Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Bốn Động Tâm

16/12/201003:14(Xem: 5476)
Bốn Động Tâm


bodhgaya_1BỐN ĐỘNG TÂM
Tâm Diệu

Lời Ban Biên Tập: Một cư sĩ học giả viết trong một quyển sách đã xuất bản, trong đó có lập lại một lời nói của đức Phật không được đúng như trong kinh đã ghi, điều này có thể tạo cho Phật tử hiểu lệch lạc về đạo Phật dẫn tới một đạo Phật mê tín. Họ nói Đức Phật nói rằng: “… Nếu vị thiện tâm nào đến bốn nơi Thánh địa này thành tâm chiêm bái và đảnh lễ sẽ được nhiều phước báu và duyên lànhvà nếu có vị thiện tâm nào có duyên được trút hơi thở cuối cùngtại một trong những Thánh địa này, chắc chắn người ấy sẽ được tái sanh vào cảnh giới thanh nhàn..” Bài viết dưới đây làm sáng tỏ vấn đề:

Sau khi nhận bữa cơm cúng dường cuối cùng của cư sĩ Thuần Đà, đức Phật bị nhiễm bệnh nặng và nói với tôn giả A Nan đi đến thành Câu Thi Na (Kushinagar). Trên đường đi, mặc dầu sức khỏe Ngài yếu, nhưng đức Phật vẫn tiếp tục nói Pháp khi có người đến hỏi.

Đến rừng Sa La, Ngài nằm nghỉ trên chiếc võng giữa hai cây sa la song thọ và như một một điềm báo đặc biệt, cây sa la song thọ trổ hoa trái mùa tràn đầy cành lá, những đóa hoa này rơi lên, tung vãi trên thân Như Lai để cúng dường, rồi chư Thiên thần khắp mười phương thế giới tụ hội về để chiêm ngưỡng Như Lai lần cuối. Ngài nói với A Nan tối hôm nay vào canh cuối cùng, Như Lai sẽ nhập diệt nơi rừng Sa La này.

Lo ngại sau khi Phật nhập diệt sẽ không còn cơ hội gặp gỡ và học hỏi nơi các vị trưởng lão Tỳ kheo, khi các vị ấy đến bái yết Phật, nên A Nan thỉnh cầu đức Thế Tôn giải tỏa nỗi niềm này.

Phật dạy:

"- Này A Nan, có bốn Thánh tích kẻ thiện tín cần phải chiêm ngưỡng và tôn kính. Bốn Thánh tích đó là: Nơi Như Lai đản sanh, Nơi Như Lai chứng ngộ vô thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, nơi Như Lai chuyển Pháp luân vô thượng, và nơi Như Lai diệt độ, nhập Vô dư y Niết Bàn."

Phật nói tiếp:

"- Này A Nan, đó là bốn Thánh tích, kẻ thiện tín cư sĩ cần phải chiêm ngưỡngtôn kính. Này A Nan, các thiện tín Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, cư sĩ nam, cư sĩ nữ sẽ đến với niềm suy tư: "Đây là chỗ Như Lai đản sanh", "Đây là chỗ Như Lai chứng ngộ vô thượng Chánh Đẳng Chánh Giác", "Đây là chỗ Như Lai chuyển Pháp luân vô thượng", "Đây là chỗ Như Lai diệt độ, nhập Vô dư y Niết Bàn."

"- Này A Nan, và những ai, trong khi đi chiêm bái những Thánh tích mà từ trần với tâm thâm tín hoan hỷ, thời những vị ấy, sau khi thân hoại mạng chung sẽ sanh cõi thiện thú, cảnh giới chư Thiên."[1]

Đó là lời dạy trong những giây phút cuối cùng của đức Phật, Ngài khuyên chúng ta nên đến chiêm ngưỡng bốn Thánh tích với lòng tôn kínhvà với "tâm thâm tín hoan hỷ". Nếu được như vậy, khi mệnh chung sẽ sanh cõi người hay cõi trời.

Muốn được như thế, người hành hương, không chỉ đến đó tham quan cảnh trí di tích mà còn phải mang theo hai yếu tố tâm quan trọng là: tâm thâm tín, và tâm hoan hỷ.

Chắc chắn khi đến bốn nơi này ai ai cũng có tâm vui sướng, hoan hỷ. Còn việc tâm thâm tín, chắc không phải chỉ là tâm thâm tín, khi đứng trước bốn Thánh tích đó, mà phải luôn luôn canh cánh mang theo bên mình, cho đến khi thân hoại mạng chung.

Thâm tín cái gì? Đó là tin sâu, tin bền và tin chắcvề ba ngôi quý báu Tam Bảo: Phật, Pháp và Tăng, vì ba ngôi quý báu này có năng lực dẫn dắt con người thoát khỏi mọi tà kiến, phiền não, khổ đau và ra khỏi sinh tử luân hồi.

Phậtlà Giác, là thức tỉnh ra khỏi giấc ngủ mê. Đức Phật là người đã giác ngộ và giải thoát hoàn toàn. Ngài là một bậc đạo sư, một người chỉ lối dẫn đường cho mọi chúng sinh thoát khỏi sinh tử luân hồi.

Pháplà những lời Phật dạy các đệ tử, sau đó được ghi bằng chữ, gọi là Kinh và Luật. Còn Luận là những lời bàn luận của các vị Bồ tát, đệ tử của Phật để làm sáng tỏ thêm những lời Phật dạy, những lời dạy mà, nếu chúng ta thực hành sẽ có công năng đưa chúng ta qua khỏi bể khổ, đến bến bờ giải thoát.

Tănglà một đoàn thể sống chung với nhau ít nhất là bốn người, bỏ nhà xuất gia đi tu, giữ đầy đủ giới luật của Phật đặt ra, với mục đích tu hành giải thoát cho mình và cho tất cả chúng sinh, là những người thay Phật dẫn dắt chúng sinh trên đường đạo.

Khi đứng trước các Thánh tích, chúng ta có niềm tin chắc chắn về Phật, Pháp, Tăng và giữ vữngniềm tin này không đổicho đến khi mệnh chung, thì chắc chắn chúng ta sẽ được sanh trong cảnh giới Trời người.

Được biết bốn Thánh tích đó là Lâm Tỳ Ni(Lumbini), nơi Phật đản sanh, hiện nay thuộc Vương quốc Nepal, nằm gần ranh giới với phía Bắc Ấn Độ. Thánh tích thứ nhì là Bồ Đề Đạo Tràng(Bodh-Gaya), nơi Phật thành đạo, nằm ở phía Bắc Aán Độ. Thánh tích thứ ba là Vườn Lộc Uyển(Sarnath), nơi Phật chuyển pháp luân đầu tiên, cách thành phố Ba La Nại (Varanasi) khoảng 7 dặm thuộc miền Trung Bắc Aán Độ. Thánh tích thứ tư là Câu Thi Na(Kushinagar), nơi Phật nhập Niết Bàn, cách thành phố Gorakhpur 52 km thuộc miền Đông Bắc Aán Độ.

Bốn Thánh tích đó còn được gọi là bốn động tâm, bởi vì nếu như chúng ta đến được bốn nơi Thánh tích này thì do tận mắt thấy được các di tích lịch sử đức Phật, thấy được di tích nơi Ngài hiện thân, nơi Ngài thành đạo, nơi Ngài chuyển pháp luân, nơi Ngài Niết Bàn và nơi những dấu chân Ngài đã đi qua, nên lòng tin phát khởi và tăng trưởng, tức rung động tâm thức. Nhờ lòng tin tăng trưởng nên có thái độ quyết chí tu hành, hạ thủ công phu, quyết không làm điều ác, làm tất cả việc lành và nhiếp tâm thanh tịnh và do tiến trình nhân quả, quả báo tươi tốt đơm hoa kết trái, chắc chắn khi mệnh chung sẽ sanh cõi người hay cõi Trời, hưởng phước báu lâu dài.

Điều quan trọng là phải động tâm, tức lòng tin phát khởi nếu chưa có lòng tin, và tăng trưởng lòng tin nếu đã có lòng tin, còn nếu đến mà tâm thức không mảy may rung động, và không nỗ lực tu hành sau đó, thì cũng giống như những người dân Ấn Độ hay Nepal thấy bốn Thánh tích này hàng ngày, thử hỏi họ có hưởng phước báu không, có sanh cõi trời khi lâm chung không hay những người có nhiều tiền của, có phước báu đi Ấn Độ nhiều lần, đến nơi có thể có động tâm nhưng rồi khi trở về theo thời gian lòng tin nguội dần, không nỗ lực tu tập, không quyết chí tu hành, thì theo tiến trình nhân quả sẽ ra sao? kiếp sau có được hưởng nhiều hay bị bớt phước báu không?

Còn như những ai đã đã tin sâu xa, tin chắc chắn và tin bền bỉ vào Tam Bảo, vào chân tâm Phật tánh, và vào nhân quả luân hồi, thì nếu có điều kiện đi chiêm ngưỡng bốn Thánh tích này thì càng tốt, hãy nên đi, tuy nhiên đi để biết, để thấy, để tưởng nhớ Phật, để tri ân Ngài hơn là mang ý nghĩa cầu phước báu. Còn nếu nói rằng nếu đến tứ động tâm để nhờ Phật ban phước thì không đúng với nhân quả. Vấn đề là tăng tín tâm rồi đắc lực tu hành. Trong những lời dạy của Ngài, không có lời nào Ngài nói là đến đó để cầu phước báu.

Tâm Diệu

Cước Chú:

Trong ba bản dịch, chúng tôi chọn bản dịch Kinh Đại Bát Niết Bàn trong Kinh Trường Bộ Tập 1, hệ Pali do Hòa Thượng Minh Châu dịch làm tài liệu chủ yếu, vì chỉ có bản này mới có nhóm từ "tâm thâm tín hoan hỉ" nơi đoạn cuối của đoạn thứ 8 mục thứ V (trang 644). Hai bản dịch kia từ Hán tạng, không có nhóm từ này mà thay thế bằng nhóm từ "kính lễ, xây dựng chùa tháp" (Kinh Trường A Hàm, Viện Cao Đẳng Phật Học Huệ Nghiêm dịch, trang 204 ), "kinh hành kínhlễ, dựng chùa tháp cúng dường" (Kinh Trường A Hàm, Hòa Thượng Thích Thiện Siêu dịch, trang 110).

Tham Chiếu:

[1]-Kinh Trường Bộ, Tập 1, Kinh Đại Bát Niết Bàn, (Hệ Pali), Việt dịch: Hòa Thượng Thích Minh Châu, Viện Nghiên Cứu Phật Học Việt Nam ấn hành năm 1991, trang 643-644.
[2]-Kinh Trường A Hàm, Tập 1, Kinh Du Hành, (Hệ Sanscrit), Việt dịch:Viện Cao Đẳng Phật Học Huệ Nghiêm, Viện Nghiên Cứu Phật Học Việt Nam ấn hành năm 1991, trang 203-204.
[3]-Kinh Trường A Hàm, Quyển 4, kinh Du Hành, Việt dịch: HT. Thích Thiện Siêu, Phật Học Viện quốc Tế xuất bản 1986, trang 110-111.
[4] Ấn bản Anh ngữ tại http://world.std.com/~metta/canon/digha/dn16.html(Part Five, "Four Places of Pilgrimage")

bodedaotrang-01010152
Bồ đề Đạo tràng, nơi Đức Phật giác ngộ. (Bodhgaya)
hanhhuong-02-008
Lâm Tì Ni, nơi Đức Phật đản sinh. (Lumbini)
bondongtam-locuyen
Vườn Lộc Uyển, nơi Đức Phật giảng pháp lần đầu. (Sarnath - TP. Varanasi) (Ảnh: Bình Anson)
hanhuong-03-009
Bên trong đền là tượng Phật nhập diệt, nằm nghiêng bên phải, đầu về hướng bắc.
Tượng được đặt trên một bệ đá, mặt trước có khắc chữ đánh dấu vào thế kỉ thứ năm sau công nguyên.
Tượng vốn bằng đồng, nhưng người hành hương lần lượt thếp vàng lên trên

bondongtam-cauthina
Câu Thi Na, nơi Đức Phật niết bàn. (Kushinagar)(Ành: Bình Anson)

Các thánh tích:
· Lumbini (Lâm-tì-ni) - Nơi đản sinh
· Bodh Gaya (Bồ-đề Đạo tràng) - Nơi thành đạo
· Sarnath (Lộc uyển) - Nơi chuyển pháp luân
· Kusinara (Câu-thi-na) - Nơi bát-niết-bàn

· Kapilavatthu (Ca-tì-la-vệ) - Quê hương của Ngài
· Sankassa - Nơi Ngài từ cung trời Đa-lợi trở về dạy A-tỳ-đàm cho ngài Xá-lợi-phất
· Rajgir/Rajagaha (Vương xá) - Kinh đô của vương quốc Ma-kiệt-đà (Magadha)
· Gijjakuta (Linh thứu) - Nơi Ngài thường giảng đạo trong những năm đầu tiên.
· Veluvana (Trúc lâm) - Tinh xá do vua Bình-sa (Bimbisara) dâng cúng.
· Kosambi (Câu-diệm-bi) - Nơi Ngài giảng pháp lục hòa kính.
· Savathi (Xá-vệ) - Tinh xá Kỳ Viên, nơi Ngài ngự trong 20 năm cuối.
· Vesali (Vệ-xá-ly) - Kinh đô của bộ tộc Licchavi. Nơi thành lập Ni đoàn, do bà Kiều-đàm-di lãnh đạo.
· Varanasi (Ba-na-lại) - Kinh đô của bộ tộc Kasị Thành phố lớn bên bờ sông Hặng
· Mathura - Trung tâm văn hóa điêu khắc.
· Indapatta - Kinh đô của bộ tộc Kuru, nơi Ngài giảng kinh Niệm xứ.

Xem bản đồ:
ducphatlichsu-20map-sm
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
16/03/2024(Xem: 1045)
Nam Mô có nghĩa là Trở về A, nghĩa là: vô Di Đà, nghĩa là: Lượng Phật, nghĩa là Giác, tánh biết Niệm danh hiệu: Nam Mô A Di Đà Phật, có nghĩa là “ trở về với tánh giác vô lượng của bản thân mình, đó là A Di Đà tánh, là ông Phật của chính mình” Cứu cánh của Pháp môn Tịnh Độ là đạt tới điểm chung của Thiền cũng là khám phá ra ông chủ của mình . Tịnh Độ là ông Phật của chính mình chứ không phải ở ông Phật Tây Phương Cực Lạc. 🏵️🌼🍁🌺🍀🌹🥀🌷🌸🏵️
20/01/2024(Xem: 588)
Quyển này bút giả tuyển dịch từ nguyên bản Tịnh Độ Thánh Hiền Lục của Phật giáo Trung Hoa. Bộ Tịnh Độ Thánh Hiền Lục do cư sĩ Bành Tế Thanh cùng cháu là Hy Tốc, người đời Càn Long nhà Thanh sưu tập những truyện niệm Phật được vãng sanh soạn thành. Đến cuối đời Đạo Quang, Thanh triều, Liên Quy cư sĩ Hồ Đỉnh góp nhặt các chuyện vãng sanh tục biên thêm. Sang đời Trung Hoa Dân Quốc, Đức Sum Pháp sư lại sưu tập những sự tích tu Tịnh độ có ứng nghiệm bổ túc vào. Trước sau có tất cả được gần một ngàn truyện.
18/11/2023(Xem: 3309)
Cách đây chừng 30 năm, Tổ Đình Viên Giác tại Hannover Đức Quốc chúng tôi có nhận được bộ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh (Taisho Shinshu Daizokyou) bằng Hán Văn gồm 100 tập do cố Hòa Thượng Thích Tịnh Hạnh từ Đài Loan giới thiệu để được tặng. Bộ Đại Tạng Kinh giá trị này do Phật Đà Giáo Dục Cơ Kim Hội xuất bản và gửi tặng đến các nơi có duyên. Phật Đà Giáo Dục Cơ Kim Hội dưới sự chứng minh và lãnh đạo tinh thần của cố Hòa Thượng Thích Tịnh Không đã làm được không biết bao nhiêu công đức truyền tải giáo lý Phật Đà qua việc xuất bản kinh điển và sách vở về Phật Giáo, với hình thức ấn tống bằng nhiều ngôn ngữ khác nhau như: Hoa Ngữ, Anh Ngữ, Pháp Ngữ, Đức Ngữ, Việt Ngữ. Nhờ đó tôi có cơ hội để tham cứu Kinh điển rất thuận tiện.
18/04/2023(Xem: 3529)
Lời Giới Thiệu Sách “Nhân Hạnh Vãng Sanh” của Trí Khiêm
09/04/2023(Xem: 2173)
Trong quá trình chiến tranh Hoa Nhựt, một mặt Vương triều Nhật Bản muốn thiết lập một nền cai trị Đại Đông Á thống trị vùng Bắc Á và Đông Nam Á để khống chế về thu nhập tài nguyên kinh tế cho bản địa: Một mặt không phải người Nhật nào cũng muốn gây chiến tranh với các nước láng giềng, mà cần có sự giao lưu về văn hóa, văn học, tôn giáo, nên một số đông người Nhật đến Trung Hoa nghiên cứu học hỏi văn hóa lâu đời vào hàng thứ nhứt trên thế giới, văn hóa Khổng, văn hóa Lão Trang, văn hóa Phật Giáo, trong đó có giao lưu văn hóa Phật Giáo. do đó trong lĩnh vực hiệp hội Phật Giáo Trung Hoa do Đại sư Thái Hư sáng lập có những thành viên là người Nhựt, nên vấn đề ảnh hưởng các tông, phái Thiền Tịnh dành cho những người tu Phật của Phật
14/03/2023(Xem: 5439)
Trong xã hội bận rộn ngày nay, con người phải đối mặt với nhiều vấn đề tâm lý làm ảnh hưởng đến chất lượng sống, và đã đến lúc chúng ta cùng thư giãn, chú trọng đến sức khỏe tinh thần nhiều hơn. Cách thực hành dễ nhất, nhanh nhất, hiệu quả nhất là cùng Headspace, 10 phút thiền định mỗi ngày để thay đổi cuộc sống. Với những kiến thức mới về thiền trong bộ sách 3 cuốn rất mỏng và dễ đọc để ứng dụng này, chúng ta chắc chắn có lối sống tích cực, vui vẻ hơn và bình an hơn. Bộ sách gồm 3 cuốn mang đến những lợi ích khác nhau, từ quản lý sự căng thẳng đến trân trọng và biết ơn cuộc sống. Hướng dẫn những kỹ thuật căn bản nhất về thực hành thiền là mấu chốt để thay đổi cuộc sống của bất cứ ai may mắn đọc sách này.
21/08/2022(Xem: 3659)
Lời dạy của Đức Phật, được ghi chép lại dưới dạng Kinh tạng. Hai ngàn sáu trăm năm đã trôi qua, bánh xe Đạo Pháp chuyển động không ngừng, dạy con người cách sống an lạc. Muốn sống an lạc, người học Phật phải liễu tri và hành trì, tu tập đúng lời Phật dạy.
30/11/2021(Xem: 4158)
Người Phật tử chân chánh hiểu rằng Chân Lý Tuyệt Đối là không thể nghĩ bàn. Tất cả các pháp môn đều chỉ là phương tiện giúp ta đạt tới cái không nghĩ bàn đó. Trong khi tu hành, ta có thể chọn vào cửa Hữu (Tịnh độ) hay vào cửa Không (Thiền), tùy căn cơ và sở thích. Nếu ai cố chấp pháp mình là đúng, chê bai người khác sai – là chứng tỏ mình chưa hiểu chân lý là thứ gì. Vả lại, thuốc không có quí tiện: thuốc trị được bịnh là thuốc hay. Đại khái, Thiền là pháp môn cao thượng và thẳng tắt dành cho bậc Thượng căn, trong khi Tịnh độ dễ hiểu dễ hành và dễ chứng, cho nên cả Ba căn đều có thể tu được. Đức Bổn Sư Thích-Ca giảng pháp nầy chủ ý nhằm cứu độ chúng sanh thời Mạt pháp. Như trong kinh Đại Tập, Ngài nói: “Thời Mạt pháp, ức ức người tu hành ít có kẻ nào đắc đạo, chỉ nương nhờ pháp môn Tịnh độ mà thoát khỏi luân hồì.” Cho nên thời nầy người tu Tịnh độ thành công được vãng sanh vô số (có thoại chứng rành rành), trong khi Thiền sư đắc đạo (như khi xưa) có thể nói rất hiếm, đếm
05/11/2021(Xem: 11498)
Đại sư Ấn Quang nói: “Kẻ câu nệ vào Tích môn thì bảo: “Trong tất cả pháp, mỗi pháp đều sai khác”. Kẻ khéo nhìn sẽ nói: “Trong tất cả pháp, pháp pháp đều viên thông”. Như bốn cửa thành, gần cửa nào thời vào cửa ấy. Cửa tuy khác nhau, nhưng đều đưa vào một thành chẳng khác. Nếu biết ý này thì chẳng phải chỉ có những giáo lý rất sâu do chư Phật, chư Tổ đã nói mới là pháp để quy chân đạt bổn, minh tâm kiến tánh, mà hết thảy Ấm, Nhập, Xứ, Giới, Đại v.v... trong khắp thế gian cũng đều là pháp để quy chân đạt bổn, minh tâm kiến tánh! Mỗi một pháp cũng chính là chân, là bổn, là tâm, là tánh!”. Tập Lời Vàng (Gia Ngôn Lục) dù là toát yếu nhưng với một kẻ hậu học như tôi thì lại tự thấy mỗi mỗi câu nói của Đại Sư Ấn Quang đều bao hàm ý pháp, chỗ nào cũng cần phải học, chẳng thể đọc lướt qua nên phải dịch thuật đến ngàn ngàn câu kệ, hầu mong chuyển đạt lời lời ân cần tha thiết của Đại sư; chỉ để lại phần nói về các chính biến tại Trung Hoa, và những câu nói lập lại từ các bài giảng của Đại sư q
20/10/2021(Xem: 5162)
Kính số 52 Bát Thành có đoạn viết về sơ thiền một cách ngắn gọn như sau: “Ở đây, này Gia chủ, Tỷ-kheo ly dục, ly bất thiện pháp chứng và trú Thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, có tầm, có tứ” (Trung Bộ Kinh, 52 Kinh Bát Thành). Kinh văn quá súc tích về sơ thiền như vậy khó có thể thấm thấu được thâm ý của Thế Tôn, tạo ra nhiều kiến giải của các bút giả, hành giả, học giả vv, khiến quý Phật tử hoang mang. Sau đây là một trong những kiến giải của một hành giả được một đạo hữu chuyển cho Tâm Tịnh về sơ thiền: Hai bài kinh: Kinh Sa Môn Quả và Tiểu Kinh Dụ Lõi Cây, Phật dạy: “Tỳ kheo ly dục, ly bất thiện pháp, chứng và trú Thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh vời tầm với tứ (có giác có quán). Muốn đạt được cảnh giới này vị này phải ly dục nơi các căn, tức là thanh lọc nhiễm ô nơi các căn. Để ly dục, vị này học hạnh viễn ly, hạnh Tỷ kheo (hạnh xuất gia) theo lời dạy trong kinh: “Ở đây có người vì lòng tin xuất gia từ bỏ gia đình, sống không gia đình
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567