Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Chương ba mươi mốt

10/07/201103:30(Xem: 9644)
Chương ba mươi mốt

KINH KIM CANG CHƯ GIA

KIM CANG NGŨ THẬP TAM GIA

CHƯƠNG BA MƯƠI MỐT

156.ÂM:

"Tu Bồ Đề! Nhược nhơn ngôn: Phật thuyết ngã kiến, nhơn kiến, chúng sanh kiến, thọ giả kiến - Tu Bồ Đề! Ư ý vân hà? Thị nhơn giải ngã sở thuyết nghĩa phủ?". - "Phất dã, Thế Tôn ! Thị nhơn bất giải Như Lai sở thuyết nghĩa. Hà dĩ cố? - Thế Tôn thuyết ngã kiến, nhơn kiến, chúng sanh kiến, thọ giả kiến, tức phi ngã kiến, nhơn kiến, chúng sanh kiến, thọ giả kiến, thị danh ngã kiến, nhơn kiến, chúng sanh kiến, thọ giả kiến".

NGHĨA:

"Này Tu Bồ Đề! Bằng ông nào nói Phật nói: ngã kiến, nhơn kiến, chúng sanh kiến, thọ giả kiến. Tu Bồ Đề! Ý ông thế nào? - Người ấy có tỏ nghĩa lý của Ta nói không?".

"Bạch đức Thế Tôn ! Không - Người ấy tỏ nghĩa lý của Phật nói.

Bởi cớ sao? - Bởi Phật nói ngã kiến, nhơn kiến, chúng sanh kiến, thọ giả kiến, nhưng chẳng phải ngã kiến, nhơn kiến, chúng sanh kiến, thọ giả kiến, chỉ cưỡng danh là ngã kiến, nhơn kiến, chúng sanh kiến, thọ giả kiến vậy thôi".

Giải :Thông Vương Như Lai giải: Phật nói bốn câu đó, là chỉ nói kiến tánh, chớ chẳng phải nói tướng.

Nói lập lại ba lần là Phật phân biệt cái nghĩa bỏ tướng kiến tánh.

Tụng:

Giảng rành tứ kiến ngã cùng nhân,

Quán tự tánh mình chẳng quán thân.

Phá tướng thủ không cho vắng lặng,

Giả trừ dà tỏa khỏi mê tân.

Vương Nhựt Hưu giải: Ngã kiến là lấy sự kiến thức mà nhận ra là có. Nhơn kiến, chúng sanh kiến, thọ giả kiến là lấy sự kiến thức mà nhận là có nhơn, có chúng sanh, có thọ giả.

Đó là nói: Vốn không có cái kiến thức của bốn tướng ấy vì trong chơn tánh vẫn không, cũng bởi bốn thứ tà kiến ấy chẳng phải là chơn thiệt. Cho nên nói: Chẳng phải ngã kiến v.v... chỉ cưỡng danh là ngã kiến v.v... là nói sự tà kiến ấy đều là hư vọng, chẳng phải có ở trong chơn tánh.

Lý Văn Hội giải: Phật nói cái pháp Bát nhã Kim Cang này: trước là khiến người học đạo phải diệt trừ bốn tướng thô trọng, như trong phần Đại thừa Chánh tông (đệ thứ ba) đã nói, sau là, khi rõ tánh rồi, lại phải diệt trừ bốn tướng vi tế, như trong phần cứu cánh vô ngã(đệ thứ 17) đã nói. Hai phần ấy, đều chỉ rõ cái lý thanh tịnh của bốn tướng. Nếu lòng không hy cầu tham đắc, rỗng rang thường trụ, thì mới là thanh tịnh ngã kiếncho.

Huỳnh Nghiệt Thiền sư giải: Biết cả trăm việc cũng không bằng lòng, chẳng cầu là hơn hết. Người tu hành là người vô sự, thiệt chẳng có việc gì; lòng vẫn không, nên việc cũng không.

Lại nói: Những người học đạo, nếu muốn đặng thành Phật, thì cả thảy Phật pháp đều chẳng cần phải học, chỉ học cho đặng cái "tâm không cầu, không chấp" thì đã đủ rồi. Không cầu thì tâm chẳng sanh, không chấp thì tâm chẳng diệt. Mà chẳng sanh chẳng diệt tức là Phật.

Bằng rõ tự tánh vốn đã sẵn đủ, là nhơn kiến thanh tịnh - Lòng không phiền não, là chúng sanh kiến thanh tịnh - Tự tánh không biến dị, sanh diệt, là thọ giả kiến thanh tịnh. Cho nên nói: "Không phải ngã kiến v.v... chỉ cưỡng danh vậy thôi".

157.ÂM:

"Tu Bồ Đề! Phát A nậu đa la tam miệu tam bồ đề tâm giả, ư nhứt thế pháp, ưng như thị tri, như thị kiến, như thị tín giải bất sanh pháp tướng.

Tu Bồ Đề! Sở ngôn pháp tướng giả, Như Lai thuyết tức phi pháp tướng, thị danh pháp tướng".

NGHĨA:

"Tu Bồ Đề! Phát lòng Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác đó, thì cả thảy pháp, phải biết như vầy, phải thấy như vầy, phải tin rõ như vầy, là chẳng sanh pháp tướng.

Tu Bồ Đề! Sự nói pháp tướng đó, Như Lai nói chẳng phải pháp tướng, chỉ cưỡng danh là pháp tướng".

Giải :Nhan Bính giải: Hai chữ "như vầy", đáng cho là thân thiết. Bằng phát lòng Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, thì cả thảy pháp phải biết như vầy, thấy như vầy, tin rõ như vầy, hà tất phải cầu pháp tướng ở ngoài? Song, khi mới vào đạo mà chẳng mượn pháp tướng, thì không biết cái nẻo mà vào; còn đã rõ tánh rồi, cũng nên lánh xa đi, không cần chấp trước. Cho nên nói: "Đặng cá chẳng dùng nơm", "Đến bờ khỏi dụng thuyền" nữa, là vậy đó.

Bởi cớ, nên sau lại vì người mà thuyết phá: "Chẳng phải pháp tướng, chỉ cưỡng danh là pháp tướng ".

Lý Văn Hội giải: Phát A nậu đa la tam miệu tam bồ đề tâm, là phải biết cả thảy chúng sanhtrí huệ vô lậu vốn đã sẵn đủ, phải tin cả thảy chúng sanh tinh linh chơn tánh vốn không sanh diệt. Bằng tỏ ngộ đặng ý này, tức là cả thảy trí huệ.

Chẳng có lòng năng sở, chẳng còn tướng tri giải; miệng nói pháp không tướng, lòng tỏ lý không tướng, thường làm cái hạnh không tướng. Cho nên nói: "Chẳng sanh pháp tướng, chỉ cưỡng danh vậy thôi".

Trí Giả Thiền sư giải:

Tụng:

Vốn không phải thấu lý, Bỏ tướng dùng vô vi.

Sanh thọ hư danh cả, Ngã nhơn thiệt đế chi.

Bồ đề tỏ ngộ đặng, Bỉ ngạn tránh xa đi.

Pháp tướng cùng phi pháp, Hiểu rằng như thế ni.

Xuyên Thiền sư giải: Cơm đến hả miệng, ngủ đến nhắm mắt.

Tụng:

Nước xao bở bủa sợi tơ mành,

Một lượn sóng đùa, mấy lượn sanh.

Giá lạnh canh khuya câu chẳng có.

Đầy thuyền chỉ có bóng trăng thanh.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
19/12/2013(Xem: 21970)
48 Lời Nguyện của Phật A Di Đà Hán dịch: Tào Nguỵ, Pháp Sư Khương Tăng Khải Việt dịch: Việt Nam, Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh Anh dịch: http://www.purifymind.com/FortyEight.html Sưu tập: Tuệ Uyển, Wednesday, December 18, 2013 48 Lời Nguyện của Phật A Di Đà 48 Vows of Amitabha Buddha 1. Giả sử khi tôi thành Phật, nước tôi còn có địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác. 1."Provided I become a Buddha, if in my Buddha-land there should be either hell, or the animal state of existence, or the realm of hungry ghosts, then may I not attain enlightenment.
14/09/2013(Xem: 10055)
Kinh A Di Đà là một bản Kinh rất phổ biến được truyền tụng hàng ngày trong đời sống đạo của Phật tử ở các nước Viễn Đông châu Á, nhất là ở Việt Nam. Vị trí của Kinh luôn luôn được xây dựng trên căn bản của niềm tin; và trong lòng người hành trì, Kinh chính là con đường dẫn đến thế giới Tịnh độ - một thế giới không có khổ đau, không có sinh lão bệnh tử, thế giới của niềm phúc lạc vô biên.
22/04/2013(Xem: 5242)
Giáo lý Ðấng Thế Tôn trải qua 2.516 năm đến nay vẫn còn có công năng thù thắng siêu việt, đánh bạt nghiệp chướng phiền não cứu thoát chúng sinh khỏi trầm luân trong vũng lầy sinh tử. Ðối với người con Phật chân chính, thành tâm cầu Ðạo giải thoát, lời châu ngọc của Ngài quả thật là một môn diệu được.
22/04/2013(Xem: 8543)
Cuốn “Di Đà Huyền Chỉ” ra đời đồng thời với bản dịch Việt ngữ “Thế Giới Nhất Hoa” vào cuối năm 2001. Cuốn “Thế Giới Nhất Hoa” đến nay vẫn còn ở các quày sách. Điều đó cho chúng ta thấy rằng Thiền Công án rất khó nuốt.
22/04/2013(Xem: 10360)
Nói về đạo, thì không có đạo nào lớn bằng đạo Phật. Nói về lý, thì không có lý nào thâm cho bằng lý Phật. Còn nói về tu, thì không tu nào dễ cho bằng tu Phật.
08/04/2013(Xem: 38831)
Kim Quang Minh kinh, theo Phật học nghiên cứu (Bài 10 trang 52), có 6 bản dịch. Bản Một, Kim Quang Minh kinh, 4 cuốn, 19 phẩm, Đàm Mô Sấm dịch. Niên đại phiên dịch của ngài này là 414-426. Bản Hai, Kim Quang Minh kinh, 7 cuốn, 21 phẩm, Chân Đế dịch. Niên đại phiên dịch của ngài này là 548-569.
08/04/2013(Xem: 16771)
(thắp đèn đốt hương, toàn thể đúng ngay ngắn, chắp tay để ngang ngực, mật niệm) Tịnh pháp giới chân ngôn Úm lam sa ha (3 lần) Lục tự đại minh chân ngôn Úm ma ni bát mê hồng (3 lần) (vị chủ lể quỳ thẳng, cầm 3 cây hương, dâng ngang trán, đọc bài nguyện hương)
08/04/2013(Xem: 12332)
Trái với tiểu thừa nói đời Phật chỉ có đức Di lạc là bồ tát, đại thừa nói đời Phật, mà ngay trong nhân loại, ít nhất cũng có những vị bồ tát sau đây, ghi theo Thế giới Pg thông sử, tập thượng, trang 136. 1. Văn thù đại sĩ, 2. Thiện tài đồng tử, 3. Bảo tích và Duy ma, 500 người ở thành Tì da li. 4. Hiền hộ, với 16 người ở thành Vương xá.
08/04/2013(Xem: 13551)
Chính tôi (A-Nan) được nghe: Một thời kia đức Phật ở Trùng-Các giảng-đường, trong khu rừng lớn Tỳ-Da-Ly (Vaisàli), cùng với một nghìn hai trăm năm mươi vị Tỳ-Khưu. Khi ấy, đức Thế-Tôn cùng ông A-Nan, một buổi sáng nọ, mặc áo, mang bát vào thành khất-thực. Khất-thực rồi, trở về nơi cũ.
08/04/2013(Xem: 17937)
Chính tôi được nghe: (2) Một thời kia đức Phật du-hóa trong núi Kỳ-Xà-Quật (Grdhrakùta), nước La-Duyệt-Kỳ (Ràjagrha), cùng với một nghìn hai trăm năm mươi vị Đại-Tỳ-Khưu và vô số những vị Bồ-Tát, mà là những vị đã được tiếng tăm đồn xa, Nhân, Thiên cung kính.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]