi là tâm lý học 心理學, Phật học thì thượng gọi vạn pháp duy nhất tâm, gọi tắc duy tâm 唯心

“Tâm được chia làm hai phần, (1) vọng tâm妄心 cái tâm nghĩ ngợi lan man sằng bậy, (2) chân tâm真心 cái tâm nguyên lai vẫn sáng láng linh thông, đầy đủ mầu nhiệm không cần phải nghĩ mới biết, cũng như tấm gương trong suốt, vật gì qua nó là soi tỏ ngay, khác hẳn với cái tâm phải suy nghĩ mới biết, phải học hỏi mới hay. Nếu người ta biết rõ cái chân tâm (minh tâm明心) mình như thế mà xếp bỏ sạch hết cái tâm nghĩ ngợi lan man sằng bậy đi thì tức thì thành đạo ngay”. [1]

Theo Hán-Việt tự điển thì chữ “nhẫn” 忍 có nghĩa là nhịn, như làm việc khó khăn cũng cố làm cho được gọi là kiên nhẫn堅忍, nhẫn là lòng khoan dung độ lượng.

Tại sao chữ nhận 刃 (nhận) nằm trong chữ tâm 心 gọi là nhẫn, nghĩa là người tạo chữ muốn nói trong cuộc sống hằng ngày tâm mình thường hay tiếp xúc nhiều thứ nguy hại như những phiền não tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến…chúng thường làm não hại tâm mình. Cho nên nhẫn nhục là tâm phải chịu đựng những sự não hại bên ngoài mà tâm không sân hận (刃 (nhận) +心 (tâm) = 忍 nhẫn.)

“Nhẫn nhục tiếng Phạn gọi “Kṣānti” là một phương pháp tu của Bồ-tát trong lục độ ba-la-mật, từ “nhẫn” có nghĩa nhẫn nhịn, kiêng cữ, kiên nhẫn, sự ôn hòa”. [2]

“Chân thực và nhu hòa
Kham nhẫn và dịu hiền
Hòa thuận và đón tiếp
Bất hại và thanh tịnh” [3]

Theo D.T. Suzuki giải thích ý nghĩa “nhẫn nhục” như sau: “không cảm giác thất vọng khi đối diện với những điều xấu”, nhẫn nhục luôn đối trị sự tức giận (krodha), lòng căm thù (dveṣa) sự đáng ghét, không ưa (pratigha) và tính hiểm độc, ác tâm, ác ý (malice). Vì vậy, “nhẫn nhục” được định nghĩa là một sự giải thoát từ cái tâm giận dữ, và sự kích động (gây hấn, phấn khích) thối quen thường chịu đựng, tha thứ sự tổn thương (gây hại) và xúc phạm”.[4]

“Nhẫn nhục Ba-la-mật là chịu đựng những phiền não mà người khác gây ra cho mình và gánh chịu những lỗi lầm của kẻ khác, Bồ-tát tu pháp nhẫn nhục thậm chí chặt đứt một cánh tay hoặc một cái chân vẫn không uất ức khó chịu” [5]

Hành giả tu nhẫn nhục phải thực hành trên ba phương diện nhẫn thân, nhẫn khẩu, và nhẫn ý

Nhẫn thân, nhẫn khẩu, với nhiều người
Ý nhẫn không sân, mọi việc vui
Đức hạnh chân tu, cầu giải thoát
Mọi người học Phật, nhẫn soi đời(Trí Giải)

Trong Phật giáo nhẫn nhục không phải là sự bi lụy, yếu đuối, hèn hạ, nhẫn là một thái độ tích cực rất sáng suốt do trí tuệ dắt dẫn, khi vấp phải những thất bại không chán nản tuyệt vọng, đạt được thành công không kiêu căng tự đắc, đó là ý nghĩa của nhẫn

Ở đời sống đạo hãy tùy duyên
Tâm trí an vui chẳng lụy phiền
Ngoại cảnh sáu trần không dính mắc
Nội tâm bát thức hãy điềm nhiên
Niệm tưởng khởi lên liền buôn xả
Chân tâm vắng lặng thấy bình yên
Ấy là chân thật cho cuộc sống
Không bị lụy phiền cảnh đảo điên
(Trích “Bước Chân Xuất Thế”)

"Trong hạnh phúc, trong phiền lụy, lúc thăng, lúc trầm, ta phải giữ tâm như đất, cũng như trên đất ta có thể vất bất luận thứ gì, dầu chua, dầu ngọt, dầu sạch, dầu dơ, đất vẫn thản nhiên, một mực trơ trơ đất không giận, cũng không thương."

2. Phân loại nhẫn nhục:

Nhẫn nhục: là một đức tính quan trọng của người Phật tử, tỏ rõ sức mạnh nội tâm, cũng là một trong 6 Ba-la-mật của Bồ-tát hạnh. Nhẫn có 3 loại: [6]

Sinh nhẫn(chúng sinh nhẫn) như muỗi, kiến cắn không giận, không giết hại, không sân hận với người sân hận, không chửi mắng người chửi mắng mình, còn gọi là hữu tình nhẫn

“Nhẫn, vô trước: giáp sắt,
An ổn, đi đúng pháp.
Tiến thẳng không thối lui,
Không có gì lo sợ;
Người trí ruổi chiến xa,
Dẹp kẻ thù vô trí” [7]

Đức Phật dạy: "Người tu hành theo Đạo như một người chiến đấu với vạn người. Mặc áo giáp ra cửa, tâm ý hoặc khiếp nhược, hoặc đi nửa đường thối lui, hoặc chiến đấu đến chết, hoặc đắc thắng mà về. Người Sa môn học Đạo (cũng vậy) phải có ý chí kiên cường, dũng mãnh tiến lên, không sợ cảnh tượng trước mắt (làm chướng ngại) phá tan các loài ma để đắc Đạo thành đạo quả" [8]

Pháp nhẫn: nhẫn chịu sự áp bức của thiên nhiên như nóng, lạnh, mưa nắng... còn gọi là phi tình nhẫn.

Sinh nhẫn và pháp nhẫn thuộc về đức tính kham nhẫn, trong Thiền luận của Suzuki nói rằng: “Kham nhẫn không nghĩa là chịu khuất phục trước mọi khổ đau, những khổ đau ấy tác động ở bên ngoài mang đến cho mình, nhưng nó có nghĩa là để thực hành đức tính tinh tấn (siêng năng) trong đời sống của Tánh không mà tất cả Kinh điển Đại thừa xem như là cuộc sống của Bồ-tát” (Bodhisattvacarya) [9]

Vô sinh pháp nhẫn: nhẫn đạt đến cao độ trở thành đức tính tự nhiên, ra vào nghịch cảnh và thuận cảnh một cách tự tại.

Theo như Kinh-thập-địa, “đời sống vô công dụng hạnh của Bồ tát phải trải qua giai đoạn thứ bảy và tám (bát địa; bất động địa) trong đời sống tâm linh mới chứng được “Vô sanh pháp nhẫn”Anutpattikadhamma Ksanti”[10]

3. Sự nguy hại không kham nhẫn:

Bồ tát tu tập hạnh nhẫn nhục là để đoạn trừ tâm sân hận một trong ba căn bản phiền não luôn nhấn chìm chúng sinh trong vòng sinh tử, trong chín mươi tám kiết sử, thì tâm sân hận là loại kiết sử nguy hiểm nhất, trong các tâm bệnh, nó là thứ bệnh khó trị nhất. Kẻ sân nhuế thì không bao giờ biết thiện, ác, cũng chẳng nghĩ đến tội phước, chẳng biết tàm quý chỉ theo tâm sân hẫy hừng của mình.

Trong tác phẩm Bodhicaryāvatāracủa ngài Śātideva nói rằng không có ác nào sánh kịp bằng sân si, và cũng không có gì cao quý bằng đức tính kham nhẫn:

“Thiện hành tích lũy ngàn năm,
Một giây nóng giận tiêu tan tức thì.
Ác nào sánh kịp sân si
Hạnh tu nhẫn nhục không gì quý hơn” [11]

Và trong Tăng-chi-bộ-kinh đức Phật dạy: có năm điều nguy hại cho những người không kham nhẫn:

- Quần chúng không ái mộ, không ưa thích.

- Có nhiều người hận thù.

- Nhiều người tránh né không muốn gặp.

- Lúc sắp chết tâm bị mê loạn

- Sau khi chết rơi vào Địa ngục. [12]

Thông thường, sự xung đột thường xảy ra trong mối quan hệ vợ chồng và bạn bè, nguyên nhân là do đâu? Do chúng ta mọi người không biết tu nhẫn nhục, ai cũng cố chấp để bảo vệ cái bản ngã tự cao tự đại của mình, ai cũng cho rằng mình luôn đúng và không chịu lắng nghe, nếu hai vợ chồng luôn bảo vệ cái đúng riêng cho bản thân mình thì chắc chắn sẽ tạo ra sự xung đột trong gia đình và mất đi sự hạnh phúc.

4. Sức mạnh của kham nhẫn

Trong Tăng-chi-bộ-kinh đức phật dạy về sức mạnh của lòng kham nhẫn: “ở đây, này các Tỷ-kheo, có hạng người không nhiếc mắng lại kẻ đã nhiếc mắng, không sân hận lại kẻ đã sân hận, không gây lộn lại với kẻ đã gây lộn. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là đạo hành kham nhẫn” [13]

Dù cho gian khổ dặm đường
Sa môn kham nhẫn không vướng bụi trần
Dong ruổi góp nhặt cơn sân
Mang về vun bón chân tâm Bồ đề
Khi nào hoa quả sum sê
Hái tặng hạt giống người về ươm tâm
Trồng trên mảnh đất hồng trần
Nhổ cỏ phiền não, quả tầm Thánh nhân (Trí Giải)

Có vị Sa môn hỏi Đức Phật rằng:

"Điều gì là mạnh nhất? Điều gì là sáng nhất?" Đức Phật dạy: "nhẫn nhục là mạnh nhất vì không chứa ác tâm nên tăng sự an ổn. Nhẫn nhục là không ác, tất được mọi người tôn kính, tâm ô nhiễm đã được đoạn tận, không còn dấu vết gọi là sáng nhất, nghĩa là tất cả sự vật trong 10 phương, từ vô thỉ thuở chưa có trời đất cho đến ngày nay không vật gì là không thấy, không vật gì là không biết, không vật gì là không nghe, đạt được Nhất thiết trí, như vậy được gọi là sáng nhất". [14]

Và đức Phật đưa ra tám sức mạnh như sau:

- Sức mạnh của trẻ thơ là tiếng khóc

- Sức mạnh của đàn bà là phẫn nộ

- Sức mạnh của người ăn trộm là vũ khí

- Sức mạnh của vua chúa là quyền uy

- Sức mạnh của kẻ ngu si là áp đảo

- Sức mạnh của bậc hiền trí là cảm hóa

- Sức mạnh của người đa văn là thẩm sát*

- Sức mạnh của Sa môn là nhẫn nhục [15]

5. Phương pháp thực hành nhẫn nhục ba-la-mật:

+ Dùng trí tuệ quán chiếu

Bồ-tát thường dùng trí tuệ vô lậu quán chiếu các pháp vận hành theo nguyên lý Tam pháp ấn (vô thường, khổ, vô ngã) vị ấy thấy vạn vật cùng vận hành theo luật duyên sinh, tương quan theo thuyết nhân quả, cho nên Bồ-tát vẫn thản nhiên để thành tựu Bồ đề nguyện:

Vô thường lá rụng, ở ngoài sân
Nhặt lá vàng rơi, sạch cõi trần
Phiền não trong tâm, nhặt dứt bỏ
Tâm hồn thanh tịnh, khỏi trầm luân (Trí Giải)

Khi có người làm tổn thương đến Bồ-tát, vị Bồ-tát nghĩ rằng:

“Người hại ta hôm nay, đã có gieo ân oán trong kiếp trước nào đó, vô tình hay cố ý ta đã tạo nhân oan trái với người này, đây cũng là quả để trả nhân quá khứ gieo trồng không tốt, đây cũng chính là kết quả của hành động bất thiện trong quá khứ, tại sao ta không trả nợ lại oán hờn người ta”? [16]

“Muốn tu nhẫn nhục cho thành,
Kẻ thù hợp tác với mình mới xong
Vậy bao phước đức thành công,
Hãy nên phụng hiến kẻ từng hại ta”
“Nhờ một kẻ sân si tột độ,
Nhẫn nhục thành kiên cố nơi ta
Kẻ thù nhân tốt cho ta,
Nên cung dưỡng họ như là Pháp thân [17]

Vì thế “Bồ-tát nhẫn nhục ba-la-mật là thực hành tinh tấn cả ngày đêm để thích nghi tất cả những nhu cầu ứng xử không khởi tâm phân biệt” [18]

Mỗi khi chúng ta gặp chướng duyên bị xung đột với ai, tự quán chiếu lại chính bản thân mình, lúc cơn giận nổi lên, chúng ta là phàm phu, không thể nào đủ trí tuệ để thắng cái cơn giận, khi sự việc qua rồi, mỗi đêm nằm ngủ hãy bỏ ra 10 phút quán chiếu lại, suốt quá trình trong một ngày, mình đã làm gì? Việc nào mình đã làm đúng? Việc nào mình đã làm sai. Sau khi quán chiếu từng việc như thế, việc nào mình làm đúng thì phát triển trong tương lai, việc nào không đúng phải kiểm điểm lại mình đã làm sai từ chỗ nào. Nếu mình lỡ làm người bạn nào đó buồn tự mình phải đi xin lỗi thì mọi việc sẽ bình yên, mỗi ngày sẽ trở nên hoàn thiện

Vì kẻ thù luôn giận dữ
Đã tạo ra đau khổ như thế này
Ai thắng sân hận mới hay
Sẽ tìm thấy được những ngày hạnh phúc[19]

Người Phật tử thuần thành tu pháp nhẫn nhục và khoan hồng, nếu thấy bất kỳ điều xấu của kẻ khác, hãy cố gắng tìm cái tốt đẹp trong mỗi người và sự việc để sống, vì vậy trong Kinh Trường-A-Hàm đức Phật dạy rằng:

Mọi người có tranh tụng,
Ai không tranh là thắng
Con người có hai duyên,
Vì mình cũng vì người;
Thấy người không tranh tụng,
Lại cho là ngu đần.
Nếu người có sức lớn,
Nhịn được người không sức;
Sức này là đệ nhất,
Là tối thượng trong nhẫn
Ngu tự cho mình mạnh,
Sức này chẳng là sức;
Người mạnh nhẫn như pháp,
Sức này không ngăn được[20]

+Dùng từ bi tu nhẫn nhục:

Ngoài phương pháp tu lục độ ra, Bồ-tát còn sử dụng nhiều pháp môn tu khác như Tú-vô-lượng-tâm, Tứ-nhiếp-pháp, Ngũ minh…Bồ-tát tu tập Tứ-vô-lượng-tâm:

- Tâm từ (metta) là lòng chân thật ước mong chúng sinh sống hạnh phúc trong niềm vui chân tịnh và thành tự Bồ đề.

- Bi (karuṇā) là lòng rung động trước khổ đau của người khác, tình thương vô hạn đối với chúng sinh, lòng quyết tâm cứu mọi sinh linh thoát khỏi biển sinh tử luân hồi

- Hỷ (muditā) là lòng hoan hỷ trước mọi thành công và niệm vui chung với người khác.

- Xả (upeksā) là sự nhận thức đúng đắn, sự suy luận khách quan, Bồ-tát không có luyến ái, cũng không ghét bỏ, không oán giận những kẻ đã làm hại mình

Vì thế, “những ai tiêu diệt được tâm hận thù thì người ấy được trí tuệ sáng suốt cho bản thân. Trong cuộc sống bạn không có tình thương không thể nói chuyện với người khác được” [21]

Nhẫn nhục thể hiện tâm từ
Nhẫn người một chút chữ tu hiển bày
Nhẫn nhịn mới thấy điều hay
Nhẫn bạn ta có những ngày cảm thông(Trí Giải)

Trong cuộc sống chúng ta cần tu tập nuôi dưỡng tâm từ bi mới thực hành phương pháp tu nhẫn, vì lòng từ bi sẽ giúp bạn sẽ gặt hái năm kết quả sau:

“(1) lòng từ bi từ bỏ gây tổn thương đến người khác, (2) là hạt giống cho sự giác ngộ giải thoát, (3) mang đến hạnh phúc đến cho tha nhân, và nhận khổ đau về cho mình (tinh thần Bồ-tát đạo), (4) động cơ thúc đẩy cho hạnh nguyện, (5) mang lại đặc tính từ bi cho riêng mình.” [22]

Bồ-tát luôn lấy từ bi và trí tuệ làm sự nghiệp độ sinh, nhưng pháp tu nhẫn nhục rất quan trọng vì sợ gây tổn hại đến chúng sinh, trong Kinh-phạm-vọng nói: “tất cả người nam là cha ta, tất cả người nữ mẹ ta, ta đời đời thọ sinh ở nơi họ”. [23]

Khi quán chiếu như thế tất cả kẻ oán người thân đều bình đẳng, Bồ-tát không có tâm phân biệt những ai có duyên đều được cứu khổ ban vui cho họ, trong Kinh Đại- bảo-tích có nói:

Nhẫn nhục gốc thập lực
ChưPhật thần thông nguyện
Trí vô ngại đại bi
Đều lấy nhẫn làm gốc
Tứ đế, niệm, chánh cần
Căn, lực, giác đạo phần
Đều lấy nhẫn làm gốc
Người trí nên tu nhẫn
Phật tại ba la mật
Chuyển pháp luân vô thượng
Cũng lấy nhẫn làm gốc[24]

6. Nhẫn nhục một trong sáu pháp tu Ba-la-mật

Chúng ta là hàng phàm phu trên bước đường tu tập, thực hành lục độ ba la mật bao gồm: Bố thí, trì giới, tinh tấn, nhẫn nhục, thiền định và trí tuệ

Bố thí có hai, vật chất và tinh thần, Bố thí vật chất được giàu sang, đó là làm việc lợi tha, bố thí pháp dẫn dắt chúng sinh vào đạo tu hành quả được trí tuệ.

Do trì giới thoát khỏi ba đường ác, được sinh vào cõi người hay cõi trời tôn quý. Do tu nhẫn nhục nên ngăn được tâm nóng giận, thân tướng được trang nghiêm, oai đức đầy đủ, không có hận thù ai nấy đều quý mến và kính phục và dễ dàng cảm hóa chúng sinh.

Do tinh tấn giúp cho hành giả đoạn trừ tâm giải đãi, để hoàn thành tâm nguyện về Bảo sở và hoằng pháp độ sinh.

Do tu thiền định tâm không còn não loạn, vọng tưởng, xa lìa các vui ngũ dục của thế gian, thiền định giúp tâm bình tránh xa mọi xung đột, gây tổn hại đến người khác trong cuộc sống.

Do tu thiền định vọng tưởng, phiền não chấm dứt, trí tuệ bát nhã hiển bày để diệt trừ vô minh, mây ta thì mặt trăng hiển bày chiếu sáng khắp thế gian.

7. Kết luận:

Nói thì dễ lắm, nhưng khi chúng ta thực hành tu nhẫn nhục rất là khó, hằng ngày chúng ta luôn ôm chấp cái ngã của mình, để rồi tham lam, ích kỷ, giận hờn, ganh tỵ, lúc nào cũng cho mình hơn người, những thứ này như đao 刀 (phiền não) nằm trong tâm 心. Đây chính là nguyên nhân ngăn cản chúng ta tu nhẫn nhục.

Từ trước đến nay chúng ta sống sai lầm tạo biết bao nhiêu thù hận, sân si,...ngày hôm nay cố gắng tu thực hành thiền định, tụng kinh, niệm Phật để tâm hồn thanh tịnh trí tuệ phát sinh, khi có trí tuệ bát-nhã rồi thì chúng ta sẽ làm chủ 丶được con đao trong tâm, nghĩa là không chấp 刃 (nhận) những thứ phiền não đó trong tâm, thì chỉ còn lại một chân tâm thanh tịnh, 心 an lạc giải thoát. Tức là chữ nhẫn 忍-刃=心 (nhẫn không nhận phiền não = chân tâm), thì chân tâm này là tâm Phật, tâm của Bồ-tát, tâm của bậc Hiền trí.

Chú thích:

[1] Thiều Chửu, Hán-Việt tự điển,

[2] Xem H. Dayal, The Bodhisattva Doctrine in Buddhist Sanskrit Literature, Motilal Banarsidass Publishers, 2004. P. 209 và xem: G. S. P. Misra, Development of Buddhist Ethics, Mushiram Manoharlal Publisher1984 pp.137-138.

[3] Aṅguttāra Nikāya TăngChi BộHòa thượng Thích Minh Châu dịch ViệtChương II - Hai Pháp, XV. Phẩm Nhập Định

[4] H. Dayal, op.cit., 2004. P. 209

[5] Narada, The Buddha and His Teachings, Buddhist Missionary Society Malaysia, 1988 p. 599.

[6] “(1) forbearance of pain (duḥkhādhivāsana-kṣānti)

(2) forbearance of seeing the Doctrince (dharmaidhyāna-kṣānti)

(3)forbearance of injuries and insults (parāpakāra-marṣaṇo-kṣānti)” xem G. S. P. Misra, Development of Buddhist Ethics,Mushiram Manoharlal Publisher1984 p.138

[7] 無著忍辱鎧 安隱如法行 直進不退還 永之無憂處智士乘戰車 摧伏無智怨, T2n99 trang 201a06-08 xem Tạp A-Hàm Thích Đức Thắng,Việt dịch chương V. Đạo Phẩm phần Tương ưng thánh đạo, Kinh Bà-la-môn.

[8] Kinh Tứ Thập Nhị Chương, Thích Viên Giác dịch giảng nghĩa chuong 33.

[9] D.T. Suzuki, Essays in Zen Buddhism second Series, C. Humphreys (ed) Mushiram Manoharlal Publisher 2008 p. 313.

[10] D.T. Suzuki, op.cit., p. 335. Và xem: Sangarakshita, A Survey of Buddhism Motilal Bannarsidass Publishers 2006. P. 483

[11] The Bodhicaryāvatāra of the Boddhist poest Śātideva, Entering the Path of Enlightenment, M. L. Matics (tr.) London Geoge Allen & Unwin Publish 1970. P.173. Việt dịch:Thích Nữ Trí Hải.

[12] Aṅguttāra NikāyaTăng Chi BộHòa thượng Thích Minh Châu dịch ViệtChương chương V phẩm không kham nhẫn.

[13] Tiếp theoChương IV - Bốn Pháp (IV) (164) Kham Nhẫn

[14] Kinh Tứ Thập Nhị Chương, Thích Viên Giác dịch Việt chương XV

[15] Aṅguttāra NikāyaIII,Tăng Chi Bộ KinhIII, Hòa thượng Thích Minh Châu dịch Việt Chương Tám Pháp, phẩm Gia chủ, Kinh Sức Mạnh (1), trang 587.

[16] Narada, The Buddha and His Teachings, Buddhist Missionary Society Malaysia, 1988 p. 600

[17]The Bodhicaryāvatāra of the Boddhist poest Śātideva, Entering the Path of Enlightenment, M. L. Matics (tr.) London Geoge Allen & Unwin Publish 1970. pp. 173-174. Việt dịch: Thích Nữ Trí Hải.

[18] D.T. Suzuki, Studies in the Laṅkavatāra Sūtra, Mushiram Manoharlal Publisher 2007, pp 366-367.

[19]The Dalai Lama Healing, Anger The Power of Patience from a Buddhist Perspective, G. T. Jinpa (Tr.) Motilal Banarsidass Publisher 2007. P. 17 (Trí Giải dịch ra thơ)

[20]衆人諍有訟 不報者爲勝,
夫人有二縁 爲己亦爲他
見無諍訟者 乃謂爲愚騃
若人有大力 能忍無力者
此力爲第一 於忍中最上
愚自謂有力 此力非爲力
如法忍力者 此力不可沮 xem 長 阿 含 經 T1n1 trang142a01-07 xem: Kinh Trường A-Hàm phần Thích Phước Thắng Việt dịch IV phẩm 10: Chiến Đấu

[21] G.M.Nagao, “The Bodhisattva’s compassion Described in the Mahāyāna-Sūtrālṁkāra”, J. Silk (ed) Buddhist

Studies The Legacy of Gandjin M. NagaoMotilal Banarsidass publishers 2008 p.18.

[22] Tiếp theo trang 9.

[23] Kinh Phạm Võng Bồ Tát Giới HT Thích Trí Quang Việt dịch giới 20

[24] Kinh Đại Bảo Tích, HT Thích Trí Tịnh Việt dịch VI. Tr. 71.

* Thẩm sát: nghĩa là bậc Thanh văn có trí tuệ, có chánh kiến quán sát mọi sự việc một cách sâu sắc, thấu rõ được bản chất của nó, không rơi vào tà kiến.

(CÙNG TÁC GIẢ)

Bài Liên quan đến chủ đề:

Ý NGHĨA NHẪN NHỤC CỦA ĐẠO PHẬT - Thích Minh Hoàng

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
10/07/2015(Xem: 5855)
Hầu hết các kinh luận Đại thừa đa số đều thuyết minh tổng quát về pháp môn niệm Phật. Trên thực tế hình thành pháp môn Tịnh Độ phổ biến từ tư tưởng các bộ kinh căn bản như Kinh Bát Chu Tam Muội (Ban Châu Tam Muội), Kinh A Di Đà, Kinh Quán Vô Lượng Thọ, Kinh Vô Lượng Thọ, Kinh Hoa Nghiêm và Kinh Thủ Lăng Nghiêm và nhiều bộ kinh khác. Pháp niệm Phật đến với quần chúng ước tính khoảng mười tám thế kỷ qua (Tính từ khi Kinh Ban Châu Tam Muội được dịch tại Trung quốc năm 179 s.dl.), và pháp môn Tịnh Độ được hình thành và phát triển thời tổ sư Huệ Viễn (334-416 TL) cho đến ngày nay. Thực tế lịch sử đã chứng minh pháp môn niệm Phật đã đóng một vai trò quan trọng trong lĩnh vực truyền bá Phật giáo Đại thừa. Y cứ từ kinh điển liên quan Pháp môn niệm Phật, trên căn bản thì thiền sư Tông Mật (784-841), tổ thứ năm của tông Hoa Nghiêm đã phân thành bốn phương pháp niệm Phật. Đó là trì danh niệm Phật, quán tượng niệm Phật, quán tưởng niệm Phật và thật tướng niệm Phật. Từ thời đại Tổ Liên Trì về sau
25/06/2015(Xem: 6019)
Trong Phật pháp có nhiều pháp môn tu học học và hướng đến giác ngộ giải thoát. Giác ngộ là thấy rõ đạo lý duyên khởi của nhân sanh và vũ trụ. Giải thoát có nghĩa là dứt sự khổ đau luân hồi do tâm thức chấp thật ngã và thật pháp tạo vọng nghiệp. Chung quy tu tập theo Phật giáo nhận thức rõ giải thoát là từ tâm này, luân hồi sanh tử cũng do tâm này, vì tâm này là chủ nhân của muôn pháp. Kinh Tâm Địa Quán có dạy: “Tâm sanh thì pháp sanh,
07/05/2015(Xem: 6853)
Các con ơi! Ta vô cùng hoan hỷ đón nhận tất cả các con về thế giới Cực Lạc trang nghiêm thù thắng mà ta đã thiết lập để cho các con trở về tịnh dưỡng. Ta thật yên tâm khi các con về mái nhà chung tình này để được nghe pháp, tu tập mà không bị quấy nhiễu bởi lục trần nhiễm ô của thế giới Ta Bà. Tuy nhiên, các con ạ! Các con thấy đó. Đa số các con đều được hóa sanh ở những phẩm vị thấp, Trung phẩm và Hạ phẩm.
28/04/2015(Xem: 5872)
Người phương Tây và dân trí thức trong thời mạt pháp hầu như không tin pháp môn niệm phật cầu vãng sanh Cực Lạc. Họ không tin vì hai lý do. Thứ nhất họ cho rằng Phật A DI ĐÀ và Tịnh độ Cực Lạc là huyền thuyết. Thứ hai là Kinh sách Đại Thừa Phật Giáo không đáng tin cậy vì thường hiểu lầm là Đại thừa ra đời từ cuộc Tập Kết Kinh điển thứ thứ Tư, hơn 400 năm sau khi Đức Phật nhập niết bàn, cách thời Phật Thích Ca quá xa khiến cho kinh sách đại thừa có phần sai lệch và khó có thể kiểm chứng. Sau đây là những chân lý chứng minh kinh điển đại thừa Phật giáo và Pháp môn niệm Phật nói riêng là hoàn toàn chân thực, không hư dối. Những chân lý này được kiến giải một cách khách quan dựa trên những sự kiện lịch sử Phật giáo và những lời thuyết giảng của Đức Phật ghi lại trong Kinh điển Đại thừa xảy ra đúng với những sự kiện lịch sử sau thời Đức Phật và phù hợp với những thành tựu khoa học ngày nay.
28/04/2015(Xem: 6588)
Một đời giáo hóa của Đức Phật Thích Ca được khái quát hóa trong ngũ thời bát giáo mà theo ngài Trí Giả, Tổ sư sáng lập ra Tông Thiên Thai đã sử dụng ngũ thời để phân định trình tự thuyết pháp của đức Phật; dùng “Bát giáo” để phân biệt pháp môn được thuyết và nghi thức thuyết pháp. Ngũ thời được chia trình tự như sau:
10/03/2015(Xem: 7979)
Trong diễn đàn này nhiều quý bạn hữu đã nói về niệm Phật A-Di-Đà bốn chữ hay sáu chữ. Theo tôi thì chúng ta đã học Mười hạnh Phổ-Hiền thì bình-đẳng kính chung không từ một ai, nhưng tin vào lời người ta nói thì phải có sự quán xét đúng hay sai. Đặc biệt với Phật pháp và giáo lý nhà Phật thì đòi hỏi phải thật nghiêm túc nếu không sai một ly đi vạn dặm, có khi mất hết cả công sức bao nhiêu năm tu hành bỏ ra mà không thành tựu, thậm chí còn sa hố là phỉ báng chính pháp, phát đi những điều không đúng về giáo lý của Phật.
23/01/2015(Xem: 7103)
Từ khi Phật giáo hòa nhập vào văn hóa nhân loại thì bắt đầu ý nghĩa đón xuân cổ truyền được mở rộng thành ý nghĩa đón Xuân Di Lặc. Từ đó, đón xuân trong quan niệm người Đông Á mang đậm bản sắc văn hóa Phật giáo và văn hóa nhân loại. Chúng ta vận dụng tính nhân bản đạo đức Phật giáo làm tô đẹp ý nghĩa mùa xuân cổ truyền và chuyển hóa những tập quán tiêu cực để quần chúng có thêm chánh kiến trong sinh hoạt đón xuân hằng năm.
23/01/2015(Xem: 6383)
Trong sinh hoạt hằng ngày của chúng ta thường thể hiện và vận dụng trăm pháp rất thực tế, nó là tổng hợp nội dung của hiện tượng tâm lý, những yếu tố cơ bản nhất vốn có trong con người, cũng do đây mà chúng ta có thể biết điều này và biết được điều khác. Chúng ta vì người mà ứng xử, hay hóa độ chúng sanh mà không hiểu hiện tượng tâm lý con người thì rất chướng ngại. Một trăm pháp này bao gồm trong pháp thế gian và pháp xuất thế gian, lộ trình tu học từ địa vị phàm phu đến quả vị thánh, là nền tảng cơ bản của người học Phật, cho nên mọi người cần phải học môn này.
23/01/2015(Xem: 7182)
Chúng ta nghiên cứu xuyên suốt tư tưởng Phật học nhận thức được rằng, có hai pháp môn cần phải tham cứu trước. Một là “Luật Tông” là căn bản nhất của tất cả các pháp môn. Các tông phái Phật học rất nhiều do giới luật mà tồn tại. Khi Đức Phật sắp nhập diệt, đã từng phó chúc cho A Nan rằng: “Sau khi Thế Tôn nhập diệt, các thầy hãy lấy giới luật làm thầy, nương vào giới luật mà tu hành để được giải thoát giác ngộ”. Đây là vấn đề Phật học thường đề cập, đó là điều chắc thật không cần biện giải nhiều lời. Hai là “Duy Thức”, thông đạt tất cả nguyên lý các pháp. Kinh Hoa Nghiêm dạy: “Tâm như người thợ vẽ,
23/01/2015(Xem: 6047)
Bản văn này giới thiệu ý nghĩa căn bản của Thiền và niệm Phật, luận thuật quan niệm các học giả Phật giáo đối với sự phát triển tư tưởng Thiền tông và Niệm Phật. Từ trên khái niệm đến triển khai rõ ý nghĩa và nội dung vô cùng phong phú của Thiền và niệm Phật, đặc biệt chú trọng về phương diện lịch sử từ sau thời đại nhà Tùy để trình bày mối quan hệ về Thiền tông và niệm Phật. Ở đây tóm lược hệ thống ý nghĩa quá trình diễn biến về Thiền và niệm Phật trong mối quan hệ mang tính đặc trưng theo từng giai đoạn. Sau cùng, luận văn từ trong diễn biến lịch sử của Thiền và niệm Phật để đưa đến kết luận xu thế dung hợp giữa Thiền và Tịnh độ theo hướng đi của Phật giáo Trung quốc. Căn cứ hiện thực của lịch sử Phật giáo và đưa đến nhận định rằng: Từ sau thời Tống thì Thiền Tịnh song tu là phương pháp mô phạm căn bản của sự tu trì Phật giáo Trung quốc. Tin chắc rằng, trong tương lai Phật giáo Trung quốc vẫn duy trì năng lực truyền thống Phật pháp vốn có của chính mình.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567