Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Pháp Tu Mười Niệm Ngài Từ Vân Sám Chủ. (Dùng cho người bận nhiều việc, mỗi ngày tu 10 phút )

03/09/202106:40(Xem: 8553)
Pháp Tu Mười Niệm Ngài Từ Vân Sám Chủ. (Dùng cho người bận nhiều việc, mỗi ngày tu 10 phút )

phat di da tiep dan


Pháp Tu Mười Niệm

Ngài Từ Vân Sám Chủ.

(Dùng cho người bận nhiều việc, mỗi ngày tu 10 phút )


1. Tịnh pháp giới chơn ngôn:

“Án lam tóa ha” (3 lần)

 

2. Tịnh tam nghiệp chơn ngôn: “Án ta phạ bà phạ, thuật đà ta phạ, đạt ma ta phạ, bà phạ thuật độ hám” (3 lần)

 

3. Chí  Tâm Đảnh Lễ : “Nam Mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới Tam Thập Lục Vạn Ức, Nhất Thập Nhất Vạn, Cửu Thiên Ngũ Bá Đồng Danh Đồng Hiệu A Di Đà Phật”. (đọc 3 lần, 3 lạy & 3 xá)

 

4. Mười niệm là: “Nam Mô A Di Đà Phật (đọc 10 hơi thở *)

 

5. Phát nguyện: Ngài Từ Vân.

5.1). Đệ tử tên là: Một lòng quy kính Đức Phật A Di Đà, Thế giới Cực Lạc, Nguyện lấy hào quang, Trong sạch soi cho, Lấy thệ từ bi, Mà nhiếp thọ cho, Con nay chánh niệm,  Niệm hiệu Như Lai, Vì đạo Bồ Đề, Cầu sanh Tịnh Độ.

Phật xưa có thệ: “Nếu có chúng sinh, Muốn sinh về nước ta, Hết lòng  tín nguyện,  Cho đến mười niệm,  Nếu  chẳng đặng sinh,  Chẳng thành Chánh Giác”. Do vì nhân duyên, Niệm hiệu Phật nầy, Được vào trong bể, Đại thệ Như Lai, Nhờ sức Từ Bi, Các tội tiêu diệt, Căn lành tăng trưởng,  Khi mạng gần chung,  Biết trước giờ chết, Thân không bệnh khổ,  Tâm không tham luyến,  Ý không điên đảo, Như vào Thiền định. Phật và Thánh Chúng,  Tay nâng kim đài, Cùng đến tiếp dẫn, Trong khoảng một niệm,  Sinh về Cực Lạc, Sen nở thấy Phật, Liền  nghe Phật thừa, Chóng mở Phật tuệ, Khắp độ chúng sanh, Trọn Bồ Đề nguyện.

 

5.2).Chúng sanh không số lượng,

      Thệ nguyện đều độ khắp.

Phiền não không cùng tận,

Thệ nguyện đều dứt sạch.

Pháp môn không kể xiết,

Thệ nguyện đều tu học,

Phật đạo không gì hơn,

Thệ nguyện được viên thành.

 

6. Hồi Hướng:

6.1). Ngã kim trì niệm A Di Đà Phật, Tất phát Bồ Đề quảng đại nguyện,

 

 

 

Nguyện ngã định huệ tốc viên minh,

Nguyện ngã công đức giai thành tựu,

Nguyện ngã thắng phước biến trang nghiêm, Nguyện cộng chúng sanh thành Phật đạo.

 

  6.2). Các tội ác xưa con lầm lỡ,

Do tham sân si muôn thuở gây nên,

         Từ thân miệng ý sanh lên,

 Nay con cả thảy đều bền sám luôn.

 

 6.3). Nguyện con đến lúc sắp lâm  

      chung, Diệt trừ tất cả các chướng

      ngại, Tận mặt gặp Phật A Di Đà,

       Liền được vãng sinh cõi Cực lạc.

 

 6.4). Nguyện đem công đức này,

  Trang nghiêm Phật Tịnh độ,

  Trên đền bốn ơn nặng,

   Dưới cứu khổ ba đường,

   Nếu có ai thấy nghe,

   Đều phát Bồ Đề Tâm,

   Khi mãn báo thân này,

   Sanh qua cõi Cực Lạc.

       

 Nam Mô A Di Đà Phật (đọc 3 lần3 lạy &3 xá)

 

 

*Ghi chú:   

1).Đức Phật A Di Đà có lời phát nguyện thứ 18 rằng: “Giả sử khi tôi thành Phật, chúng sanh ở mười phương chí tâm tin ưa muốn sanh về nước của tôi, nhẫn đến mười niệm, nếu không được sanh, thì tôi chẳng lấy ngôi Chánh Giác”. Ai phát tâm chuyên chấp trì danh hiệu  niệm “Nam Mô A Di Đà Phật” là người ấy hiện đời tiêu trừ tai nạn, giải oan kết, tăng trưởng phước đức, bảo toàn tuổi thọ, và nhân duyên thù thắng sinh cõi Cực Lạc, vĩnh viễn an vui, thoát vòng sinh tử luân hồi.

2). Mỗi ngày, vào sáng sớm, sau khi mặc áo đàng hoàng hoặc áo tràng, hành giả đứng quay mặt vể bàn Phật hoặc về hướng Tây, chấp tay và niệm lớn danh hiệu “Nam Mô A Di Đà Phật. Hết một hơi là một niệm. Đủ mười hơi như vậy là mười niệm. Chỉ tùy hơi của hành giả dài hay ngắn chứ không giới hạn ở số lượng danh hiệu Phật. Điều quan trọng là duy trì công phu ấy cho dài lâu và lấy lúc hết hơi làm mốc. Tiếng niệm Phật của hành giả không cao thấp, không nhanh chậm. Mục đích của mười niệm là khiến cho tâm hành giả không tán loạn, lấy sự chuyên tinh làm công. Vì thế, gọi là mười niệm tức là nói rõ việc mượn hơi để gom tâm. (Long Thư Tăng Quảng Tịnh Độ Văn- Tiến Sĩ Vương Nhật Hưu)

3). Kinh Phật dạy rằng:“ Người nào thọ trì danh hiệu Phật, hiện đời sẽ được mười điều thắng lợi:

 

1. Ngày đêm thường được tất cả chư Thiên, đại lực thần tướng, hằng sa quyến thuộc ẩn mình theo ủng hộ.

2. Thường được hai mươi lăm vị Bồ Tát, như Bồ Tát Quán Thế Âm... và tất cả các vị Bồ Tát khác thường đi theo ủng hộ. 3.Thường được chư Phật ngày đêm hộ niệm, Đức Phật A Di Đà thường phóng ánh sáng, nhiếp thọ người này.

4.Tất cả ác quỷ, hoặc Dạ- Xoa, hoặc La Sát không thể làm hại, tất cả rắn độc, rồng độc, thuốc độc, thảy đều không thể xâm hại.

5. Các nạn lửa, giặc oán đao tên, gong xiềng, tù ngục, hoạnh tử, cuồng tử, thảy đều không phải chịu.

6. Các nghiệp đã làm trước đây, thảy đều tiêu diệt, những oan mạng bị đương nhân giết, nhờ công đức niệm Phật thảy đều được giải thoát, lại không còn báo thù.

7. Đêm ngủ mộng thấy toàn việc lành, hoặc thấy sắc thân vi diệu của Phật A Di Đà.

8. Tâm thường hoan hỷ, nhan sắc sáng nhuận, khí lực sung mãn, việc làm luôn có kết quả tốt đẹp.

9. Thường được mọi người trong thế gian cung kính cúng dường, hoan hỷ lễ bái như cung kính Phật.

10. Sau khi mạng chung, tâm không sợ hãi, chánh niệm hiện tiền, được thấy Đức Phật A

Di Đà và các bậc Thánh tay bưng đài vàng tiếp dẫn vãng sanh về Tây phương Cực Lạc, 

cùng tận kiếp vị lai hưởng thọ mọi sự vui mầu nhiệm.

Mười điều lợi ích trên đây, kinh văn đã ghi lại, chính do từ kim khẩu của Phật nói ra, đã có sự lợi ích trong đời này và đời sau. Do đó, pháp Tịnh độ là pháp khẩn yếu trong các môn thế và xuất thế gian. Phật tử chỉ nên tinh tấn niệm Phật, chớ nên ôm lòng hoài nghi.  (Trích Tịnh Độ Hoặc Vấn- Đời Nguyên, Sư Tử Lâm Thiên Như Trước Tác)

-Theo kinh Quán Vô Lượng Thọ, người Hạ phẩm Hạ sinh, thành tựu mười niệm liền vãng sinh Tịnh độ; niệm Phật một tiếng nhất định được diệt trừ tội nặng của sự sinh tử trong tám mươi ức kiếp. Một niệm đã có thể diệt tội nặng của sự sinh tử trong tám mươi ức kiếp, ắt biết rõ rằng lại được công đức vi diệu trong tám mươi ức kiếp. Do đó nên biết, một pháp niệm Phật tức là nhiều căn lành.
(Trích niệm Phật Cảnh- Đại Sư Thiện Đạo)

- Tư lương của pháp tu Tịnh Đô Tông: “Tín Sâu- Nguyện Thiết- Chấp Trì Danh Hiệu Chuyên Cần”: “Nam Mô A Di Đà Phật”.  


Thượng Tọa Thích Đạo Thông soạn thảo

Chùa Hưng Long

179 Gladstone St

Cabramatta NSW 2166 Australia

Tel: (02) 9726 0394


facebook-1


***
youtube

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
10/09/2021(Xem: 3374)
Ngũ uẩn là yếu tố tạo nên thân và tâm con người. Ngũ uẩn, bao gồm sắc, thọ, tưởng, hành, thức.
03/09/2021(Xem: 31509)
(Thắp đèn đốt hương trầm xong, đứng ngay ngắn chắp tay để ngang ngực mật niệm) 1. TỊNH PHÁP GIỚI CHƠN NGÔN: Án, lam xóa ha. (3 lần) 2. TỊNH KHẨU NGHIỆP CHƠN NGÔN: Tu rị, Tu rị, Ma ha tu rị, Tu tu rị, Ta bà ha. (3 lần) 3. TỊNH TAM NGHIỆP CHƠN NGÔN Án, Ta phạ bà phạ thuật đà ta phạ, đạt ma ta phạ, bà phạ thuật độ hám. (3 lần) 4. PHỔ CÚNG DƯỜNG CHƠN NGÔN: Án, Nga nga nẵng tam bà, phạ phiệt nhựt ra hồng (3 lần) 5. AN THỔ ĐỊA CHƠN NGÔN: Nam mô tam mãn đa một đà nẫm, Án, độ rô độ rô, địa vỷ ta bà ha (3 lần) Hộ pháp, Vĩ Đà thị chứng minh Thân trụ Phật tiền Tâm Tư nguyện Tưởng bằng bí chú đắc oan linh Hà chơn bất thức trì niệm Luật Thiên kinh vạn quyển vô nhất tự Nẳng mô tô tất đế, đa rị, đa rị, mạn đà, mạn đà, ta bà ha (3 lần)
03/09/2021(Xem: 9044)
Pháp hành Trì để vượt thoát Đại Nạn Covid-19
24/06/2021(Xem: 4051)
— Thiện Tịch Bồ Tát tạo Tây Thiên dịch Kinh Tam Tạng Triêu Phụng Đại Phu Thức Quang Lục Khanh Truyền Pháp Đại Sư Sắc Tử Thần Thí Hộ Phụng chiếu dịch. — Thứ tự kinh văn số 1638 Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh Quyển thứ 32 thuộc Luận Tập Bộ Toàn từ trang 150 đến 155. — Sa Môn Thích Như Điển, Phương Trượng Chùa Viên Giác Hannover, Đức Quốc dịch từ chữ Hán sang tiếng Việt tại Tu Viện Đa Bảo Úc Đại Lợi cùng với sự phụ dịch của Tỳ kheo Thích Đồng Văn, bắt đầu từ ngày 16 tháng 12 năm 2004 nhân kỳ nhập thất lần thứ hai tại đây.
24/06/2021(Xem: 4102)
— Thiện Tịch Bồ Tát tạo Tây Thiên dịch Kinh Tam Tạng Triêu Phụng Đại Phu Thức Quang Lục Khanh Truyền Pháp Đại Sư Sắc Tử Thần Thí Hộ Phụng chiếu dịch. — Thứ tự kinh văn số 1638 Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh Quyển thứ 32 thuộc Luận Tập Bộ Toàn từ trang 150 đến 155. — Sa Môn Thích Như Điển, Phương Trượng Chùa Viên Giác Hannover, Đức Quốc dịch từ chữ Hán sang tiếng Việt tại Tu Viện Đa Bảo Úc Đại Lợi cùng với sự phụ dịch của Tỳ kheo Thích Đồng Văn, bắt đầu từ ngày 16 tháng 12 năm 2004 nhân kỳ nhập thất lần thứ hai tại đây.
12/07/2020(Xem: 6288)
Theo, Đại-Vô-Lượng-Thọ-Kịnh. Đại-A-Di-Đà-Kinh Q1.- Bình-Đẳng-Giác- Kinh Q1. Đại-Bảo-Tích-Kinh Q17. Bi-Hoa-Kinh Q3. Vô-Lượng-Quảng- Trang-Nghiêm-Đại-Thừa-Kinh… Thì đều lạy tu theo 48 nguyện. 48 đại nguyện có đủ trong 6 bộ kinh nói trên. Chỗ cốt yếu cho người tu niệm Phật và lễ lạy 48 đại nguyện là : 1.Tin tưởng tha thiết nguyện về cõi Phật A Di Đà chắc thật diệt sạch hết tâm nghi ngờ. Lòng tin trọn vẹn trong sạch. 2. Lập thời khóa tu niệm lễ lạy trong một ngày đêm 1, 2, hay 3 Thời, Tùy ý thích. Chọn cho thích hợp để tu. Quan trọng là thành tâm. Đừng ham nhiều mà lụy thân rồi chán bỏ! 3. Quyết tâm phát nguyện vãng sanh về Cực Lạc Tịnh Độ, Tâm luôn kính nhớ ưa thích cõi Cực Lạc của Từ Phụ A Di Đà, quí mến Từ Phụ A Di Đà. niệm Hồng danh Phật liên tục, khi xướng lạy lời nguyện thân tâm vui thích mừng rỡ cảm động, thân nhẹ lân lân như ơn Phật đang ban phước cao vời vô tận, đầy tâm an lạc, như thấy mình đầy đủ sức khỏe. Niệm, chừng nào được “nhứt tâm bất loạn” đồng nghĩa với “hế
21/06/2020(Xem: 8589)
Do một thiện niệm vừa phát sinh sau khi TT Thích Nguyên Tạng chấm dứt 48 bài pháp thoại liên tục được livestream trên Facebook của trangnhaquangduc trong mùa cách giản xã hội vì đại dịch Corona vào mỗi sáng sau thời công phu khuya ( với kinh Lăng Nghiêm, Đại Bi và thập chú ) mà người viết mới có dịp ôn lại những gì trong “ PHÁP NGỮ CỦA HT TỊNH KHÔNG” đã được TT Thích Nguyên Tạng Việt dịch và được xuất bản từ 2004. Thời gian trôi qua nhanh quá , thấm thoát đã 16 năm mà đến bây giờ đây là lần thứ ba tôi mới đọc lại , phải nói là rất ân hận cho sự vô minh của mình trong nhiều năm và đã uổng phí thời gian để có thể tu tập đúng hơn nữa .
01/05/2020(Xem: 3573)
Muốn tu học theo Đạo Phật, muốn trở thành Phật tử thời chính bản thân mình phải có chí muốn thành Phật và tự nguyện sẽ thành Phật, vì biết mình có sẵn Phật tánh nên tự tin là mình sẽ thành Phật. Ai tu cũng được cả, dù giàu sang hay nghèo hèn, dù thông minh hay dốt nát, dù già hay trẻ. Tu càng sớm càng hay. Tu chỉ có nghĩa là “sửa đổi”, sửa xấu thành đẹp, sửa ác thành hiền, sửa si mê thành giác ngộ… Tu ở nhà, tu ngoài xã hội, tu ở chùa, nơi đâu cũng được.
21/04/2020(Xem: 6168)
Đức Phật khuyên con người nên diệt trừ ái dục. “Ái” là thích, thương yêu, mến tiếc, luyến ái, tham ái bám víu. “Dục” là ham muốn, tham dục, lạc dục. Ái dục là lòng ham muốn, luyến ái, bám víu, tham hưởng mọi sự sung sướng thường tình đối với người và đối với vật. Có ba loại ái dục: 1. Ái dục theo nhục dục “ngũ trần”: Năm cảnh trần là “sắc, thanh, hương, vị, xúc”. Trần là bụi dơ. Ngũ trần là năm cái có thể thấm bụi dơ vào thân tâm ta, vào chân tính của ta. 2. Ái dục đeo níu theo khoái lạc vật chất, theo quan niệm “đoạn kiến”, nghĩ rằng chết là hết, nên không cần quan tâm đến thiện ác, tội phước, quả báo gì cả, cứ lo hưởng thụ lạc thú vật chất và sự giàu sang hiện tại. 3. Ái dục đeo níu theo khoái lạc vật chất, theo quan niệm “thường kiến”, nghĩ rằng những lạc thú và tài sản sẽ còn với mình mãi mãi, lâu dài vĩnh cửu, trường tồn.
24/08/2019(Xem: 8976)
Niết bàn là khái niệm thể hiện triết lý độc đáo về giải thoát của Phật giáo. Đây là một trạng thái tâm linh hoàn toàn thanh thản, giải thoát khỏi mọi đau khổ của cuộc đời. Trạng thái này có thể đạt được khi còn đang sống (Hữu dư Niết bàn) hoặc khi đã chết (Vô dư Niết bàn). Phật giáo Tiểu thừa hướng tới Vô dư Niết bàn - một Niết bàn tịch diệt, cô đơn, từ bỏ mọi thú vui trần thế. Phật giáo Đại thừa lại hướng tới Hữu dư Niết bàn - một Niết bàn nhân bản, nhập thế và hoạt động cùng những buồn vui nhân thế. Quan niệm này đã mang lại một sức hấp dẫn, sức sống mới cho Phật giáo, đặc biệt là trong xã hội hiện đại.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567