Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Môi trường và trái tim nhân loại

03/09/201015:14(Xem: 5318)
Môi trường và trái tim nhân loại

MÔI TRƯỜNG VÀ TRÁI TIM NHÂN LOẠI
HH. The Dalai Lama - Tuệ Uyển chuyển ngữ

Theo giáo nghĩa Đạo Phật, có một sự phụ thuộc lẫn nhau rất gần gũi giữa môi trường thiên nhiên và những chúng sinh sống với nó. Vài người bạn đã từng nói với tôi rằng, căn bản tự nhiên của con người là những gì bạo động, nhưng tôi đã nói với họ rằng tôi không đồng ý. Nếu chúng ta thẩm tra những thú vật khác nhau, thí dụ, những thú vật mà chính sự tồn tại của chúng tùy thuộc vào việc lấy đi mạng sống của những thú vật khác, như những con sư tử, beo, hay cọp, chúng ta học rằng căn bản tự nhiên của chúng cung cấp cho chúng với răng nanh và móng vuốt bén nhọn. Những thú vật hiền lành như nai, hoàn toàn ăn cỏ lá, chúng hiền dịu hơn, có răng nhỏ hơn, và không có móng vuốt. Từ nhận xét ấy, chúng ta, những con người có một tự nhiên không bạo động. Về vấn đề tồn tại của loài người chúng ta, loài người là những động vật xã hội. Để tồn tại chúng ta cần những sự hợp quần. Không có những con người khác, đơn giản là không thể tồn tại; đấy là luật tự nhiên

Vì chúng tôi tin tưởng sâu xa rằng loài người căn bản là hòa nhã từ tự nhiên tính, chúng tôi cảm thấy rằng chúng ta không chỉ duy trì những mối liên hệ hiền lành, hòa bình với những con người khác của chúng ta nhưng cũng vì điều này rất quan trọng để mở rộng cùng loại thái độ đối với môi trường thiên nhiên. Phát biểu một cách đạo đức, chúng ta nên quan tâm đến toàn bộ môi trường của chúng ta.

Rồi thì có một quan điểm khác, không chỉ là một câu hỏi của đạo đức nhưng là một câu hỏi về sự tồn tại của chính chúng ta. Môi trường rất quan trọng không chỉ cho thế hệ này nhưng cũng cho những thế hệ tương lai. Nếu chúng ta khai thác môi trường trong những phương thức cực đoan, mặc dù chúng ta có thể thu nhập tài chính lợi nhuận hay những lợi ích khác từ nó bây giờ, nhưng về lâu về dài, chính chúng ta sẽ khổ đau và những thế hệ tương lai sẽ đau khổ. Khi môi trường thay đổi, những điểu kiện khí hậu cũng đổi thay. Khi chúng thay đổi đột ngột, kinh tế và nhiều thứ khác cũng thay đổi. Ngay cả sức khỏe vật lý cũng sẽ bị ảnh hưởng một cách sâu đậm. Vì vậy điều này không chỉ đơn thuần là một câu hỏi đạo đức những cũng là một câu hỏi về sự tồn tại của chính chúng ta.

Thế cho nên để thành công trong việc bảo vệ và bảo tồn môi trường thiên nhiên, chúng tôi nghĩ điều quan trọng trước tiên là mang đến một sự cân bằng nội tại của chính những con người. Thờ ơ, bạc đãi, và lạm dụng môi trường, sẽ đưa đến kết quả tai hại như thế cho cộng đồng nhân loại, nảy sinh ra sự không hiểu biết về môi trường. Chúng tôi nghĩ rằng thật thiết yếu để giúp người ta thấu hiểu điều này. Chúng ta cần hướng dẫn con người rằng môi trường có một mối quan hệ trực tiếp đến quyền lợi của chính chúng ta.

Chúng tôi luôn luôn nói về tầm quan trọng của tư tưởng từ bi yêu thương. Như chúng tôi đã nói lúc trước, ngay cả từ quan điểm vị kỷ, bạn cần những người khác. Vì thế, nếu bạn phát triển sự quan tâm cho quyền lợi của những người khác, chia sẻ khổ đau với những người khác, và giúp họ, một cách căn bản bạn sẽ được lợi ích. Nếu bạn chỉ nghĩ về bạn và quên lãng những người khác, cuối cùng bạn sẽ mất mát. Đấy cũng những gì giống như luật của tự nhiên.

Nó thật đơn giản: nếu bạn không mĩm cười với người ta, nhưng lại cau mày với họ, họ sẽ đáp lại giống như thế, có phải không? Nếu bạn đối xử với những người khác rất chân thành, cởi mở, họ sẽ cư xử tương tự. Mỗi người muốn có những người bạn và không muốn kẻ thù. Phương thức chính để tạo thành những người bạn là có một trái tim ấm áp, không đơn giản là tiền bạc hay quyền năng. Người bạn của quyền lực và người bạn của bạc tiền là những gì khác. Những thứ này không phải là những người bạn chân thật. Người bạn đúng đắn nên là những người bạn của trái tim, đúng thế chứ? Chúng tôi luôn luôn nói với mọi người rằng những người bạn đó đến quanh chúng ta khi chúng ta có tiền bạc và quyền lực không phải là những người bạn của chúng ta một cách chân thật, nhưng là những người bạn của tiền bạc và quyền lực, bởi vì cho đến khi nào tiền bạc và quyền lực biến mất, những người bạn đó cũng đã sẵn sàng để lìa xa chúng ta. Họ không đáng tin cậy.

Những người bạn chân thành nhân ái ở bên cạnh cho dù chúng ta thành công hay kém may mắn và luôn luôn chia sẻ những nổi buồn khổ và gánh nặng. Phương thức để tạo nên những người bạn như thế là không bằng sự giận dữ, cũng không phải có học vấn tốt hay thông minh, nhưng bằng có một trái tim tốt, một tấm lòng chân thành.

Để suy nghĩ một cách sâu sắc hơn, nếu bạn phải ích kỷ, thế thì ích kỷ một cách thông tuệ, không phải là một tâm tư hẹp hòi vị kỷ. Chìa khóa của vấn đề là ý thức trách nhiệm toàn cầu: đấy là cội nguồn chính yếu của sức mạnh, nguồn gốc thật sự của hạnh phúc. Nếu thế hệ chúng ta khai thác mọi thứ có thể - cây cối, nguồn nước, và khoáng sản – mà không hề quan tâm đến thể những thế hệ tiếp theo hay tương lai, thế thì chúng ta sai lầm, có phải thế không? Nhưng nếu chúng ta có một ý thức chân thành của trách nhiệm toàn cầu như động lực trung tâm của chúng ta, rồi thì mối quan hệ với những láng giềng của chúng ta cả quốc nội và quốc tế cùng hướng đến việc sử dụng những nguồn tài nguyên thiên nhiên một cách hài hòa, công bằng, và hữu hiệu cho hiện tại và vì những thế hệ tương lai.

Một câu hỏi quan trọng khác là: điều gì là ý thức, điều gì là tâm thức? Ở thế giới phương Tây suốt trong một hay hai thế kỷ cuối cùng đã có một sự nhấn mạnh lớn lao đến tầm quan trọng của khoa học và kỷ thuật, điều đáp ứng một cách chính yếu với vấn đề. Ngày nay một số nhà vật lý nguyên tử và thần kinh học nói rằng khi chúng ta khảo sát những chất điểm trong một phương thức thật chi tiết, thì có một loại ảnh hưởng nào đấy từ phía những nhà quán sát hay thức giả. Thức giả này là gì? Một câu trả lời đơn giản là: một người, một khoa học gia. Khoa học gia biết thế nào? Với khối óc. Những khoa học gia Phương Tây được xác chứng chỉ khoảng vài trăm người. Bây giờ, cho dù chúng ta gọi nó là tâm, óc, hay ý thức, thì có một sự liên hệ giữa bộ óc và tâm, và cũng là tâm và vấn đề. Chúng tôi nghĩ điều này quan trọng. Chúng tôi nghĩ là có thể tổ chức một loại đối thoại nào đấy giữa những triết gia Đông phương và khoa học gia Tây phương trên căn bản của mối quan hệ này.

Trong bất cứ trường hợp nào đi nữa, những ngày này chúng ta những con người thì liên hệ quá nhiều đến thế giới ngoại tại, trong khi quên lãng thế giới nội tại. Chúng ta thật cần sự phát triển của khoa học và sự phát triển của vật chất để tồn tại và để tăng gia lợi ích và phồn thịnh phổ quát, nhưng cũng cần thiết sự tăng trưởng nhiều như thế cho sự an bình tinh thần. Tuy nhiên, không một bác sĩ nào có thể cho một mũi thuốc để tinh thần bình an, và không một thị trường nào có thể cung cấp sự an bình nội tâm. Nếu bạn đến một siêu thị với hàng triệu và hàng triệu và hàng triệu đô la, bạn có thể mua bất cứ thứ gì, nhưng nếu bạn đến đó và hỏi mua sự hòa bình của tâm hồn hay sự an tâm người ta sẽ cười to. Và nếu bạn yêu cầu một bác sĩ cho một sự bình an chân thành của tâm hồn, bác sĩ không thể giúp bạn, không phải chỉ là sự làm giảm đau mà bạn có được từ một thứ thuốc uống hay thuốc chích nào đấy.

Ngay cả những máy điện toán tinh vi ngày nay cũng không thể đem đến cho bạn với sự an bình tinh thần. Hòa bình tinh thần phải đến từ tâm. Mọi người muốn hạnh phúc và hài lòng, nhưng nếu chúng ta so sánh sự khoái lạc vật lý và sự đớn đau vật lý cùng với sự hỉ lạc tinh thần và khổ đau tinh thần, chúng ta thấy rằng tâm thức thì ảnh hưởng hơn, chiếm ưu thế hơn, và siêu việt hơn. Do vậy, thật giá trị để tiếp nhận những phương pháp nào đấy để tăng cường sự an bình tinh thần, và để làm việc này thật quan trọng để biết nhiều hơn về tâm thức. Khi chúng ta nói về bảo tồn môi trường, nó liên hệ đến nhiều thứ khác. Điểm then chốt để có một ý thức chân thành về trách nhiệm toàn cầu, đặt cơ sở trên sự yêu thương, từ bi, và sự tỉnh thức trong sáng.

Excerpt from My Tibet (Text by H.H.the Fourteenth Dalai Lama: Photographs and Introduction by Galen Rowell) Thames and Hudson Ltd., London, 1990 (p 53-54)
Ecology & the Human Heart
http://www.dalailama.com/page.76.htm
Tuệ Uyển chuyển ngữ
27-12-2006

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
10/08/2017(Xem: 6930)
Thưa đại chúng, hôm nay là ngày 01 tháng bảy năm 2017, tại tu viện Thiện Hòa, thành phố Moenchenladbach , Đức quốc. Tôi có duyên với quý vị trong giờ phút này, và tôi xin chia sẻ pháp thoại “Đức Phật A Di Đà trong đời sống của tất cả chúng ta”.
10/05/2017(Xem: 6936)
Cụm từ "Di Đà Tự tánh" hay "Duy tâm Tịnh độ" thường được dùng để chỉ đỉnh cao của pháp môn Tịnh độ, nhưng rất dễ gây hiều lầm. Về phương diện Lí tánh thì Phật A-di đà Vô Lượng Quang Vô Lượng Thọ là Tự tánh thường chiếu và vĩnh hằng của chúng ta. Khi ta niệm danh hiệu A-di-đà là trở về với Tự tánh, bản tâm. Chúng ta hãy xem đoạn văn sau đây của những người dùng lí thuyết "cao siêu" để bài bác pháp môn Tịnh độ: "Niệm danh hiệu Phật để cầu sanh Tịnh độ là còn chấp Tướng, tìm pháp ngoài Tâm - không hiểu rằng tất cả các pháp đều là tâm".
16/04/2017(Xem: 6556)
Phương pháp Thập Niệm do một vị Đại sư nổi tiếng giảng dạy dựa trên sự vãng sanh Hạ phẩm được diễn tả trong Quán Kinh. Phương pháp nầy đặc biệt dành cho những người quá bận bịu với cuộc sống nên hằng ngày không thể niệm Phật (nhiều lần) để cầu vãng sanh như người tu Tịnh độ bình thường. Do đó, cách nầy dạy niệm danh hiệu Phật A-di-đà khoảng mười lần mỗi khi hít vào và thở ra. Chủ đích của phương pháp nầy là dùng hơi thở để tập trung tâm ý. Tùy theo hơi thở dài hay ngắn mà hành giả có thể niệm được nhiều hơn hay ít hơn 10 danh hiệu. Sau mười lần hít vô--thở ra (tức là niệm được tổng cộng khoảng từ 50 đến 100 câu Phật hiệu), hành giả có thể bắt đầu tụng bài thơ hồi hướng công đức sau đây:
02/04/2017(Xem: 8368)
Theo âm Hán Viêt, A Di Đà Phật có nghĩa là Vô Lượng Thọ Phật, Vô Lượng Quang Phật, Tây Phương Phật. Trong kinh A Di Đà, Đức Phật Thích Ca giảng là Phật A Di Đà, Giáo Chủ cõi Cực Lạc (Soukhavati (Scr.), ở phương Tây, cách cõi Ta Bà của chúng ta mười vạn ức cõi Phật. Đó là một cõi đầy đủ các công đức trang nghiêm. Lầu các, cây cối, đất đai toàn là châu báu. Nào là các loài chim bạch hạt, khổng tước, anh võ, xá lợi, ca lăng tầng già v.v… ngày đêm sáu thời ca hát ra những lời pháp: năm căn, năm lực, bảy món bồ đề, bát chánh đạo…
27/03/2017(Xem: 4079)
Tịnh độ tông là tên gọi chung của tất cả những giáo lí dạy rằng chúng sanh có thể thành Phật nếu được vãng sanh về cõi Tịnh độ của đức Phật A-di-đà. Ở Ấn độ. giáo lí nầy được các ngài Mã Minh, Long Thọ và Thế Thân giảng dạy trên cơ sở nhiều kinh điển khác nhau, như hai bộ kinh A-di-đà. Lịch sử của Tịnh độ tông bắt đầu từ Ấn độ thời cổ đại, nhưng thời đó truyền thống đức tin chưa được nhấn mạnh. Mặc dầu Ấn-độ lúc đó đã có một môn phái thờ đức A-di-đà, sự kính ngưỡng Ngài chỉ là một trong các cách thực hành của Phật giáo Đại thừa lúc ban sơ.
07/09/2016(Xem: 5612)
Theo lời giới thiệu của nhà xuất bản Seuil, Paris, thì Jean Eracle nguyên là Quản Đốc Viện Bảo Tàng Dân Tộc Học Á Châu, đặt trụ sở tại Geneva, Thụy Sỹ. Do một nhân duyên vô cùng kỳ lạ, ông được sang Nhật-bản lưu trú suốt mấy mươi năm để học hỏi cùng thực hành Niệm Phật theo giáo pháp của “Đạo Phật Chân Chánh trong Pháp môn Tịnh-độ” tức Tịnh-độ Chân-tông do Ngài Thân Loan Thánh Nhân khai sáng cách đây gần 8 thế kỷ.
28/04/2016(Xem: 16639)
Thiền, Tịnh, Mật được xem là ba pháp môn tu truyền thống của Phật giáo Việt Nam xưa nay. Thiền giáo xuất hiện từ thời Khương Tăng Hội, Tỳ Ni Đa Lưu Chi và Vô Ngôn Thông. Các thế kỷ sau, kinh điển Đại thừa được truyền bá, theo đó tư tưởng Thiền, Tịnh và Mật được phổ biến tại nước ta. Từ lịch sử phát triển Phật giáo Việt Nam cho thấy, ba pháp môn tu đó có sự đóng góp tích cực cho con người và xã hội qua nhiều thời đại.
15/02/2016(Xem: 11476)
Trong bổn hội các liên hữu đồng tu, đều tuân theo tu học Tịnh Độ Ngũ Kinh và Tịnh Độ Thập Yếu, đặc biệt là Kinh Vô Lương Thọ, bản hội tập của Hạ Liên Cư Đại Sĩ, Di Đà Yếu Giải, Phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện, nhất định phải y cứ ba bộ kinh này tu học, dốc hết toàn lực, nghiên cứu học tập kinh luận Đại Thừa mới có thể tương ứng với Tịnh Tông. Bổn hội đặc biệt chú trọng hành giải tương ứng, tâm khẩu nhất như, cho nên hành môn là mọi người phải phát nguyện, cho đến mức cùng đời vị lai. Tuân theo Quán Kinh tu Tam Phước, Lục Hòa, Tam Học, Lục Độ, Thập Đại Nguyện Vương.
23/12/2015(Xem: 9827)
Hễ phát tiểu nguyện thì không hợp nhân quả, chẳng được vãng sanh. Tại sao ? Vì tiểu nguyện chỉ phát nguyện cho một mình được vãng sanh, nếu không trở lại đầu thai thì làm sao có quả báo ? Bây giờ chẳng nói về kiếp trước, chỉ nói kiếp này : Từ nhỏ tới lớn có sát sanh không? Có giết chết con muỗi con kiến không ? Có ăn thịt chúng sanh không ? Theo nhân quả là một mạng phải đền một mạng, ăn một cục thịt trả một cục thịt, thế thì làm sao trả nợ mạng, nợ thịt? Nên phải phát đại nguyện.
24/07/2015(Xem: 14312)
Tập sách này không phải là một tiểu luận về tâm lý học nên không thể bao quát hết mọi vấn đề nhân sinh, mục đích của nó nói lên sự tương quan của Ý, Tình, Thân và tiến trình phiền não...
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567