Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Vô Ngã Và Niết Bàn

05/01/201118:00(Xem: 3958)
Vô Ngã Và Niết Bàn


VÔ NGÃ VÀ NIẾT-BÀN
Thích Hiển Chánh

Niết-bàn không phải là sự vật mà là một trạng thái vắng mặt trọn vẹn dòng chảy lậu hoặc của tâm. Cho vô ngã là niết-bàn chẳng khác nào cho rằng tất cả các sự vật là niết-bàn, hay nói khác hơn đánh đồng niết-bàn với các sự vật vô ngã.

Theo văn học Phật giáo nguyên thủy, niết-bàn không phải là thực tại thường hằng (nicca) và cũng không phải là thực tại ngã (atta). Mà đúng ra, niết-bàn được mô tả như một trạng thái chứng đắc "siêu vượt thời gian" (akàliko) hay sự an lạc cao cấp nhất (nibbànaị paramaị sukhaị ).1 Nhưng có khuynh hướng cho rằng niết-bàn là một thực tại tuyệt đối theo nghĩa một hạnh phúc thường hằng hay một kinh nghiệm siêu nhiên. Đặc tính hoá niết-bàn bằng một hạnh phúc thường hằng sẽ vô tình thừa nhận có một tác nhân kinh nghiệm thường hằng miên viễn (a permanent and eternal experiential agent), luôn túc trực để tiếp nhận dòng kinh nghiệm đó.

Về phương diện logic, điều nầy sẽ kéo theo sự thừa nhận một tác nhân thường hằng bất biến hay một hiện hữu siêu nhiên; và nhờ vào hiện hữu siêu nhiên này mà con người có thể nhận dạng được dòng kinh nghiệm của hạnh phúc thường hằng. Nếu đây là những gì được hiểu thì phán đoán "niết-bàn là thường" sẽ trái với lời dạy nguyên thủy của đức Phật về tính phi thực thể hay vô ngã (anatta) của mọi sự vật. Ngoại diên của vô ngã không bị giới hạn trong thế giới luân hồi (saịsàra), mà còn bao gồm cả niết-bàn. Mặc dù chúng ta không thể tìm thấy các bằng chứng trực tiếp cho lối giải thích trên, nhưng chúng ta có thể đúc kết chúng từ ba tuyên ngôn nổi tiếng của đức Phật về bản chất của thế giới:

"sabbe saơ khàràaniccà,
sabbe saơ khàrà dukkhà ,
sabbe dhamma anattà"2

Có nghĩa là "tất cả các sự vật duyên khởi đều vô thường, tất cả các sự vật duyên khởi đều dẫn đến sự không thoả mãn, và tất cả các hiện tượng (dhamma) là vô ngã."

Vấn đề cần đặt ra là niết-bàn có thể được liệt vào phạm trù của mọi sự vật hiện tượng (dhamma) hay không? Nhận xét về ba câu tuyên ngôn trên của đức Phật, HT. Narada đã viết rất chính xác như sau:

Khái niệm "pháp" hay mọi sự vật hiện tượng có thể áp dụng cho các sự vật và trạng thái duyên khởi hay phi-duyên-khởi, bao gồm luôn cả niết-bàn. Để minh chứng rằng niết-bàn thoát khỏi một bản ngã thường hằng, đức Phật sử dụng thuật ngữ "pháp" trong câu tuyên ngôn thứ ba. Niết-bàn là trạng thái siêu thế tích cực và không có bản ngã trong nó.3

Điểm quan trọng cần ghi nhận ở đây là thuật ngữ "dhamma" không được đức Phật sử dụng trong hai câu tuyên ngôn đầu có thể nhằm ngụ ý rằng mặc dù niết-bàn không phải là vô thường và khổ, nhưng nó hoàn toàn không thể mang nghĩa của một bản ngã hay thực thể thường hằng. Sự an lạc tịch tĩnh của niết-bàn được mô tả là siêu việt thời gian (akàliko) không có linh hồn hay không phải là một thực thể ngã (anatta). Thế thì, những điều có thể nói về ý nghĩa của câu tuyên ngôn thứ ba là niết-bàn cũng như các hiện tượng khác (dhamma) là vô ngã (anatta).

Trong kinh điển nguyên thủy, khái niệm "pháp" (dhamma) bao gồm hai phạm trù hiện tượng, đó là các sự vật duyên khởi tương thuộc hay hữu vi (saơ khatà, hành) và các sự vật phi duyên khởi tương thuộc hay vô vi (asaơ khatà, phi hành); và niết-bàn thuộc vào loại thứ hai.4 Chúng ta có thể tìm thấy bằng chứng cho lý giải trên trong kinh Tăng Chi (Aơguttara-Nikàya). Tại đây, đức Phật tuyên bố rằng sự thiền quán về bản chất của vô ngã hay tính không thực thể của mọi sự vật hiện tượng sẽ giúp ta nhổ lên được gốc rễ của bản ngã, và mặt khác, chứng đạt niết-bàn ngay trong đời sống hiện tại này. Đoạn kinh đó như sau: "với quán tưởng thiền, không còn một thực thể hay ngã tính tồn tại. Vị ấy sẽ chứng đạt giải thoát các thái độ "tôi là" và đạt được niết-bàn trong hiện đời."5

A-la-hán là người đã thoát khỏi ý niệm sai lầm về ngã hay các tư tưởng ngụy tạo trên ngã (magazati). Bậc giác ngộ là người đã thoát khỏi bốn cách biểu đạt dính dáng đến sự sai lầm về ngã, như, (i) tôi là niết-bàn, (ii) tôi đang ở trong niết-bàn, (iii) tôi khác với niết-bàn, và (iv) niết-bàn là của tôi.6 Điều này có nghĩa là niết-bàn không thể bị đồng hóa với khái niệm bản ngã hay một thực thể (atta //  àtman), và do đó, niết-bàn phải là vô ngã (anatta). Mối quan hệ mật thiết giữa niết-bàn và vô ngã được trình bày rõ nét trong một đoạn kinh Trung Bộ sau đây:

Ở đây, một vị A-la-hán đã diệt trừ toàn bộ các lậu hoặc của tâm, đã sống trọn vẹn đời sống thánh, đã làm hoàn tất những gì cần làm, đã đặt gánh nặng xuống, đã chứng đạt được mục đích, đã tiêu diệt hết các trói buộc của tái hiện hữu bằng trí tuệ . . . Vị A-la-hán biết rõ rằng niết-bàn là niết-bàn. Với tuệ tri này, vị A-la-hán không nghĩ đến niết-bàn, không nghĩ về mình trong niết-bàn hay chính niết-bàn; cũng không nghĩ niết-bàn là của tôi, vị ấy cũng không tham đắm trong niết-bàn. Nguyên do là vị A-la-hán đã tuệ tri được bản chất của nó.7

Theo đoạn kinh này, cách thức quan niệm về niết-bàn làm cho vị A-la-hán khác và vượt lên trên người phàm kẻ tục (puthujjana). Nhờ vào trí tuệ chân chánh về niết-bàn như là niết-bàn vị A-la-hán "thật" sẽ không vướng mắc mình vào khái niệm niết-bàn cũng như niết-bàn như một thành quả chứng đạt được. Bậc giác ngộ không quan niệm niết-bàn là của mình hay bản thân mình trong niết-bàn hay chính là niết-bàn. Với tuệ tri đó, bậc giác ngộ thoát khỏi mọi chấp mắc ở đời, trong đó sự chấp mắc về niết-bàn chứng đắc được là một. Điều này cũng có nghĩa là "niết-bàn là vô ngã."

Nhờ sự tuệ tri về tính không thực thể (anatta) của năm nhóm nhân tính (pagazcakkhandha) và mọi sự vật hiện tượng (dhamma) trên thế gian này (loka), bậc giác ngộ nhận chân được rằng mình không thể bị đánh đồng với năm nhóm nhân tính hay bất kỳ cái gì kể cả bản thân niết-bàn. Đây không phải do vì bậc giác ngộ không còn đối tượng của tư duy hay không thể phân biệt được bản thân mình với cái khác và thế giới xung quanh. Trong trạng thái của niết-bàn do các giác quan và nhóm nhân tính vẫn còn hoạt động, bậc giác ngộ vẫn phải còn tiếp xúc với thế giới bên ngoài, vẫn phải còn cảm giác, ý niệm và nhận thức. Điều khác biệt là năm nhóm nhân tính trong bậc giác ngộ đã được chuyển hóa toàn diện thành trí tuệ như thật, trí tuệ như là về mọi sự vật hiện tượng. Tuy nhiên, không có sự khác biệt giữa bậc giác ngộ với một người phàm trong mối liên hệ với năm nhóm nhân tính (pagazca-kkhandha), bởi lẽ cả hai đều không có một thực thể ngã bất biến (anatta).

Sự khác biệt giữa người giác ngộ và người phàm là mặc dù không có một thực thể ngã bất biến, người phàm vẫn có khuynh hướng giả định về ý niệm của bản ngã hay đồng nhất hóa bản ngã với cái gọi là năm nhóm nhân tính tâm vật lý, trong khi người giác ngộ không nhìn thấy bản ngã trong năm nhóm nhân tính này. Như là kết quả của sự khác nhau về thái độ nhận thức bản chất của năm nhóm nhân tính, sự khác biệt đã xuất hiện giữa người giác ngộ và người phàm, là cách thức mà cả hai tiếp xúc và phản ứng về thế giới và với những khái niệm của tâm (dhamma). Kẻ phàm phu thường xem mình là bản ngã và mọi sự có một thực thể ngã (atta //  àtman). Sự chấp mắc từ đó đã xuất hiện dưới một trong ba hình thái đồng nhất hóa bản ngã hay ngộ nhận về bản ngã (sakkàya-diỉỉhi): "cái này là của tôi" (etaị mama), "cái này là tôi" (eso’ ham asmi) và "cái này là bản ngã của tôi" (eso me atta).8 "Tất cả đau khổ tồn tại" đều do thái độ ngộ nhận hay đánh đồng bản ngã này với năm nhóm nhân tính (pagazcakkhandha) mà người phàm thường mắc phải.

Bậc giác ngộ thì khác hẳn. Ba thái độ đồng hóa hay ngộ nhận về bản ngã đã được chuyển hóa thành ba thái độ vô ngã: "cái này không phải của tôi" (netaị mama), "cái này không phải là tôi" (neso’ham asmi) và "cái này không phải là bản ngã của tôi" (neso me atta).9 Điều cần ghi nhận là sự chứng đạt niết-bàn được hiểu là sự chấm dứt trọn vẹn ba thái độ đồng nhất bản ngã hay ngộ nhận về bản ngã, như đã trình bày bên trên. Trong niết-bàn, do đó, không còn bản ngã, không có bản ngã. Nói cách khác niết-bàn là vô ngã.

Lối giải thích này hoàn toàn phù hợp với đoạn mô tả về niết-bàn trong Cảm Hứng Ngữ 80: sự nhận chân được chân lý vô ngã hay không thực thể trong mọi vật là con đường chứng đạt niết-bàn, mặc dù chân lý này khó có thể nhận dạng ra.

Dù sao chăng nữa, phán đoán "niết-bàn là vô ngã" không bao giờ đồng nghĩa với phán đoán "vô ngã là niết-bàn." Một số nhà Phật học, do không nhận ra được sự khác nhau giữa vô ngã, bản chất của sự vật, với niết-bàn, trạng thái an lạc do quán chiếu vô ngã mà có nên đã đánh đồng vô ngã với niết-bàn, vô ngã là niết-bàn. Nghĩa là họ đã đánh đồng phương pháp tu tập để đạt được niết-bàn (vô ngã) với bản thân của niết-bàn. Mặc dù bản chất của niết-bàn là vô ngã, nhưng vô ngã không thể bị đồng hóa với bản chất của niết-bàn. Phán đoán "vô ngã là niết-bàn" thực ra chỉ là kết quả của sự sai lầm trong việc đồng hóa một đặc tính của niết-bàn với bản thân của tổng thể niết-bàn. Sai lầm này về mặt logic cũng không hơn các phán đoán vô lý "tất cả ai đầu tròn áo vuông đều là thầy tu Phật giáo," do đánh đồng một đặc tính của thầy tu Phật giáo (cạo đầu tròn và mặc áo phương bào (áo vuông)) với tổng thể con người thầy tu Phật giáo. Ngoài đầu tròn áo vuông như yêu cầu về mặt hình thức, tu sĩ Phật giáo phải hơn bao giờ hết dấn thân vào con đường thực nghiệm tâm linh, trau giồi đời sống đạo đức, tu tập thiền định và phát triển trí tuệ để diệt trừ các dòng chảy lậu hoặc của tâm. Tương tự, câu tuyên bố của đức Phật "tất cả pháp là vô ngã" (sabbe dhammaanattà) chỉ có nghĩa không có một thực tại hay thực thể ngã trong mọi sự vật hiện tượng, trong đó, niết-bàn là một. Nó hoàn toàn không có nghĩa cho rằng vô ngã là niết-bàn. Bởi lẽ trên thế gian này có vô lượng vô số sự vật (nói đúng hơn toàn thể sự vật) vốn là vô ngã nhưng không được niết-bàn, không có niết-bàn và không phải là niết-bàn. Vô ngã là thuộc tính của mọi hiện hữu và sự vật. Niết-bàn không phải là sự vật mà là một trạng thái vắng mặt trọn vẹn dòng chảy lậu hoặc của tâm. Cho vô ngã là niết-bàn chẳng khác nào cho rằng tất cả các sự vật là niết-bàn, hay nói khác hơn đánh đồng niết-bàn với các sự vật vô ngã.

Nói tóm lại, niết-bàn là vô ngã. Mặc dù sự an lạc của niết-bàn do chấm dứt toàn bộ dòng chảy lậu hoặc và khối đau khổ, là siêu vượt khỏi thời gian, nhưng không vì thế mà niết-bàn được đồng hóa với thường và ngã. Kế đến, tuệ tri về bản chất vô ngã của các sự vật là một cách, một con đường giúp ta nhận chân được niết-bàn trong đời sống hiện tại. Tuy nhiên sẽ là một sai lầm nếu ta đánh đồng vô ngã với niết-bàn, mặc dù niết-bàn là vô ngã.

Chú thích:

1. S. I. 125, S. IV. 371-2; M. I. 508-9; Dhp. 202-4, Ud. 10; Thag. 35.

2. Dhp. 277-9; A. I. 286; S. III. 133.

3. Nàrada Thera, The Buddha and His Teachings. (Singapore: 1973), p. 225: Dhamma can be applied to both conditioned and unconditioned things and states. It embraces both conditioned and unconditioned things including nibbàna. In order to show that even nibbàna is free from a permanent soul the Buddha used the term dhamma in the third verse. Nibbàna is a positive supramundane state and is without a soul.

4. A. II. 34; S. IV. 359-373.

5. A. IV. 353: anattasagagaì asmim ànasamuggh àtaị p àpu?#224;ti diỉ ỉ h eva dhamme nibbànaị .

6. M. I. 4.

7. M. I. 4: Yopi so bhikkhave bhikkhu arahaị khìàsavo vusitavà katakara?#236;yo ohitabhàro anuppattasadattho parikkhì abhavasaị yojano sammappagagà  vimutto, so pi . . . nibbànaị nibbànato abhijànàti, nibbànaị nibbànato abhigagàya nibbànaị na magagaati, nibbànasmiị na magagaati, nibbànato na magagàti, nibbànaị meti na magagàti, nibbànaị nàbhinandati; taị kissa hetu: parigagàtaị tassàti vadàmi.

8. S. IV. 2ff.

9. S. IV. 2ff.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
05/12/2021(Xem: 6205)
Chấp hai tay cúi đầu miệng niệm Phật A Di Đà chào chúc thật cao sâu Khỏe sáng suốt cùng chân lý nhiệm mầu Được trường thọ thăng hoa trong cuộc sống… Sống trong một thế giới vô thường biến đỗi, với đầy sự nhiễu nhương, tang thương, chết chóc, do thiên tai, dịch bệnh, chiến tranh, xảy ra trước mắt hằng ngày, gây lắm khổ đau, điển hình như Covid-19 (với đầy ác khí) như hiện nay, cũng khiến cho nhiều người lo sợ, khủng hoảng và thức tĩnh. Thấy rõ được rằng, mọi cơ sở vật chất, với nhiều năm đầu tư xây dựng, chỉ một cơn động đất, sóng thần hay bão lửa, lũ lụt nổi lên, sẽ tan tành theo mây khói. Một đời người với biết bao nhiêu lo toan, tính toán, hy vọng, ước mơ, một cơn đại dịch xảy ra, đành âm thầm ra đi trong tức tưởi, không một người thân đưa tiễn, tất cả tài sản bao năm gầy dựng, phải bỏ lại, không mang theo được gì!
30/11/2021(Xem: 5157)
Người Phật tử chân chánh hiểu rằng Chân Lý Tuyệt Đối là không thể nghĩ bàn. Tất cả các pháp môn đều chỉ là phương tiện giúp ta đạt tới cái không nghĩ bàn đó. Trong khi tu hành, ta có thể chọn vào cửa Hữu (Tịnh độ) hay vào cửa Không (Thiền), tùy căn cơ và sở thích. Nếu ai cố chấp pháp mình là đúng, chê bai người khác sai – là chứng tỏ mình chưa hiểu chân lý là thứ gì. Vả lại, thuốc không có quí tiện: thuốc trị được bịnh là thuốc hay. Đại khái, Thiền là pháp môn cao thượng và thẳng tắt dành cho bậc Thượng căn, trong khi Tịnh độ dễ hiểu dễ hành và dễ chứng, cho nên cả Ba căn đều có thể tu được. Đức Bổn Sư Thích-Ca giảng pháp nầy chủ ý nhằm cứu độ chúng sanh thời Mạt pháp. Như trong kinh Đại Tập, Ngài nói: “Thời Mạt pháp, ức ức người tu hành ít có kẻ nào đắc đạo, chỉ nương nhờ pháp môn Tịnh độ mà thoát khỏi luân hồì.” Cho nên thời nầy người tu Tịnh độ thành công được vãng sanh vô số (có thoại chứng rành rành), trong khi Thiền sư đắc đạo (như khi xưa) có thể nói rất hiếm, đếm
05/11/2021(Xem: 17332)
Đại sư Ấn Quang nói: “Kẻ câu nệ vào Tích môn thì bảo: “Trong tất cả pháp, mỗi pháp đều sai khác”. Kẻ khéo nhìn sẽ nói: “Trong tất cả pháp, pháp pháp đều viên thông”. Như bốn cửa thành, gần cửa nào thời vào cửa ấy. Cửa tuy khác nhau, nhưng đều đưa vào một thành chẳng khác. Nếu biết ý này thì chẳng phải chỉ có những giáo lý rất sâu do chư Phật, chư Tổ đã nói mới là pháp để quy chân đạt bổn, minh tâm kiến tánh, mà hết thảy Ấm, Nhập, Xứ, Giới, Đại v.v... trong khắp thế gian cũng đều là pháp để quy chân đạt bổn, minh tâm kiến tánh! Mỗi một pháp cũng chính là chân, là bổn, là tâm, là tánh!”. Tập Lời Vàng (Gia Ngôn Lục) dù là toát yếu nhưng với một kẻ hậu học như tôi thì lại tự thấy mỗi mỗi câu nói của Đại Sư Ấn Quang đều bao hàm ý pháp, chỗ nào cũng cần phải học, chẳng thể đọc lướt qua nên phải dịch thuật đến ngàn ngàn câu kệ, hầu mong chuyển đạt lời lời ân cần tha thiết của Đại sư; chỉ để lại phần nói về các chính biến tại Trung Hoa, và những câu nói lập lại từ các bài giảng của Đại sư q
20/10/2021(Xem: 6350)
Kính số 52 Bát Thành có đoạn viết về sơ thiền một cách ngắn gọn như sau: “Ở đây, này Gia chủ, Tỷ-kheo ly dục, ly bất thiện pháp chứng và trú Thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, có tầm, có tứ” (Trung Bộ Kinh, 52 Kinh Bát Thành). Kinh văn quá súc tích về sơ thiền như vậy khó có thể thấm thấu được thâm ý của Thế Tôn, tạo ra nhiều kiến giải của các bút giả, hành giả, học giả vv, khiến quý Phật tử hoang mang. Sau đây là một trong những kiến giải của một hành giả được một đạo hữu chuyển cho Tâm Tịnh về sơ thiền: Hai bài kinh: Kinh Sa Môn Quả và Tiểu Kinh Dụ Lõi Cây, Phật dạy: “Tỳ kheo ly dục, ly bất thiện pháp, chứng và trú Thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh vời tầm với tứ (có giác có quán). Muốn đạt được cảnh giới này vị này phải ly dục nơi các căn, tức là thanh lọc nhiễm ô nơi các căn. Để ly dục, vị này học hạnh viễn ly, hạnh Tỷ kheo (hạnh xuất gia) theo lời dạy trong kinh: “Ở đây có người vì lòng tin xuất gia từ bỏ gia đình, sống không gia đình
03/09/2021(Xem: 40076)
(Thắp đèn đốt hương trầm xong, đứng ngay ngắn chắp tay để ngang ngực mật niệm) 1. TỊNH PHÁP GIỚI CHƠN NGÔN: Án, lam xóa ha. (3 lần) 2. TỊNH KHẨU NGHIỆP CHƠN NGÔN: Tu rị, Tu rị, Ma ha tu rị, Tu tu rị, Ta bà ha. (3 lần) 3. TỊNH TAM NGHIỆP CHƠN NGÔN Án, Ta phạ bà phạ thuật đà ta phạ, đạt ma ta phạ, bà phạ thuật độ hám. (3 lần) 4. PHỔ CÚNG DƯỜNG CHƠN NGÔN: Án, Nga nga nẵng tam bà, phạ phiệt nhựt ra hồng (3 lần) 5. AN THỔ ĐỊA CHƠN NGÔN: Nam mô tam mãn đa một đà nẫm, Án, độ rô độ rô, địa vỷ ta bà ha (3 lần) Hộ pháp, Vĩ Đà thị chứng minh Thân trụ Phật tiền Tâm Tư nguyện Tưởng bằng bí chú đắc oan linh Hà chơn bất thức trì niệm Luật Thiên kinh vạn quyển vô nhất tự Nẳng mô tô tất đế, đa rị, đa rị, mạn đà, mạn đà, ta bà ha (3 lần)
03/09/2021(Xem: 11357)
Pháp hành Trì để vượt thoát Đại Nạn Covid-19
03/09/2021(Xem: 10390)
5.1). Đệ tử tên là: Một lòng quy kính Đức Phật A Di Đà, Thế giới Cực Lạc, Nguyện lấy hào quang, Trong sạch soi cho, Lấy thệ từ bi, Mà nhiếp thọ cho, Con nay chánh niệm, Niệm hiệu Như Lai, Vì đạo Bồ Đề, Cầu sanh Tịnh Độ. Phật xưa có thệ: “Nếu có chúng sinh, Muốn sinh về nước ta, Hết lòng tín nguyện, Cho đến mười niệm, Nếu chẳng đặng sinh, Chẳng thành Chánh Giác”. Do vì nhân duyên, Niệm hiệu Phật nầy, Được vào trong bể, Đại thệ Như Lai, Nhờ sức Từ Bi, Các tội tiêu diệt, Căn lành tăng trưởng, Khi mạng gần chung, Biết trước giờ chết, Thân không bệnh khổ, Tâm không tham luyến, Ý không điên đảo, Như vào Thiền định. Phật và Thánh Chúng, Tay nâng kim đài, Cùng đến tiếp dẫn, Trong khoảng một niệm, Sinh về Cực Lạc, Sen nở thấy Phật, Liền nghe Phật thừa, Chóng mở Phật tuệ, Khắp độ chúng sanh, Trọn Bồ Đề nguyện.
01/08/2021(Xem: 13037)
Chuông mõ gia trì là 2 pháp khí rất quan trọng trong nghi thức hành trì và tu tập mỗi ngày đối với người đệ tử Phật. Tiếng chuông, tiếng mõ rất là quen thuộc gần gũi trong sự hành trì tu tập hằng ngày của người Phật tử, nhất là Phật tử theo truyền thống Bắc tông. Phật tử theo truyền thống Nam tông trước kia thì không có gõ mõ, thỉnh chuông khi tụng kinh, nhưng bây giờ đã có chuông rồi, còn bên Bắc tông thì chuông mõ đã có từ ngàn xưa.
30/08/2020(Xem: 7748)
Ngày xưa, sau khi Đức Phật chứng Đạo, tại sao Ngài không mở trường Thiền để có thể dạy hàng ngàn, hàng vạn người cùng một lúc? Ngược lại, Ngài chỉ vân du từ nơi này sang nơi khác, tùy căn cơ khai thị cho những người hữu duyên Ngài gặp trên đường? Đơn giản vì trình độ, hoàn cảnh và cơ địa mỗi người một khác, nên đức Phật ngay nơi mỗi người khai thị pháp mà người đó đang trải nghiệm, và vì vậy chỉ người đó mới thật sự biết đức Phật đang chỉ dạy điều gì, người khác có nghe hay đọc lại kinh điển tường thuật thì cũng chỉ để tham khảo hay suy luận mà thôi.
17/07/2020(Xem: 7139)
Trong kinh có ghi lại lời cảnh giác của Đức Phật, Ngài đã từngnói rằng: “Phàm tất cả chúng sinh còn lên xuống trong ba cõi, lăn lộn trong sáu đường thì không một loài nào được hoàn toàn trong sạch, không một giống nào dứt hết tội lỗi sai lầm”.Lời nói của bậc toàn giác thật chính xác. Chúng sinh còn trầm luân trong ba cõi, sáu đường, là còn gây nhiều nghiệp xấu. Cho nên, dù chúng ta là ai của những đời trước, kiếp trước? Kiếp này, tuy chung sống ở cõi Ta-Bà nhưng mỗi người ôm vào đời một biệt nghiệp riêng, do tội lỗi hay phước báo đã gây ra trong đời trước. Nhưng nói chung,dù ở trong bất cứ hoàn cảnh nào thì con người cũng đã từngbị vô minh che mờ lý trí xúi quẩy tạo ra muôn ngàn tội lỗi, và tội lỗi đó cứ chồng chất mãi theo thời gian.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]