Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Lời Dạy Về Những Lợi Ích Của Bánh Xe Cầu Nguyện

21/10/201017:43(Xem: 4335)
Lời Dạy Về Những Lợi Ích Của Bánh Xe Cầu Nguyện

LỜI DẠY VỀ NHỮNG LỢI ÍCH CỦA BÁNH XE CẦU NGUYỆN[1]

Lạt ma Zopa Rinpoche - Liên Hoa chuyển ngữ
Giảng dạy tại Xứ Đức Phật Dược Sư[2] tháng Sáu năm 1994

Ở Solu Kumbu mọi người lớn tuổi đều quay Bánh Xe Cầu nguyện mỗi ngày. Khi họ ở nhà vào buổi sáng và buổi tối trước khi đi ngủ, họ cầm một mala (chuỗi hột) trong bàn tay trái, một Bánh Xe Cầu nguyện trong bàn tay phải, và trì tụng thần chú OM MANI PADME HUNG. Và khi họ đi vòng quanh, họ liên tục quay Bánh Xe Cầu nguyện và tụng OM MANI PADME HUNG.

Tôi thường suy nghĩ: “Làm thế nào việc quay Bánh Xe Cầu nguyện trở thành sự thực hành Pháp?” Trong đầu tôi có câu hỏi này chỉ vì tôi không biết về những lợi ích của sự thực hành. Tôi không hiểu một thực hành quan trọng là gì và lợi ích ra sao trong phạm vi tịnh hoá. Chỉ cần chạm vào và quay tròn một Bánh Xe Cầu nguyện là đủ đem lại sự tinh hoá phi thường và sự tích tập công đức khó có thể tin được.

Ở Lawudo tôi đã tìm thấy nhiều bản viết tay cổ, những bản văn viết tay của Lạt ma Lawudo. Lạt ma Lawudo trước đây, được gọi là Lạt ma (Kunsang) Yeshe; và một vài người cho rằng ngài có liên quan với đời tôi. Lạt ma Lawudo không có tu viện, nhưng sống trong ẩn thất tại một hang động. Ngài dành rất nhiều nỗ lực để sao chép những bản văn về việc thực hành những Bổn Tôn Kim Cương thừa khác nhau. Vào thời đó những bản văn như thế rất hiếm có, vì thế ngài đã chép tay nhiều bản văn.

Do chúng được lưu giữ trong hang động ẩm thấp, các văn bản bị ẩm ướt, và tôi thường phơi chúng dưới ánh nắng. Nếu bạn không phơi chúng, các bản văn sẽ bị nấm và sau đó bị sâu trùng huỷ hoại. Những con sâu tái sinh trong những bản văn và tạo thành một vài lỗ thủng đáng kể trong đó.

Một hôm khi đang phơi những bản văn, tôi thấy một bản cổ văn có tựa đề “Mani Kabum.” Nó gồm có toàn bộ lịch sử tiến hoá của thế giới, kể cả việc Giáo Pháp xuất hiện trong thế giới ra sao và làm thế nào chúng sinh ở Tây Tạng, Xứ Tuyết, trở thành những đối tượng đặc biệt cho sự điều phục của Đức Phật Bi mẫn Avalokiteshvara (Quán Thế Âm.) Đức Amitabha (A Di Đà) và Đức Phật Bi mẫn thì đồng nhất trong bản chất và liên kết với nhau rất chặt chẽ. Và trong hơn hai mươi năm, Đức Phật Bi mẫn và Đức Amitabha đã dẫn dắt không chỉ xứ Tây Tạng và Trung Hoa, mà cả những quốc gia Tây phương, đặc biệt bằng cách truyền bá Giáo Pháp.

Trong Mani Kabum tôi tìm thấy một giáo lý ngắn về của thực hành bánh xe cầu nguyện và ít hàng về cách quán tưởng và thiền định khi bạn thực hành. ỞÙ Tây Tạng, và bất kỳ nơi đâu có giáo lý Đại thừa của Kim Cương thừa, việc thực hành Bánh Xe Cầu nguyện đãphổ biến. Đức Nagarjuna (Long Thọ) đã ban thực hành Dakini3 Đầu Sư tử, Ngài ban nó cho Đức Padmasambhava (Liên Hoa Sanh), sau đó vị này đem nó vào Tây Tạng.

Sau khi đọc quyển sách này, tôi phát triển niềm tin rằng thực hành không phải là điều vô nghĩa, mà có những điểm quy chiếu có giá trị và rất quý báu, đầy ý nghĩa. Từ bản văn này, tôi có một vài ý niệm về việc thực hành Bánh Xe Cầu nguyện có tác động mạnh mẽ ra sao trong việc tịnh hóa tâm thức và tích tập công đức bao la.

Năm 1987, khi tôi đang ở Viện Chenrezig tại Úc, tôi để ý rằng địa điểm này trở nên an tĩnh kỳ lạ. Nó thanh tịnh tới nỗi bạn muốn được ở đó, sống ở đó. Viện Chenrezig không giống như trước đây, và tôi tự hỏi tại sao nó thay đổi. Vào lúc đó, Geshe Lạt ma Konchog đang ở đó. Geshe-la đã thực hiện rất nhiều thực hành Pháp. Sau khi trốn thoát khỏi Tây Tạng, ngài nhập thất nhiều năm trong những hang động của Milapera ở rặng Hy Mã Lạp Sơn. Ngài đã thực hành 2000 Nyung-nay, sự nhập thất hai ngày mãnh liệt về Đức Phật Bi mẫn, nó đòi hỏi phải giữ tám Giới luật Đại thừa và thực hành nhiều sự lễ dạy và thần chú. Geshe Lạt ma Konchog đã tu hành tâm thức rất tốt đẹp trong con đường, vì thế tôi cho là sự an tịnh của viện Chenrezig có thể là bởi Bồ Đề tâm của ngài.

Tuy nhiên, một hôm gần kết thúc những ngày tôi ở đó, một tư tưởng xuất hiện trong tâm tôi: “Ồ, sự biến đổi có lẽ là nhờ Bánh Xe Cầu nguyện – mà trước đây nó không có ở đó.” Bánh Xe Cầu nguyện ở nơi đó nhỏ hơn cái ở đây, tại Xứ Đức Phật Dược Sư này, nhưng nó cũng chứa nhiều thần chú trên vi-phim và được chế tạo rất đẹp. Một thời gian sau, khi tôi ở Brazil theo lời mời của một trung tâm thiền định ở đó, một học viên tặng tôi một cuốn sách do một trong những đệ tử chính của Tarthang Tulku biên soạn về những kinh nghiệm của ông khi ông đảm nhiệm việc xây dựng những stupa (tháp) và Bánh Xe Cầu nguyện trong các trung tâm của Tarthang Tulku. Trong một đoạn ông nói rằng sau khi một Bánh Xe Cầu nguyện được xây dựng xong, vùng đất hoàn toàn được chuyển hoá, trở nên hết sức an bình, hỉ lạc và hấp dẫn tâm thức.

Điều này đã xác nhận niềm tin của tôi, dựa trên lý lẽ của tôi là Viện Chenrezig đã trở nên an bình là bởi Bánh Xe Cầu nguyện mới của nó. Một vài người khác kinh nghiệm một tác dụng tương tự từ việc xây dựng Bánh Xe Cầu nguyện đã trợ giúp cho việc củng cố niềm tin của tôi.

CÁC LOẠI BÁNH XE CẦU NGUYỆN

Có những Bánh Xe Cầu nguyện đất, nước, lửa và gió. Một trong những lợi ích của Bánh Xe Cầu nguyện là nó hiện thân mọi hành động của thập phương chư Phật và Bồ Tát. Để làm lợi lạc chúng sinh, chư Phật và Bồ Tát hiển lộ trong Bánh Xe Cầu nguyện để tịnh hoá mọi nghiệp tiêu cực và những che chướng của chúng ta, và làm cho ta thể nhập những chứng ngộ của con đường đưa tới giác ngộ. Tất cả chúng sinh (không chỉ có con người mà cả những côn trùng nữa) trong miền nơi Bánh Xe Cầu nguyện được xây dựng đều được cứu thoát khỏi việc tái sinh trong các cõi thấp; họ thọ nhận một thân tướng chư thiên hay con người, hoặc được sinh trong một cõi tịnh độ của Đức Phật.

Nếu bạn có một Bánh Xe Cầu nguyện trong nhà bạn, căn nhà của bạn sẽ giống như Potala, cõi tịnh độ của Đức Phật Bi mẫn. Nếu bạn có một bánh xe cầu nguyện ở bên cạnh khi bạn chết, bạn không cần tới pháp powa.4 Việc có Bánh Xe Cầu nguyện tự nó trở thành một phương pháp để chuyển di tâm thức bạn tới một cõi tịnh độ. Chỉ nghĩ tưởng tới một Bánh Xe Cầu nguyện là đã trợ giúp cho một người hấp hối phóng tâm thức của họ lên kinh mạch trung ương và thoát ra đỉnh đầu để tái sinh trong cõi tịnh độ của Đức Phật Amitabha và Đức Phật Bi mẫn. Chỉ chạm vào một Bánh Xe Cầu nguyện là đã đem lại một sự tịnh hoá to lớn những nghiệp tiêu cực và các che chướng. Việc quay một Bánh Xe Cầu nguyện có chứa 100 triệu thần chú OM MANI PADME HUNG tích tập công đức tương tự như khi trì tụng 100 triệu thần chú này.

Bánh Xe Cầu nguyện ở đây, tại Xứ Đức Phật Dược Sư có chứa 11,8 tỉ thần chú, vì thế việc quay nó một lần thì tương tự như đã trì tụng số thần chú đó. Trong ít giây phút đó, bạn thực hiện rất nhiều sự tịnh hóa và tích tập mạnh mẽ; rất nhiều công đức. Việc quay Bánh xe Cầu nguyện một lần thì tương tự như tu hành nhập thất nhiều năm. Điều này được giải thích là một trong những lợi ích của Bánh Xe Cầu nguyện.

Với Bánh Xe Cầu nguyện nước, nước được ban phước khi chạm vào bánh xe. Khi dòng nước đó đổ vào một cái hồ hay đại dương, nó mang theo năng lực để tịnh hóa hàng tỉ thú vật và côn trùng sống trong đó.

Tôi đã có một ước nguyện mà gần đây trở nên mạnh mẽ hơn, đó là xây dựng một Bánh Xe Cầu nguyện trong đại dương. Bởi tôi được yêu cầu trợ giúp rất nhiều dự án Phật sự khác nên ý tưởng thực hiện một Bánh xe Cầu nguyện nước bị trì hỗn. Tuy nhiên, khi tôi ở một trung tâm tại Đài Loan mới đây, trong một cuộc trò chuyện về Bánh Xe Cầu nguyện, tôi đề cập tới ý tưởng này. Một trong những tín chủ là người đã nuôi gia đình bằng việc kinh doanh trong vài năm, rất hoan hỉ thực hiện một Bánh Xe Cầu nguyện vì thân phụ của anh đã khởi nghiệp kinh doanh bằng nghề buôn bán cá. Bởi gia đình thịnh vượng từ việc đánh bắt cá, anh ta cảm thấy gia đình mình đã mắc nợ loài cá rất nhiều, và anh đã dự định trong lòng là sẽ làm điều gì đó để đền đáp hay làm lợi ích cho loài cá.

Khi tôi nói tới ý tưởng Bánh xe Cầu nguyện nước, anh ta gần như la lên, và sau đó hỏi tôi: “Vì sao thầy bảo con xây dựng Bánh xe Cầu nguyện này?” Sau khi tôi giải thích các lý do, anh ta rất hoan hỉ với việc xây dựng một Bánh Xe Cầu nguyện nước. Tôi nói tới ý tưởng xây nó trong vùng biển gần Đài Loan, nhưng anh ta cho rằng xây nó ở Hawaii là nơi nước Thái Bình Dương sẽ chạm vào Bánh Xe Cầu nguyện và mang lại lợi ích to lớn.

Một Bánh Xe Cầu nguyện lửa được quay nhờ hơi nóng của một cây nến hay ánh sáng điện. Ánh sáng phát ra từ Bánh Xe Cầu nguyện rồi tịnh hóa những nghiệp tiêu cực của các sinh loài mà nó chạm vào. Với một Bánh Xe Cầu nguyện quay bằng gió thì cũng thế. Gió chạm vào Bánh Xe Cầu nguyện được ban phước bởi năng lực của bánh xe này và sau đó có năng lực tịnh hóa các nghiệp tiêu cực và những che chướng của bất kỳ chúng sinh nào nó xúc chạm.

Bởi Bánh Xe Cầu nguyện rất hữu hiệu trong việc tịnh hóa những nghiệp tiêu cực nên tôi nghĩ rằng việc sử dụng nó là một ý tưởng hết sức tốt đẹp.

THỰC HÀNH QUÁN TƯỞNG

Sau khi tôi giảng về những lợi ích của nó vài năm trước ở Kopan, Lorna và Terry đã tình nguyện nhận chế tạo Bánh Xe Cầu nguyện để sẵn sàng cho những học viên khác muốn thực hành. Thật hào phóng, họ làm nhiều Bánh Xe Cầu nguyện nhỏ và tặng chúng cho nhiều học viên, kể cả tôi.

Sau đó tôi tặng Bánh Xe Cầu nguyện của tôi cho Đức Vua Nepal. Khi tôi nói với ngài là Bánh xe Cầu nguyện sẽ trợ giúp ta khi chết, ngài thình lình trở nên dè dặt. Tôi cho là đó không phải là vấn đề để trò chuyện một cách bình thường với ngài. Ngài hỏi: “Tôi có phải giữ cái này không?” Vì thế tôi nói: “Có.”

Bánh Xe Cầu nguyện cũng được nói là sẽ ngăn chặn những họa hại từ các tinh linh và chúng sinh khác và cũng chặn đứng bệnh tật, vì thế tôi có ý tưởng sử dụng chúng để chữa bệnh. Những người bị mắc những bệnh như AIDS hay ung thư, dù họ có hiểu về Pháp hay không, có thề sử dụng Bánh Xe Cầu nguyện cho việc thiền định và chữa bệnh. Ví dụ như người bệnh có thể tới đây, Xứ Đức Phật Dược Sư này vài giờ mỗi ngày để quay Bánh Xe Cầu nguyện và thực hành quán tưởng.

Có hai loại quán tưởng. Với loại thứ nhất, bạn quán tưởng những tia sáng xuất phát từ các thần chú trong Bánh Xe Cầu nguyện, chiếu sáng bạn và tịnh hóa bạn về mọi bệnh tật và những nguyên nhân bệnh tật của bạn, những tư tưởng tiêu cực và những dấu vết của những niệm tưởng này để lại trên dòng tương tục của tâm thức bạn. Sau đó bạn quán tưởng ánh sáng chiếu rọi tất cả chúng sinh và tịnh hóa mọi đau khổ của họ, cũng như những nghiệp tiêu cực và các che chướng của họ.

Với sự quán tưởng thứ hai, những tia sáng được phóng ra từ các thần chú và, giống như một chân không hút bụi đất lên, chúng móc lên mọi bệnh tật và những họa hại của tinh linh, và tối quan trọng, nguyên nhân của bệnh tật, những nghiệp tiêu cực và các che chướng. Tất cả những thứ này được hấp thu và rút vào Bánh Xe Cầu nguyện. Trong khi trì tụng năm hay mười chuỗi thần chú, bạn quán tưởng bản thân bạn được tịnh hóa theo cách này.

Vào lúc kết thúc hãy tụng một vài chuỗi trong khi quán tưởng rằng các tia sáng phát ra từ Bánh Xe Cầu nguyện tịnh hóa mọi đau khổ và che chướng của chúng sinh trong sáu cõi. Những tia sáng này hấp thu vào Bánh xe Cầu nguyện và trở thành Đức Phật Bi Mẫn (bạn cũng có thể đi nhiễu với cũng những quán tưởng đó.)

Nếu có người bị bệnh AIDS, ung thư hay một vài bệnh tật khác thiền định như thế và mỗi ngày, trong vài giờ càng nhiều càng tốt, thì chắc chắn là có kết quả nào đó. Tôi biệt khá nhiều người hoàn toàn khỏi bệnh ung thư giai đoạn cuối nhờ việc thiền định. Cho dù những người có thể không hiểu biết về Giáo Pháp, về sự tái sinh hay nghiệp, nhưng bởi họ quan tâm tới việc có một thân thể khỏe mạnh và một tâm hồn lành mạnh, họ nên sử dụng phương pháp chữa bệnh cực kỳ hữu hiệu và đầy ý nghĩa này.

Tôi muốn nhấn mạnh rằng mọi Bánh Xe Cầu nguyện lớn và nhỏ đều có thể được người bệnh sử dụng để chữa trị. Thục hành này rất thực tiễn và hết sức ý nghĩa. Hai năm trước, tôi yêu cầu Jim Mc Cann xây dựng Bánh Xe Cầu nguyện ở đây, tại Xứ Đức Phật Dược Sư, không chỉ để mọi người thực hành mà còn là để ban phước cho xứ sở. Nó giúp cho mọi côn trùng và thú vật cũng như con người. Jim và vợ của anh là Sandra đã để nhiều thì giờ và nỗ lực vào việc thực hiện Bánh Xe Cầu nguyện tuyệt đẹp này, mặc dù tôi quả quyết là nhiều người khác đã trợ giúp họ. Tận đáy lòng, tôi muốn cảm ơn họ rất nhiều về sự thành tựu của họ. Một Bánh Xe Cầu nguyện làm cho địa điểm trở nên hết sức linh thiêng và quý báu, giống như một cõi tịnh độ./.

Lạt Ma Zopa Rinpoche

Nguyên tác: “Advice on the Benefits of Prayer Wheels”
www.dharma-haven.org/tibetan/benefits-of-prayer-wheels.html
Bản dịch Việt ngữ: Liên Hoa

Chú thích:
1. Bánh Xe Cầu nguyện: những Bản sao thần chú “Om Mani Padme Hung,” càng nhiều càng tốt, được in trên giấy lụa rất mỏng (hay ngày nay in trên vi phim,) được quấn quanh một trục quay và được bao phủ bằng một ống hình trục bảo vệ. Những Bánh Xe Cầu nguyện được chế tạo để quay bằng tay hay gió, nước, hay năng lực của lửa.

2. Xứ Đức Phật Dược Sư: trung tâm giảng dạy, thực hành và nhập thất gần Santa Cruz, California.

3. Dakini; vị nữ trì giữ trí tuệ. Những bạn đồng hành của chư Phật và các thiền giả, có thể truyền dạy sự thấu suốt đặc biệt khi người nhận ở trong trạng thái dễ lĩnh hội một cách đúng đắn và thời gian cùng nơi chốn truyền dạy thích hợp.

4. powa: một thực hành thiền định đặt nền trên việc chuyển di tâm thức ra khỏi thân xác. Powa có thể được sử dụng để chuyển di tâm thức tới một cõi tịnh độ vào lúc chết.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
10/07/2015(Xem: 5845)
Hầu hết các kinh luận Đại thừa đa số đều thuyết minh tổng quát về pháp môn niệm Phật. Trên thực tế hình thành pháp môn Tịnh Độ phổ biến từ tư tưởng các bộ kinh căn bản như Kinh Bát Chu Tam Muội (Ban Châu Tam Muội), Kinh A Di Đà, Kinh Quán Vô Lượng Thọ, Kinh Vô Lượng Thọ, Kinh Hoa Nghiêm và Kinh Thủ Lăng Nghiêm và nhiều bộ kinh khác. Pháp niệm Phật đến với quần chúng ước tính khoảng mười tám thế kỷ qua (Tính từ khi Kinh Ban Châu Tam Muội được dịch tại Trung quốc năm 179 s.dl.), và pháp môn Tịnh Độ được hình thành và phát triển thời tổ sư Huệ Viễn (334-416 TL) cho đến ngày nay. Thực tế lịch sử đã chứng minh pháp môn niệm Phật đã đóng một vai trò quan trọng trong lĩnh vực truyền bá Phật giáo Đại thừa. Y cứ từ kinh điển liên quan Pháp môn niệm Phật, trên căn bản thì thiền sư Tông Mật (784-841), tổ thứ năm của tông Hoa Nghiêm đã phân thành bốn phương pháp niệm Phật. Đó là trì danh niệm Phật, quán tượng niệm Phật, quán tưởng niệm Phật và thật tướng niệm Phật. Từ thời đại Tổ Liên Trì về sau
25/06/2015(Xem: 6014)
Trong Phật pháp có nhiều pháp môn tu học học và hướng đến giác ngộ giải thoát. Giác ngộ là thấy rõ đạo lý duyên khởi của nhân sanh và vũ trụ. Giải thoát có nghĩa là dứt sự khổ đau luân hồi do tâm thức chấp thật ngã và thật pháp tạo vọng nghiệp. Chung quy tu tập theo Phật giáo nhận thức rõ giải thoát là từ tâm này, luân hồi sanh tử cũng do tâm này, vì tâm này là chủ nhân của muôn pháp. Kinh Tâm Địa Quán có dạy: “Tâm sanh thì pháp sanh,
07/05/2015(Xem: 6849)
Các con ơi! Ta vô cùng hoan hỷ đón nhận tất cả các con về thế giới Cực Lạc trang nghiêm thù thắng mà ta đã thiết lập để cho các con trở về tịnh dưỡng. Ta thật yên tâm khi các con về mái nhà chung tình này để được nghe pháp, tu tập mà không bị quấy nhiễu bởi lục trần nhiễm ô của thế giới Ta Bà. Tuy nhiên, các con ạ! Các con thấy đó. Đa số các con đều được hóa sanh ở những phẩm vị thấp, Trung phẩm và Hạ phẩm.
28/04/2015(Xem: 5866)
Người phương Tây và dân trí thức trong thời mạt pháp hầu như không tin pháp môn niệm phật cầu vãng sanh Cực Lạc. Họ không tin vì hai lý do. Thứ nhất họ cho rằng Phật A DI ĐÀ và Tịnh độ Cực Lạc là huyền thuyết. Thứ hai là Kinh sách Đại Thừa Phật Giáo không đáng tin cậy vì thường hiểu lầm là Đại thừa ra đời từ cuộc Tập Kết Kinh điển thứ thứ Tư, hơn 400 năm sau khi Đức Phật nhập niết bàn, cách thời Phật Thích Ca quá xa khiến cho kinh sách đại thừa có phần sai lệch và khó có thể kiểm chứng. Sau đây là những chân lý chứng minh kinh điển đại thừa Phật giáo và Pháp môn niệm Phật nói riêng là hoàn toàn chân thực, không hư dối. Những chân lý này được kiến giải một cách khách quan dựa trên những sự kiện lịch sử Phật giáo và những lời thuyết giảng của Đức Phật ghi lại trong Kinh điển Đại thừa xảy ra đúng với những sự kiện lịch sử sau thời Đức Phật và phù hợp với những thành tựu khoa học ngày nay.
28/04/2015(Xem: 6577)
Một đời giáo hóa của Đức Phật Thích Ca được khái quát hóa trong ngũ thời bát giáo mà theo ngài Trí Giả, Tổ sư sáng lập ra Tông Thiên Thai đã sử dụng ngũ thời để phân định trình tự thuyết pháp của đức Phật; dùng “Bát giáo” để phân biệt pháp môn được thuyết và nghi thức thuyết pháp. Ngũ thời được chia trình tự như sau:
10/03/2015(Xem: 7975)
Trong diễn đàn này nhiều quý bạn hữu đã nói về niệm Phật A-Di-Đà bốn chữ hay sáu chữ. Theo tôi thì chúng ta đã học Mười hạnh Phổ-Hiền thì bình-đẳng kính chung không từ một ai, nhưng tin vào lời người ta nói thì phải có sự quán xét đúng hay sai. Đặc biệt với Phật pháp và giáo lý nhà Phật thì đòi hỏi phải thật nghiêm túc nếu không sai một ly đi vạn dặm, có khi mất hết cả công sức bao nhiêu năm tu hành bỏ ra mà không thành tựu, thậm chí còn sa hố là phỉ báng chính pháp, phát đi những điều không đúng về giáo lý của Phật.
23/01/2015(Xem: 7099)
Từ khi Phật giáo hòa nhập vào văn hóa nhân loại thì bắt đầu ý nghĩa đón xuân cổ truyền được mở rộng thành ý nghĩa đón Xuân Di Lặc. Từ đó, đón xuân trong quan niệm người Đông Á mang đậm bản sắc văn hóa Phật giáo và văn hóa nhân loại. Chúng ta vận dụng tính nhân bản đạo đức Phật giáo làm tô đẹp ý nghĩa mùa xuân cổ truyền và chuyển hóa những tập quán tiêu cực để quần chúng có thêm chánh kiến trong sinh hoạt đón xuân hằng năm.
23/01/2015(Xem: 6381)
Trong sinh hoạt hằng ngày của chúng ta thường thể hiện và vận dụng trăm pháp rất thực tế, nó là tổng hợp nội dung của hiện tượng tâm lý, những yếu tố cơ bản nhất vốn có trong con người, cũng do đây mà chúng ta có thể biết điều này và biết được điều khác. Chúng ta vì người mà ứng xử, hay hóa độ chúng sanh mà không hiểu hiện tượng tâm lý con người thì rất chướng ngại. Một trăm pháp này bao gồm trong pháp thế gian và pháp xuất thế gian, lộ trình tu học từ địa vị phàm phu đến quả vị thánh, là nền tảng cơ bản của người học Phật, cho nên mọi người cần phải học môn này.
23/01/2015(Xem: 7176)
Chúng ta nghiên cứu xuyên suốt tư tưởng Phật học nhận thức được rằng, có hai pháp môn cần phải tham cứu trước. Một là “Luật Tông” là căn bản nhất của tất cả các pháp môn. Các tông phái Phật học rất nhiều do giới luật mà tồn tại. Khi Đức Phật sắp nhập diệt, đã từng phó chúc cho A Nan rằng: “Sau khi Thế Tôn nhập diệt, các thầy hãy lấy giới luật làm thầy, nương vào giới luật mà tu hành để được giải thoát giác ngộ”. Đây là vấn đề Phật học thường đề cập, đó là điều chắc thật không cần biện giải nhiều lời. Hai là “Duy Thức”, thông đạt tất cả nguyên lý các pháp. Kinh Hoa Nghiêm dạy: “Tâm như người thợ vẽ,
23/01/2015(Xem: 6039)
Bản văn này giới thiệu ý nghĩa căn bản của Thiền và niệm Phật, luận thuật quan niệm các học giả Phật giáo đối với sự phát triển tư tưởng Thiền tông và Niệm Phật. Từ trên khái niệm đến triển khai rõ ý nghĩa và nội dung vô cùng phong phú của Thiền và niệm Phật, đặc biệt chú trọng về phương diện lịch sử từ sau thời đại nhà Tùy để trình bày mối quan hệ về Thiền tông và niệm Phật. Ở đây tóm lược hệ thống ý nghĩa quá trình diễn biến về Thiền và niệm Phật trong mối quan hệ mang tính đặc trưng theo từng giai đoạn. Sau cùng, luận văn từ trong diễn biến lịch sử của Thiền và niệm Phật để đưa đến kết luận xu thế dung hợp giữa Thiền và Tịnh độ theo hướng đi của Phật giáo Trung quốc. Căn cứ hiện thực của lịch sử Phật giáo và đưa đến nhận định rằng: Từ sau thời Tống thì Thiền Tịnh song tu là phương pháp mô phạm căn bản của sự tu trì Phật giáo Trung quốc. Tin chắc rằng, trong tương lai Phật giáo Trung quốc vẫn duy trì năng lực truyền thống Phật pháp vốn có của chính mình.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567