Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Bốn Động Tâm

16/12/201003:14(Xem: 5517)
Bốn Động Tâm


bodhgaya_1BỐN ĐỘNG TÂM
Tâm Diệu

Lời Ban Biên Tập: Một cư sĩ học giả viết trong một quyển sách đã xuất bản, trong đó có lập lại một lời nói của đức Phật không được đúng như trong kinh đã ghi, điều này có thể tạo cho Phật tử hiểu lệch lạc về đạo Phật dẫn tới một đạo Phật mê tín. Họ nói Đức Phật nói rằng: “… Nếu vị thiện tâm nào đến bốn nơi Thánh địa này thành tâm chiêm bái và đảnh lễ sẽ được nhiều phước báu và duyên lànhvà nếu có vị thiện tâm nào có duyên được trút hơi thở cuối cùngtại một trong những Thánh địa này, chắc chắn người ấy sẽ được tái sanh vào cảnh giới thanh nhàn..” Bài viết dưới đây làm sáng tỏ vấn đề:

Sau khi nhận bữa cơm cúng dường cuối cùng của cư sĩ Thuần Đà, đức Phật bị nhiễm bệnh nặng và nói với tôn giả A Nan đi đến thành Câu Thi Na (Kushinagar). Trên đường đi, mặc dầu sức khỏe Ngài yếu, nhưng đức Phật vẫn tiếp tục nói Pháp khi có người đến hỏi.

Đến rừng Sa La, Ngài nằm nghỉ trên chiếc võng giữa hai cây sa la song thọ và như một một điềm báo đặc biệt, cây sa la song thọ trổ hoa trái mùa tràn đầy cành lá, những đóa hoa này rơi lên, tung vãi trên thân Như Lai để cúng dường, rồi chư Thiên thần khắp mười phương thế giới tụ hội về để chiêm ngưỡng Như Lai lần cuối. Ngài nói với A Nan tối hôm nay vào canh cuối cùng, Như Lai sẽ nhập diệt nơi rừng Sa La này.

Lo ngại sau khi Phật nhập diệt sẽ không còn cơ hội gặp gỡ và học hỏi nơi các vị trưởng lão Tỳ kheo, khi các vị ấy đến bái yết Phật, nên A Nan thỉnh cầu đức Thế Tôn giải tỏa nỗi niềm này.

Phật dạy:

"- Này A Nan, có bốn Thánh tích kẻ thiện tín cần phải chiêm ngưỡng và tôn kính. Bốn Thánh tích đó là: Nơi Như Lai đản sanh, Nơi Như Lai chứng ngộ vô thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, nơi Như Lai chuyển Pháp luân vô thượng, và nơi Như Lai diệt độ, nhập Vô dư y Niết Bàn."

Phật nói tiếp:

"- Này A Nan, đó là bốn Thánh tích, kẻ thiện tín cư sĩ cần phải chiêm ngưỡngtôn kính. Này A Nan, các thiện tín Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, cư sĩ nam, cư sĩ nữ sẽ đến với niềm suy tư: "Đây là chỗ Như Lai đản sanh", "Đây là chỗ Như Lai chứng ngộ vô thượng Chánh Đẳng Chánh Giác", "Đây là chỗ Như Lai chuyển Pháp luân vô thượng", "Đây là chỗ Như Lai diệt độ, nhập Vô dư y Niết Bàn."

"- Này A Nan, và những ai, trong khi đi chiêm bái những Thánh tích mà từ trần với tâm thâm tín hoan hỷ, thời những vị ấy, sau khi thân hoại mạng chung sẽ sanh cõi thiện thú, cảnh giới chư Thiên."[1]

Đó là lời dạy trong những giây phút cuối cùng của đức Phật, Ngài khuyên chúng ta nên đến chiêm ngưỡng bốn Thánh tích với lòng tôn kínhvà với "tâm thâm tín hoan hỷ". Nếu được như vậy, khi mệnh chung sẽ sanh cõi người hay cõi trời.

Muốn được như thế, người hành hương, không chỉ đến đó tham quan cảnh trí di tích mà còn phải mang theo hai yếu tố tâm quan trọng là: tâm thâm tín, và tâm hoan hỷ.

Chắc chắn khi đến bốn nơi này ai ai cũng có tâm vui sướng, hoan hỷ. Còn việc tâm thâm tín, chắc không phải chỉ là tâm thâm tín, khi đứng trước bốn Thánh tích đó, mà phải luôn luôn canh cánh mang theo bên mình, cho đến khi thân hoại mạng chung.

Thâm tín cái gì? Đó là tin sâu, tin bền và tin chắcvề ba ngôi quý báu Tam Bảo: Phật, Pháp và Tăng, vì ba ngôi quý báu này có năng lực dẫn dắt con người thoát khỏi mọi tà kiến, phiền não, khổ đau và ra khỏi sinh tử luân hồi.

Phậtlà Giác, là thức tỉnh ra khỏi giấc ngủ mê. Đức Phật là người đã giác ngộ và giải thoát hoàn toàn. Ngài là một bậc đạo sư, một người chỉ lối dẫn đường cho mọi chúng sinh thoát khỏi sinh tử luân hồi.

Pháplà những lời Phật dạy các đệ tử, sau đó được ghi bằng chữ, gọi là Kinh và Luật. Còn Luận là những lời bàn luận của các vị Bồ tát, đệ tử của Phật để làm sáng tỏ thêm những lời Phật dạy, những lời dạy mà, nếu chúng ta thực hành sẽ có công năng đưa chúng ta qua khỏi bể khổ, đến bến bờ giải thoát.

Tănglà một đoàn thể sống chung với nhau ít nhất là bốn người, bỏ nhà xuất gia đi tu, giữ đầy đủ giới luật của Phật đặt ra, với mục đích tu hành giải thoát cho mình và cho tất cả chúng sinh, là những người thay Phật dẫn dắt chúng sinh trên đường đạo.

Khi đứng trước các Thánh tích, chúng ta có niềm tin chắc chắn về Phật, Pháp, Tăng và giữ vữngniềm tin này không đổicho đến khi mệnh chung, thì chắc chắn chúng ta sẽ được sanh trong cảnh giới Trời người.

Được biết bốn Thánh tích đó là Lâm Tỳ Ni(Lumbini), nơi Phật đản sanh, hiện nay thuộc Vương quốc Nepal, nằm gần ranh giới với phía Bắc Ấn Độ. Thánh tích thứ nhì là Bồ Đề Đạo Tràng(Bodh-Gaya), nơi Phật thành đạo, nằm ở phía Bắc Aán Độ. Thánh tích thứ ba là Vườn Lộc Uyển(Sarnath), nơi Phật chuyển pháp luân đầu tiên, cách thành phố Ba La Nại (Varanasi) khoảng 7 dặm thuộc miền Trung Bắc Aán Độ. Thánh tích thứ tư là Câu Thi Na(Kushinagar), nơi Phật nhập Niết Bàn, cách thành phố Gorakhpur 52 km thuộc miền Đông Bắc Aán Độ.

Bốn Thánh tích đó còn được gọi là bốn động tâm, bởi vì nếu như chúng ta đến được bốn nơi Thánh tích này thì do tận mắt thấy được các di tích lịch sử đức Phật, thấy được di tích nơi Ngài hiện thân, nơi Ngài thành đạo, nơi Ngài chuyển pháp luân, nơi Ngài Niết Bàn và nơi những dấu chân Ngài đã đi qua, nên lòng tin phát khởi và tăng trưởng, tức rung động tâm thức. Nhờ lòng tin tăng trưởng nên có thái độ quyết chí tu hành, hạ thủ công phu, quyết không làm điều ác, làm tất cả việc lành và nhiếp tâm thanh tịnh và do tiến trình nhân quả, quả báo tươi tốt đơm hoa kết trái, chắc chắn khi mệnh chung sẽ sanh cõi người hay cõi Trời, hưởng phước báu lâu dài.

Điều quan trọng là phải động tâm, tức lòng tin phát khởi nếu chưa có lòng tin, và tăng trưởng lòng tin nếu đã có lòng tin, còn nếu đến mà tâm thức không mảy may rung động, và không nỗ lực tu hành sau đó, thì cũng giống như những người dân Ấn Độ hay Nepal thấy bốn Thánh tích này hàng ngày, thử hỏi họ có hưởng phước báu không, có sanh cõi trời khi lâm chung không hay những người có nhiều tiền của, có phước báu đi Ấn Độ nhiều lần, đến nơi có thể có động tâm nhưng rồi khi trở về theo thời gian lòng tin nguội dần, không nỗ lực tu tập, không quyết chí tu hành, thì theo tiến trình nhân quả sẽ ra sao? kiếp sau có được hưởng nhiều hay bị bớt phước báu không?

Còn như những ai đã đã tin sâu xa, tin chắc chắn và tin bền bỉ vào Tam Bảo, vào chân tâm Phật tánh, và vào nhân quả luân hồi, thì nếu có điều kiện đi chiêm ngưỡng bốn Thánh tích này thì càng tốt, hãy nên đi, tuy nhiên đi để biết, để thấy, để tưởng nhớ Phật, để tri ân Ngài hơn là mang ý nghĩa cầu phước báu. Còn nếu nói rằng nếu đến tứ động tâm để nhờ Phật ban phước thì không đúng với nhân quả. Vấn đề là tăng tín tâm rồi đắc lực tu hành. Trong những lời dạy của Ngài, không có lời nào Ngài nói là đến đó để cầu phước báu.

Tâm Diệu

Cước Chú:

Trong ba bản dịch, chúng tôi chọn bản dịch Kinh Đại Bát Niết Bàn trong Kinh Trường Bộ Tập 1, hệ Pali do Hòa Thượng Minh Châu dịch làm tài liệu chủ yếu, vì chỉ có bản này mới có nhóm từ "tâm thâm tín hoan hỉ" nơi đoạn cuối của đoạn thứ 8 mục thứ V (trang 644). Hai bản dịch kia từ Hán tạng, không có nhóm từ này mà thay thế bằng nhóm từ "kính lễ, xây dựng chùa tháp" (Kinh Trường A Hàm, Viện Cao Đẳng Phật Học Huệ Nghiêm dịch, trang 204 ), "kinh hành kínhlễ, dựng chùa tháp cúng dường" (Kinh Trường A Hàm, Hòa Thượng Thích Thiện Siêu dịch, trang 110).

Tham Chiếu:

[1]-Kinh Trường Bộ, Tập 1, Kinh Đại Bát Niết Bàn, (Hệ Pali), Việt dịch: Hòa Thượng Thích Minh Châu, Viện Nghiên Cứu Phật Học Việt Nam ấn hành năm 1991, trang 643-644.
[2]-Kinh Trường A Hàm, Tập 1, Kinh Du Hành, (Hệ Sanscrit), Việt dịch:Viện Cao Đẳng Phật Học Huệ Nghiêm, Viện Nghiên Cứu Phật Học Việt Nam ấn hành năm 1991, trang 203-204.
[3]-Kinh Trường A Hàm, Quyển 4, kinh Du Hành, Việt dịch: HT. Thích Thiện Siêu, Phật Học Viện quốc Tế xuất bản 1986, trang 110-111.
[4] Ấn bản Anh ngữ tại http://world.std.com/~metta/canon/digha/dn16.html(Part Five, "Four Places of Pilgrimage")

bodedaotrang-01010152
Bồ đề Đạo tràng, nơi Đức Phật giác ngộ. (Bodhgaya)
hanhhuong-02-008
Lâm Tì Ni, nơi Đức Phật đản sinh. (Lumbini)
bondongtam-locuyen
Vườn Lộc Uyển, nơi Đức Phật giảng pháp lần đầu. (Sarnath - TP. Varanasi) (Ảnh: Bình Anson)
hanhuong-03-009
Bên trong đền là tượng Phật nhập diệt, nằm nghiêng bên phải, đầu về hướng bắc.
Tượng được đặt trên một bệ đá, mặt trước có khắc chữ đánh dấu vào thế kỉ thứ năm sau công nguyên.
Tượng vốn bằng đồng, nhưng người hành hương lần lượt thếp vàng lên trên

bondongtam-cauthina
Câu Thi Na, nơi Đức Phật niết bàn. (Kushinagar)(Ành: Bình Anson)

Các thánh tích:
· Lumbini (Lâm-tì-ni) - Nơi đản sinh
· Bodh Gaya (Bồ-đề Đạo tràng) - Nơi thành đạo
· Sarnath (Lộc uyển) - Nơi chuyển pháp luân
· Kusinara (Câu-thi-na) - Nơi bát-niết-bàn

· Kapilavatthu (Ca-tì-la-vệ) - Quê hương của Ngài
· Sankassa - Nơi Ngài từ cung trời Đa-lợi trở về dạy A-tỳ-đàm cho ngài Xá-lợi-phất
· Rajgir/Rajagaha (Vương xá) - Kinh đô của vương quốc Ma-kiệt-đà (Magadha)
· Gijjakuta (Linh thứu) - Nơi Ngài thường giảng đạo trong những năm đầu tiên.
· Veluvana (Trúc lâm) - Tinh xá do vua Bình-sa (Bimbisara) dâng cúng.
· Kosambi (Câu-diệm-bi) - Nơi Ngài giảng pháp lục hòa kính.
· Savathi (Xá-vệ) - Tinh xá Kỳ Viên, nơi Ngài ngự trong 20 năm cuối.
· Vesali (Vệ-xá-ly) - Kinh đô của bộ tộc Licchavi. Nơi thành lập Ni đoàn, do bà Kiều-đàm-di lãnh đạo.
· Varanasi (Ba-na-lại) - Kinh đô của bộ tộc Kasị Thành phố lớn bên bờ sông Hặng
· Mathura - Trung tâm văn hóa điêu khắc.
· Indapatta - Kinh đô của bộ tộc Kuru, nơi Ngài giảng kinh Niệm xứ.

Xem bản đồ:
ducphatlichsu-20map-sm
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
03/09/2021(Xem: 31485)
(Thắp đèn đốt hương trầm xong, đứng ngay ngắn chắp tay để ngang ngực mật niệm) 1. TỊNH PHÁP GIỚI CHƠN NGÔN: Án, lam xóa ha. (3 lần) 2. TỊNH KHẨU NGHIỆP CHƠN NGÔN: Tu rị, Tu rị, Ma ha tu rị, Tu tu rị, Ta bà ha. (3 lần) 3. TỊNH TAM NGHIỆP CHƠN NGÔN Án, Ta phạ bà phạ thuật đà ta phạ, đạt ma ta phạ, bà phạ thuật độ hám. (3 lần) 4. PHỔ CÚNG DƯỜNG CHƠN NGÔN: Án, Nga nga nẵng tam bà, phạ phiệt nhựt ra hồng (3 lần) 5. AN THỔ ĐỊA CHƠN NGÔN: Nam mô tam mãn đa một đà nẫm, Án, độ rô độ rô, địa vỷ ta bà ha (3 lần) Hộ pháp, Vĩ Đà thị chứng minh Thân trụ Phật tiền Tâm Tư nguyện Tưởng bằng bí chú đắc oan linh Hà chơn bất thức trì niệm Luật Thiên kinh vạn quyển vô nhất tự Nẳng mô tô tất đế, đa rị, đa rị, mạn đà, mạn đà, ta bà ha (3 lần)
03/09/2021(Xem: 9042)
Pháp hành Trì để vượt thoát Đại Nạn Covid-19
03/09/2021(Xem: 8543)
5.1). Đệ tử tên là: Một lòng quy kính Đức Phật A Di Đà, Thế giới Cực Lạc, Nguyện lấy hào quang, Trong sạch soi cho, Lấy thệ từ bi, Mà nhiếp thọ cho, Con nay chánh niệm, Niệm hiệu Như Lai, Vì đạo Bồ Đề, Cầu sanh Tịnh Độ. Phật xưa có thệ: “Nếu có chúng sinh, Muốn sinh về nước ta, Hết lòng tín nguyện, Cho đến mười niệm, Nếu chẳng đặng sinh, Chẳng thành Chánh Giác”. Do vì nhân duyên, Niệm hiệu Phật nầy, Được vào trong bể, Đại thệ Như Lai, Nhờ sức Từ Bi, Các tội tiêu diệt, Căn lành tăng trưởng, Khi mạng gần chung, Biết trước giờ chết, Thân không bệnh khổ, Tâm không tham luyến, Ý không điên đảo, Như vào Thiền định. Phật và Thánh Chúng, Tay nâng kim đài, Cùng đến tiếp dẫn, Trong khoảng một niệm, Sinh về Cực Lạc, Sen nở thấy Phật, Liền nghe Phật thừa, Chóng mở Phật tuệ, Khắp độ chúng sanh, Trọn Bồ Đề nguyện.
12/07/2020(Xem: 6286)
Theo, Đại-Vô-Lượng-Thọ-Kịnh. Đại-A-Di-Đà-Kinh Q1.- Bình-Đẳng-Giác- Kinh Q1. Đại-Bảo-Tích-Kinh Q17. Bi-Hoa-Kinh Q3. Vô-Lượng-Quảng- Trang-Nghiêm-Đại-Thừa-Kinh… Thì đều lạy tu theo 48 nguyện. 48 đại nguyện có đủ trong 6 bộ kinh nói trên. Chỗ cốt yếu cho người tu niệm Phật và lễ lạy 48 đại nguyện là : 1.Tin tưởng tha thiết nguyện về cõi Phật A Di Đà chắc thật diệt sạch hết tâm nghi ngờ. Lòng tin trọn vẹn trong sạch. 2. Lập thời khóa tu niệm lễ lạy trong một ngày đêm 1, 2, hay 3 Thời, Tùy ý thích. Chọn cho thích hợp để tu. Quan trọng là thành tâm. Đừng ham nhiều mà lụy thân rồi chán bỏ! 3. Quyết tâm phát nguyện vãng sanh về Cực Lạc Tịnh Độ, Tâm luôn kính nhớ ưa thích cõi Cực Lạc của Từ Phụ A Di Đà, quí mến Từ Phụ A Di Đà. niệm Hồng danh Phật liên tục, khi xướng lạy lời nguyện thân tâm vui thích mừng rỡ cảm động, thân nhẹ lân lân như ơn Phật đang ban phước cao vời vô tận, đầy tâm an lạc, như thấy mình đầy đủ sức khỏe. Niệm, chừng nào được “nhứt tâm bất loạn” đồng nghĩa với “hế
22/06/2020(Xem: 4692)
Đi tìm nguồn cội của những việc cần tìm hiểu quả là điều rất hữu ích và cần thiết cho những người học Phật như chúng ta ngày nay. Tuy trong hiện tại chúng ta có quá nhiều phương tiện để tìm hiểu, đọc tụng cũng như học hỏi, nhưng cũng không phải muốn tìm gì là có ngay lời giải đáp đúng như ý ta mong đợi, mà vẫn cần phải qua những trải nghiệm của bản thân cũng như sự tu học hành trì, nghiên cứu lâu ngày, chúng ta mới thẩm thấu được lời Phậtdạy. Vì lẽ lời dạy của Đức Phật nằm rải rác khắp nơi trong ba tạng của Nam Truyền và ba tạng của Bắc Truyền, có cả hàng triệu triệu chữ và nhiều nhà phiên dịch, chú giải khác nhau, nên không phải ai cũng có cơ duyên để trì tụng, nghiên cứu hết ba tạng Kinh điển này. Riêng bản thân tôi không dám làm việc gì quá khả năng, chỉ cố gắng gom góp lại những chỗ đã đọc qua, nhằm cống hiến cho quý vị một sự hiểu biết căn bản về Đức Phật A-di-đà, để chúng ta không còn nghi ngờ gì nữa khi trì tụng các Kinh A-di-đà, Kinh Vô Lượng Thọ hay Kinh Quán Vô Lượng Thọ. Đó
21/06/2020(Xem: 8588)
Do một thiện niệm vừa phát sinh sau khi TT Thích Nguyên Tạng chấm dứt 48 bài pháp thoại liên tục được livestream trên Facebook của trangnhaquangduc trong mùa cách giản xã hội vì đại dịch Corona vào mỗi sáng sau thời công phu khuya ( với kinh Lăng Nghiêm, Đại Bi và thập chú ) mà người viết mới có dịp ôn lại những gì trong “ PHÁP NGỮ CỦA HT TỊNH KHÔNG” đã được TT Thích Nguyên Tạng Việt dịch và được xuất bản từ 2004. Thời gian trôi qua nhanh quá , thấm thoát đã 16 năm mà đến bây giờ đây là lần thứ ba tôi mới đọc lại , phải nói là rất ân hận cho sự vô minh của mình trong nhiều năm và đã uổng phí thời gian để có thể tu tập đúng hơn nữa .
05/05/2020(Xem: 6047)
Chiều nay ngày 19 tháng 7 năm Mậu tuất (2018), tôi đến Phương trượng Tổ đình Từ Đàm, đảnh lễ Trí Quang Thượng Nhân, sau khi xuất hạ, Thượng Nhân đã dạy cho tôi những điều hữu ích gồm: 1- Pháp học: Pháp giới tạng thân A-di-đà-Phật là chỉ cho Thân thể của Phật A-di-đà bao trùm khắp cả không gian và thời gian về mặt không gian là cả mười phương. Về mặt thời gian là bao trùm cả ba đời.
24/08/2019(Xem: 8975)
Niết bàn là khái niệm thể hiện triết lý độc đáo về giải thoát của Phật giáo. Đây là một trạng thái tâm linh hoàn toàn thanh thản, giải thoát khỏi mọi đau khổ của cuộc đời. Trạng thái này có thể đạt được khi còn đang sống (Hữu dư Niết bàn) hoặc khi đã chết (Vô dư Niết bàn). Phật giáo Tiểu thừa hướng tới Vô dư Niết bàn - một Niết bàn tịch diệt, cô đơn, từ bỏ mọi thú vui trần thế. Phật giáo Đại thừa lại hướng tới Hữu dư Niết bàn - một Niết bàn nhân bản, nhập thế và hoạt động cùng những buồn vui nhân thế. Quan niệm này đã mang lại một sức hấp dẫn, sức sống mới cho Phật giáo, đặc biệt là trong xã hội hiện đại.
05/08/2019(Xem: 5218)
Hành giả tùy niệm Như Lai khi tâm không bị tham chi phối, tâm không bị sân chi phối, tâm không bị si chi phối, được nghĩa tín thọ, pháp thọ, tâm hân hoan đến pháp do dựa vào Như Lai. Đây là cách niệm Phật mà Đức Thích Tôn đã chỉ dạy cho cư sỹ Mahànàma trong chương Sáu Pháp, Tăng Chi Bộ (Pali). Khi tâm không bị tham sân si chi phối do dựa vào Đức Phật, tức là hành giả xả bỏ tâm tự ngã (không tham, không sân, không si) khi Niệm Phật, Niệm ân đức Như Lai.
14/04/2019(Xem: 8037)
Theo âm Hán Viêt, A Di Đà Phật có nghĩa là Vô Lượng Thọ Phật, Vô Lượng Quang Phật, Tây Phương Phật. Trong kinh A Di Đà, Đức Phật Thích Ca giảng là Phật A Di Đà, Giáo Chủ cõi Cực Lạc (Soukhavati (Scr.), ở phương Tây, cách cõi Ta Bà của chúng ta mười vạn ức cõi Phật. Đó là một cõi đầy đủ các công đức trang nghiêm. Lầu các, cây cối, đất đai toàn là châu báu. Nào là các loài chim bạch hạt, khổng tước, anh võ, xá lợi, ca lăng tầng già v.v… ngày đêm sáu thời ca hát ra những lời pháp: năm căn, năm lực, bảy món bồ đề, bát chánh đạo… Đức Phật A Di Đà tự thân có ánh sáng vô lượng, chiếu khắp cả mười phương mà không có vật gì có thể ngăn che. Vì vậy nên Phật A Di Đà có nghĩa là Vô Lượng Quang Phật. Ngài có đời sống dài vô hạn lượng nên còn có nghĩa là Vô Lượng Thọ Phật.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567