Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Niệm Phật Tam Muội.

22/04/201311:56(Xem: 6050)
Niệm Phật Tam Muội.

Niệm Phật Tam Muội

Thông Bác

---o0o---

Yếu chỉ của tam muội trong pháp môn niệm Phật là sự " lắng nghe" chứ không cốt niệm cho nhiều mà tâm chẳng rõ. Lắng nghe càng rõ sức tam muội càng tự tập trung, tự thanh tịnh. Thanh tịnh càng rõ ràng càng tăng trưởng trí tuệ.

Tam muội cũng gọi là nhất tâm, cũng có nghĩa là chánh định. Chánh định trong niệm Phật đã gồm chánh kiến, chánh niệm, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh ngữ, chánh tinh tấn, kể cả chánh tư duy trong Bát chánh đạo. Đặc biệt, niệm Phật tam muội bao tr�m các cãn cơ, trình độ nào tu cũng được, hoàn cảnh nào áp dụng cũng được.

Bậc thượng trí xuyên suốt kinh giáo, càng nên niệm Phật tam muội để dễ bề bao quát và tiến sâu vào thể tánh. Bởi một câu Phật hiệu nếu áp dụng đúng cách vẫn thẩm thấu từ cãn tướng đến thể tánh. Và pháp môn niệm Phật là chánh giáo, chánh lý, chánh hướng cho tâm chánh giác trong bất cứ pháp tu nào thuộc đề mục ngoài tâm.

Thời đại mạt pháp, người Phật tử tại gia n�n gắn bó với một câu Phật hiệu, tùy theo tình cảm của mình về một Đức Phật, một vị Bồ tát, hoặc một vị A la hán nào mà mình cảm thấy gần gũi và kính thương nhất. Cứ một câu theo danh hiệu như Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật, hay Nam mô A Di Đà Phật v.v Nếu là pháp môn thì chỉ nên áp dụng một câu gọi là "một niệm muôn đời, muôn đời một niệm". Cứ vậy, thọ niệm không ngừng nghỉ. Niệm đến thành Phật cũng cứ niệm. Bởi trong đó đã cụ túc Phật pháp.

Niệm Phật đ� vào tam muội (nhất tâm) thì tâm tự niệm tự giác (rõ ràng) tự thanh tịnh.

Thanh tịnh trong tam muội thường tãng sanh phỉ lạc vấn đề n�n lưu tâm; dù phỉ lạc tràn đầy cũng đừng n�n tham đắm. Nếu tham đắm vào phỉ lạc sẽ làm cho tâm quên dần sự rõ ràng, sẽ làm cho câu niệm Phật chìm loãng, tan dứt lúc nào cũng chẳng hay\. Hơn thế, trong tam muội thường xảy ra các loại ánh sáng, các thần giao, các cảnh giới rực rỡ tốt đẹp Ẩ Hành giả niệm Phật hãy để các thứ này xảy ra và tan mất tự nhiên; chúng chỉ là kết quả của tam muội, những ảo ảnh tốt chứ không phải chân giác ngộ giải thoát.

Mục đích của niệm Phật tam muội là minh tâm kiến tánh. Tâm tánh có cãn bản là bất sanh bất diệt, cũng gọi là Pháp thân, Bản lai diện mục, Niết bàn.

Niệm Phật tam muội không chủ ý niệm cho nhiều trong một lúc một thời nào đó, nhưng lại chuyên, phải thường niệm để đánh bại tạp niệm, để không qu�n tâm chánh niệm trong bốn oai nghi đi, đứng, nằm, ngồi, trong sinh hoạt, làm việc . Trong tất cả hành vi của đời sống lắng nghe rõ ràng từng niệm, từng câu.

Để thực hành niệm Phật tam muội, hành giả nên niệm từ một đến bảy câu thì xả. Một lần xả là coi như mới bắt đầu lại; chú tâm vào câu thứ nhất cho rõ ràng rành mạch, liên tục đến câu thứ bảy lại xả. Chỉ niệm trong bảy câu thì hành giả dễ lắng nghe và quán xuyến trọn vẹn từng tiếng, từng câu trong tâm. Từ một đến bảy câu là coi như một "quá trình thành tựu".

Nếu có điều kiện, môi trường thì nên tổ chức nhập thất, tối thiểu là bảy ngày, nhiều thì một tháng, ba tháng, một năm, ba nãm. Muốn nhập thất niệm Phật có kết quả thì phải chuẩn bị tinh thần, điều kiện thuận, có thầy hướng dẫn, có người hộ thất cho, có sự an ninh v.v Và phải làm lễ phát nguyện trước Tam bảo, trước vị Phật hoặc vị Bồ tát mà mình sẽ niệm danh Ngài\. Cầu xin Phật, Bồ tát chứng minh, gia hộ suốt trong thời gian nhập thất. Hết thời gian, xả thất cũng phải làm lễ tạ ơn. Nếu có vị thầy có kinh nghiệm hướng dẫn, chứng minh cho trong suốt thời gian nhập thất thì quá qúy.

Muốn công phu niệm Phật được mi�n mật trong suốt thời gian nhập thất, thì nên áp dụng vào hai tư thế là tọa niệm và kinh hành. Với tư thế kinh hành thì nên áp dụng mỗi niệm một bước. Bước càng chậm rãi, niệm càng lắng sâu, nghe càng rõ ràng. Hết kinh hành lại tọa niệm, xong tọa niệm đến kinh hành. Hãy chia đều thời gian, kinh hành nửa giờ thì tọa niệm cũng nửa giờ. Không có đồng hồ thì nên thắp một cây hương cho một tư thế. Cháy hết một cây hương là biết giờ công phu của mình.

Điều quan trọng nhất trong niệm Phật tam muội là cái tâm tha thiết nhiệt thành, trân trọng pháp môn, chú tâm lắng nghe cho thật rõ, dù chỉ niệm thầm.

Nếu có được cái tâm tinh tấn, toàn tâm với câu niệm Phật, với sự chuyên cần trong điều kiện nhập thất v.v thì hành giả sơ tâm niệm Phật cũng chỉ sau một tháng sẽ vào được nhất tâm. Nhưng chớ nên khởi tâm cầu nhất tâm. bởi nhất tâm không thể do cầu mà được, mà do công phu tinh cần chuyên nhất vào pháp môn.


Source : www.lotuspro.net

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
10/05/2017(Xem: 7744)
Cụm từ "Di Đà Tự tánh" hay "Duy tâm Tịnh độ" thường được dùng để chỉ đỉnh cao của pháp môn Tịnh độ, nhưng rất dễ gây hiều lầm. Về phương diện Lí tánh thì Phật A-di đà Vô Lượng Quang Vô Lượng Thọ là Tự tánh thường chiếu và vĩnh hằng của chúng ta. Khi ta niệm danh hiệu A-di-đà là trở về với Tự tánh, bản tâm. Chúng ta hãy xem đoạn văn sau đây của những người dùng lí thuyết "cao siêu" để bài bác pháp môn Tịnh độ: "Niệm danh hiệu Phật để cầu sanh Tịnh độ là còn chấp Tướng, tìm pháp ngoài Tâm - không hiểu rằng tất cả các pháp đều là tâm".
16/04/2017(Xem: 7377)
Phương pháp Thập Niệm do một vị Đại sư nổi tiếng giảng dạy dựa trên sự vãng sanh Hạ phẩm được diễn tả trong Quán Kinh. Phương pháp nầy đặc biệt dành cho những người quá bận bịu với cuộc sống nên hằng ngày không thể niệm Phật (nhiều lần) để cầu vãng sanh như người tu Tịnh độ bình thường. Do đó, cách nầy dạy niệm danh hiệu Phật A-di-đà khoảng mười lần mỗi khi hít vào và thở ra. Chủ đích của phương pháp nầy là dùng hơi thở để tập trung tâm ý. Tùy theo hơi thở dài hay ngắn mà hành giả có thể niệm được nhiều hơn hay ít hơn 10 danh hiệu. Sau mười lần hít vô--thở ra (tức là niệm được tổng cộng khoảng từ 50 đến 100 câu Phật hiệu), hành giả có thể bắt đầu tụng bài thơ hồi hướng công đức sau đây:
02/04/2017(Xem: 9390)
Theo âm Hán Viêt, A Di Đà Phật có nghĩa là Vô Lượng Thọ Phật, Vô Lượng Quang Phật, Tây Phương Phật. Trong kinh A Di Đà, Đức Phật Thích Ca giảng là Phật A Di Đà, Giáo Chủ cõi Cực Lạc (Soukhavati (Scr.), ở phương Tây, cách cõi Ta Bà của chúng ta mười vạn ức cõi Phật. Đó là một cõi đầy đủ các công đức trang nghiêm. Lầu các, cây cối, đất đai toàn là châu báu. Nào là các loài chim bạch hạt, khổng tước, anh võ, xá lợi, ca lăng tầng già v.v… ngày đêm sáu thời ca hát ra những lời pháp: năm căn, năm lực, bảy món bồ đề, bát chánh đạo…
27/03/2017(Xem: 4653)
Tịnh độ tông là tên gọi chung của tất cả những giáo lí dạy rằng chúng sanh có thể thành Phật nếu được vãng sanh về cõi Tịnh độ của đức Phật A-di-đà. Ở Ấn độ. giáo lí nầy được các ngài Mã Minh, Long Thọ và Thế Thân giảng dạy trên cơ sở nhiều kinh điển khác nhau, như hai bộ kinh A-di-đà. Lịch sử của Tịnh độ tông bắt đầu từ Ấn độ thời cổ đại, nhưng thời đó truyền thống đức tin chưa được nhấn mạnh. Mặc dầu Ấn-độ lúc đó đã có một môn phái thờ đức A-di-đà, sự kính ngưỡng Ngài chỉ là một trong các cách thực hành của Phật giáo Đại thừa lúc ban sơ.
07/09/2016(Xem: 6707)
Theo lời giới thiệu của nhà xuất bản Seuil, Paris, thì Jean Eracle nguyên là Quản Đốc Viện Bảo Tàng Dân Tộc Học Á Châu, đặt trụ sở tại Geneva, Thụy Sỹ. Do một nhân duyên vô cùng kỳ lạ, ông được sang Nhật-bản lưu trú suốt mấy mươi năm để học hỏi cùng thực hành Niệm Phật theo giáo pháp của “Đạo Phật Chân Chánh trong Pháp môn Tịnh-độ” tức Tịnh-độ Chân-tông do Ngài Thân Loan Thánh Nhân khai sáng cách đây gần 8 thế kỷ.
28/04/2016(Xem: 20440)
Thiền, Tịnh, Mật được xem là ba pháp môn tu truyền thống của Phật giáo Việt Nam xưa nay. Thiền giáo xuất hiện từ thời Khương Tăng Hội, Tỳ Ni Đa Lưu Chi và Vô Ngôn Thông. Các thế kỷ sau, kinh điển Đại thừa được truyền bá, theo đó tư tưởng Thiền, Tịnh và Mật được phổ biến tại nước ta. Từ lịch sử phát triển Phật giáo Việt Nam cho thấy, ba pháp môn tu đó có sự đóng góp tích cực cho con người và xã hội qua nhiều thời đại.
15/02/2016(Xem: 12241)
Trong bổn hội các liên hữu đồng tu, đều tuân theo tu học Tịnh Độ Ngũ Kinh và Tịnh Độ Thập Yếu, đặc biệt là Kinh Vô Lương Thọ, bản hội tập của Hạ Liên Cư Đại Sĩ, Di Đà Yếu Giải, Phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện, nhất định phải y cứ ba bộ kinh này tu học, dốc hết toàn lực, nghiên cứu học tập kinh luận Đại Thừa mới có thể tương ứng với Tịnh Tông. Bổn hội đặc biệt chú trọng hành giải tương ứng, tâm khẩu nhất như, cho nên hành môn là mọi người phải phát nguyện, cho đến mức cùng đời vị lai. Tuân theo Quán Kinh tu Tam Phước, Lục Hòa, Tam Học, Lục Độ, Thập Đại Nguyện Vương.
23/12/2015(Xem: 10766)
Hễ phát tiểu nguyện thì không hợp nhân quả, chẳng được vãng sanh. Tại sao ? Vì tiểu nguyện chỉ phát nguyện cho một mình được vãng sanh, nếu không trở lại đầu thai thì làm sao có quả báo ? Bây giờ chẳng nói về kiếp trước, chỉ nói kiếp này : Từ nhỏ tới lớn có sát sanh không? Có giết chết con muỗi con kiến không ? Có ăn thịt chúng sanh không ? Theo nhân quả là một mạng phải đền một mạng, ăn một cục thịt trả một cục thịt, thế thì làm sao trả nợ mạng, nợ thịt? Nên phải phát đại nguyện.
24/07/2015(Xem: 16028)
Tập sách này không phải là một tiểu luận về tâm lý học nên không thể bao quát hết mọi vấn đề nhân sinh, mục đích của nó nói lên sự tương quan của Ý, Tình, Thân và tiến trình phiền não...
10/07/2015(Xem: 6640)
Hầu hết các kinh luận Đại thừa đa số đều thuyết minh tổng quát về pháp môn niệm Phật. Trên thực tế hình thành pháp môn Tịnh Độ phổ biến từ tư tưởng các bộ kinh căn bản như Kinh Bát Chu Tam Muội (Ban Châu Tam Muội), Kinh A Di Đà, Kinh Quán Vô Lượng Thọ, Kinh Vô Lượng Thọ, Kinh Hoa Nghiêm và Kinh Thủ Lăng Nghiêm và nhiều bộ kinh khác. Pháp niệm Phật đến với quần chúng ước tính khoảng mười tám thế kỷ qua (Tính từ khi Kinh Ban Châu Tam Muội được dịch tại Trung quốc năm 179 s.dl.), và pháp môn Tịnh Độ được hình thành và phát triển thời tổ sư Huệ Viễn (334-416 TL) cho đến ngày nay. Thực tế lịch sử đã chứng minh pháp môn niệm Phật đã đóng một vai trò quan trọng trong lĩnh vực truyền bá Phật giáo Đại thừa. Y cứ từ kinh điển liên quan Pháp môn niệm Phật, trên căn bản thì thiền sư Tông Mật (784-841), tổ thứ năm của tông Hoa Nghiêm đã phân thành bốn phương pháp niệm Phật. Đó là trì danh niệm Phật, quán tượng niệm Phật, quán tưởng niệm Phật và thật tướng niệm Phật. Từ thời đại Tổ Liên Trì về sau
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]