Bát Nhã Tâm Kinh

16/12/201205:28(Xem: 1986)
Bát Nhã Tâm Kinh

bat-nha-tam-kinh

 

Bát Nhã Tâm Kinh - Đối tượng quan sát

Nhìn sâu ngũ uẩn tướng là không

Sắc Thọ Tưởng Hành Thức cũng không.

Biết rõ rằng không không khác sắc

Sắc thì lập tức biến thành không

Thể không và sắc xem như một

Huyễn hóa sát-na sắc biến không.

Khổ ách vọng tâm, đang thoát khỏi

Niết bàn giác ngộ đẳng tâm không (1)

(1). Đẳng tâm không là pháp đẳng không. Phật ba đời là Phật Tánh hay Tánh Không của Tự Tính Tuyệt Đối của tâm. Vì ba đời, là quá khứ đã qua không thật; vị lai chưa đến cũng không thật; hiện tại không nắm bắt được: ba thời đều bất khả đắc, tam thời bình đẳng, tâm không. Đó là Pháp Đẳng Không. (Xin xem Cái Nhìn Bát Nhã qua Lăng Kính Thời Không đăng trong website HLT)


Bát Nhã Tâm Kinh - Lý Vô Ngã

Nhận rõ rằng là không có ta

Duyên từ năm uẩn hợp thôi mà

Tạm thời hội tựu xem như thật

Đến lúc nhận chơn huyễn hóa à.

Sắc có tướng không là một thể

Huyễn sau: sắc trước đã qua mà.

Biết ra thật tánh từ muôn thuở

Thanh thoát an nhiên tôi biết ta.

Bát Nhã Tâm Kinh - Không tướng các pháp

Sự vật trên đời có tướng không

Bất sanh bất diệt tướng là không

Không nhơ không sạch vì không tướng

Không giảm không tăng thể tướng không

Sáu cảnh sáu căn duyên sáu thức

Nhân duyên thập nhị cũng đều không

Bốn chơn, đạo đế: con đường đúng

Trí đắc: tri hành, tướng vẫn không.

 

Bát Nhã Tâm Kinh - Quả Đạt Được (1)

Thoát khỏi khổ ách

Thời gian huyễn hóa tánh là không

Khổ ách vọng tâm nhứt thiết không:

Sợ hải thọ từ không thật có

Nhận hành điên đảo có quên không

Cái không mộng tưởng tưởng là có

Chướng ngại vượt qua mọi tướng không

Khổ ách qua rồi không thật có

Thời gian huyễn hóa có thành không.

 

Bát Nhã Tâm Kinh - Quả Đạt Được (2)

Giác ngộ niết bàn

Thực hành bát nhã được tâm không

Cái biết sát- na pháp đẳng không

Quá khứ vị lai tâm chẳng động

Bây giờ tuệ quán ở trung không

Tam thời bất đắc vì không tướng

Bình đẳng hư không dụng pháp không

Bát nhã hành trì, vô thượng giác

Niết bàn giác ngộ đẳng tâm không

 

Bát Nhã Tâm Kinh - Tán tụng

Bát Nhã Ma Ha pháp tánh không

Chính là thần chú vốn vô song

Chiếu minh, vô thượng thật không dối

Kỹ thuật chơn tâm pháp đẳng không

Năng lực siêu phàm trừ khổ nạn

Tác năng vô tận tuyệt tâm không

Khổ ưu giải thoát tiêu phiền não

Giác ngộ niết bàn dụng pháp không

Phổ Nguyệt

 

Bát Nhã Tâm Kinh - Thần chú

Đến bến bờ kia chẳng ngại gì

Dứt ngay vọng tưởng thật nhanh đi

Vượt qua bỉ ngạn không còn vướng

Cứu cánh niết bàn đạt chẳng nghi. (9/02/10)

Phật liền đọc (nói): Yết Đế, Yết Đế, Ba La Yết Đế, Ba La Tăng Yết Đế, Bồ Đề Tát Bà Ha, là chấm dứt ngay mọi vọng tưởng, đạt cứu cánh niết bàn

Dù thần chú có nghĩa là -- Vượt qua, vượt qua, đến bờ bên kia một cách nhanh chóng-- nhưng hành giả chỉ cần thể nhận nơi thực tướng (Biết âm thanh đọc) mà không cần biết ý nghĩa của thần chú là ngôn ngữ giả lập.

Phổ Nguyệt

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
12/11/2017(Xem: 31173)
Có tu có học có hành Đêm ngày tự có phước lành phát sanh Không tu không học không thành Dù trăm tài sản cũng đành bỏ đi .
02/04/2017(Xem: 11163)
Theo âm Hán Viêt, A Di Đà Phật có nghĩa là Vô Lượng Thọ Phật, Vô Lượng Quang Phật, Tây Phương Phật. Trong kinh A Di Đà, Đức Phật Thích Ca giảng là Phật A Di Đà, Giáo Chủ cõi Cực Lạc (Soukhavati (Scr.), ở phương Tây, cách cõi Ta Bà của chúng ta mười vạn ức cõi Phật. Đó là một cõi đầy đủ các công đức trang nghiêm. Lầu các, cây cối, đất đai toàn là châu báu. Nào là các loài chim bạch hạt, khổng tước, anh võ, xá lợi, ca lăng tầng già v.v… ngày đêm sáu thời ca hát ra những lời pháp: năm căn, năm lực, bảy món bồ đề, bát chánh đạo…
28/04/2016(Xem: 34799)
Thiền, Tịnh, Mật được xem là ba pháp môn tu truyền thống của Phật giáo Việt Nam xưa nay. Thiền giáo xuất hiện từ thời Khương Tăng Hội, Tỳ Ni Đa Lưu Chi và Vô Ngôn Thông. Các thế kỷ sau, kinh điển Đại thừa được truyền bá, theo đó tư tưởng Thiền, Tịnh và Mật được phổ biến tại nước ta. Từ lịch sử phát triển Phật giáo Việt Nam cho thấy, ba pháp môn tu đó có sự đóng góp tích cực cho con người và xã hội qua nhiều thời đại.
07/01/2015(Xem: 12596)
Trong mối liên hệ với thế giới của ta thì Cõi Tịnh Độ của Đức Phật A Di Đà ở phương tây và ở phía trên thế giới của ta. Ta phải chấp nhận một vũ trụ quan và nhận ra rằng có nhiều hệ thống thế giới khắp không gian. Tôi đang nói tới một hệ thống hết sức bao la. Chúng ta hãy xác định vị trí của ta.
19/12/2013(Xem: 25882)
48 Lời Nguyện của Phật A Di Đà Hán dịch: Tào Nguỵ, Pháp Sư Khương Tăng Khải Việt dịch: Việt Nam, Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh Anh dịch: http://www.purifymind.com/FortyEight.html Sưu tập: Tuệ Uyển, Wednesday, December 18, 2013 48 Lời Nguyện của Phật A Di Đà 48 Vows of Amitabha Buddha 1. Giả sử khi tôi thành Phật, nước tôi còn có địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác. 1."Provided I become a Buddha, if in my Buddha-land there should be either hell, or the animal state of existence, or the realm of hungry ghosts, then may I not attain enlightenment.
14/09/2013(Xem: 16472)
Kinh A Di Đà là một bản Kinh rất phổ biến được truyền tụng hàng ngày trong đời sống đạo của Phật tử ở các nước Viễn Đông châu Á, nhất là ở Việt Nam. Vị trí của Kinh luôn luôn được xây dựng trên căn bản của niềm tin; và trong lòng người hành trì, Kinh chính là con đường dẫn đến thế giới Tịnh độ - một thế giới không có khổ đau, không có sinh lão bệnh tử, thế giới của niềm phúc lạc vô biên.
22/04/2013(Xem: 8216)
Giáo lý Ðấng Thế Tôn trải qua 2.516 năm đến nay vẫn còn có công năng thù thắng siêu việt, đánh bạt nghiệp chướng phiền não cứu thoát chúng sinh khỏi trầm luân trong vũng lầy sinh tử. Ðối với người con Phật chân chính, thành tâm cầu Ðạo giải thoát, lời châu ngọc của Ngài quả thật là một môn diệu được.
22/04/2013(Xem: 10255)
Cuốn “Di Đà Huyền Chỉ” ra đời đồng thời với bản dịch Việt ngữ “Thế Giới Nhất Hoa” vào cuối năm 2001. Cuốn “Thế Giới Nhất Hoa” đến nay vẫn còn ở các quày sách. Điều đó cho chúng ta thấy rằng Thiền Công án rất khó nuốt.
22/04/2013(Xem: 12692)
Nói về đạo, thì không có đạo nào lớn bằng đạo Phật. Nói về lý, thì không có lý nào thâm cho bằng lý Phật. Còn nói về tu, thì không tu nào dễ cho bằng tu Phật.
08/04/2013(Xem: 43506)
Kim Quang Minh kinh, theo Phật học nghiên cứu (Bài 10 trang 52), có 6 bản dịch. Bản Một, Kim Quang Minh kinh, 4 cuốn, 19 phẩm, Đàm Mô Sấm dịch. Niên đại phiên dịch của ngài này là 414-426. Bản Hai, Kim Quang Minh kinh, 7 cuốn, 21 phẩm, Chân Đế dịch. Niên đại phiên dịch của ngài này là 548-569.