Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

XI. Khi Phật Nhập Diệt

17/05/201313:13(Xem: 10231)
XI. Khi Phật Nhập Diệt

Kinh Đại Bát Niết Bàn [1]

XI. Khi Phật Nhập Diệt

Việt dịch: Hòa Thượng Thích Tâm Châu

Nguồn: Hán dịch: Đông Tấn, Sa Môn Thích Pháp Hiển

Sau đó, ông A-Nan lại bạch Phật rằng: “Lạy đức Thế-Tôn! Sau khi Như-Lai nhập Niết-Bàn, phương-pháp cúng-dàng nên làm thế nào?”
Đức Phật dạy: “Nay ông không nên lo quẩn vào việc ấy, ông chỉ tự suy-nghĩ là sau khi Tôi diệt-độ đi, phải hộ-trì chính-pháp, đem những điều trước đây nghe được, luôn luôn nói cho người khác nghe. Sao vậy? – Vì, chư Thiên tự họ sẽ cúng-dàng cho thân Tôi. Vả lại, những người Bà-la-môn cùng các vua, trưởng-giả, cư-sĩ, cũng tự họ sẽ cúng-dàng cho thân Tôi!”
Ông A-Nan bạch Phật: “Lạy đức Thế-Tôn! Tuy, Nhân, Thiên tự khởi tâm cúng-dàng, nhưng, con không biết y vào pháp nào?”
Đức Phật dạy: “Ông A-Nan! Cúng-dàng thân Tôi, y theo pháp đối với Chuyển-luân-thánh-vương.”
Ông A-Nan lại hỏi: “Lạy đức Thế-Tôn! Cúng-dàng như Chuyển-luân-thánh-vương, pháp ấy thế nào?”
Đức Phật dạy: “Ông A-Nan! Phương-pháp cúng-dàng Chuyển-luân-thánh-vương [1], là dùng bông mới, sạch cùng lấy những tấm vải nhỏ mịn, hợp lại quấn vào thân Tôi. Cứ như thế, quấn đi, quấn lại, đến đủ một nghìn lần, rồi đặt vào trong áo quan vàng. Lại làm áo quan bạc bên ngoài, để áo quan vàng vào trong; lam áo quan đồng bên ngoài, để áo quan bạc vào trong; rồi làm áo quan sắt bên ngoài, để áo quan đồng vào trong. Sau, lấy nhiều dầu thơm bao-rửa, cùng đem những hương, hoa thoa-bít và rải đầy trong áo quan, nhiên hậu đậy nắp xuống. làm một cái xe tang, rất to lớn, cao, rộng, dát châu-báu, hiên, mui, bao-lơn, đều trang-nghiêm bằng những thứ tốt đẹp. Xong rồi đặt áo quan lên trên xe.
Lại nữa, nơi làm hỏa-đàn ở trong thành, phải quét rửa bốn bên rất trong sạch, lấy những gỗ Chiên-đàn [2] tốt cùng những thứ hương thơm, xếp lên thành một đống gỗ lớn. Trên đống gỗ ấy, trải căng những tấm vải lụa dầy đẹp, lại mắc tấm mùng đẹp, lớn, che bên trên. Sau đó, xe tang mới chuyển đến nơi hỏa-đàn. Nơi đây, đốt hương, rải hoa, cúng-dàng kỹ-nhạc, nhiễu đống gỗ hương kia, vòng-quanh bảy vòng, nhiên-hậu đem áo quan để trên đống củi hương ấy và lấy dầu thơm rưới vẩy vào đó. Còn phương-pháp đốt lửa, thời đốt từ dưới cháy lên. Khi hỏa-đàn xong rồi, thu nhặt Xá-lỵ [3] bỏ vào trong bát vàng. Và ngay nơi ấy, xây-dựng bảo tháp, ngọn tháp cao vót trang-nghiêm, treo phan-cái bằng lụa; các người trong nhân-gian, ngày ngày thường nên đốt hương, tán hoa, mọi thứ cúng-dàng.”
Ông A-Nan! Ông nên biết: Phương-pháp cúng-dàng Chuyển-luân-thánh-vương, việc ấy như thế! Việc hỏa-táng thân Tôi, cũng như phương-pháp cúng-dàng Chuyển-luân-thánh-vương kia vậy. Nhưng, xây tháp Tôi, có khác với tháp của Chuyển-luân-thánh-vương. Tháp Tôi, ngọn tháp cao vót, trang-nghiêm, nên treo chín cái tán. Và, nếu có chúng-sinh nào, treo phan-cái thêu, đốt hương, tán hoa cùng thắp đèn đuốc, lễ-bái, tán-thán tháp Tôi, người ấy được phúc-lợi mãi mãi; đời sau, không lâu người khác cũng lại xây tháp lớn cúng-dàng thân họ.
Ông A-Nan! Ông nên biết: Hết thảy chúng-sinh đều không có tháp, chỉ có bốn hạng người được xây tháp mà thôi: Một là, vị được mười hiệu: Như-Lai, Ứng-Cúng, Chính-Biến-Tri, Minh-Hành-Túc, Thiện-Thệ, Thế-Gian-Giải, Vô-Thượng-Sĩ, Điều-Ngự Trượng-Phu, Thiên-Nhân-Sư, Phật, Thế-Tôn [4], thương xót chúng-sinh và có thể vì thế-gian, làm ruộng phúc tốt hơn hết, thời nên xây tháp. Hai là, vị Bích-Chi-Phật, suy-nghĩ mọi pháp, tự giác-ngộ đạo, cũng có thể đem lại phúc-lợi cho nhân-dân thế-gian, thời nên xây tháp. Ba là, vị A-La-Hán, theo chỗ nghe pháp mà suy-nghĩ để dứt sạch lậu-nghiệp (phiền-não) cũng có thể đem lại phúc-liợ cho nhân-dân thế-gian, thời nên xây tháp. Bốn là Chuyển-luân-thánh-vương, xưa trồng nhiều phúc, có uy-đức lớn, cai-trị tứ thiên-hạ [5], bảy báu [6] đầy đủ, tự làm mười điều thiện [7] lại khuyên nhân-dân trong tứ thiên-hạ cũng làm mười điều thiện, thời nên xây tháp.
Ông A-Nan! Ông nên biết: Nếu có chúng-sinh nào, đem mọi đồ cúng-dàng, để cúng-dàng những tháp ấy, họ vẫn được phúc, song, phúc của họ được, theo thứ bực có sai khác.”

TOÁT-YẾU


Ông A-Nan bạch Phật về phương-pháp cúng-dàng Ngài, khi Ngài nhập Niết-Bàn nên như thế nào, thì Ngài gạt đi và bảo: “Việc ấy ông không nên lo, đã có chư Thiên cùng những người khác liệu-định, ông chỉ nghĩ sau này phải hộ-trì chính-pháp, đem điều được nghe trước đây, nói cho người khác nghe mà thôi!”
Nhưng, ông A-Nan cố bạch, đức Phật bảo: “Cúng-dàng Tôi y như pháp cúng-dàng Chuyển-luân-thánh-vương. Nghĩa là, khi Tôi nhập Niết-Bàn rồi, lấy vải tốt quấn thân Tôi một nghìn lần, đặt vào trong áo quan vàng, bên ngoài bọc thêm áo quan bạc, áo quan đồng và ngoài cùng là áo quan sắt. Rửa dầu thơm, rải hoa, rắc hương, rồi đậy nắp áo quan lại. Đồng thời, sửa cỗ xe báu, trang-sức đẹp-đẽ, đặt áo quan lên trên, chuyển tới nơi hỏa-đàn. Nơi hỏa-đàn phải quét rửa sạch-sẽ, lấy những gỗ hương xếp thành đống lớn. Trên đống gỗ ấy trải tấm lụa đẹp, có mùng che trên. Và, đốt hương, rải hoa, cúng-dàng kỹ-nhạc, đi nhiễu 7 vòng, sau mới đặt áo quan lên trên đống gỗ ấy, lấy dầu thơm rưới vẩy 4 bên và châm lửa đốt từ dưới cháy lên. Cháy xong thu xá-lỵ xây tháp cúng-dàng”.
Ông A-Nan! Ông nên biết: “Chúng-sinh không có tháp, chỉ có Phật, Bích-Chi-Phật, A-La-Hán và Chuyển-luân-thánh-vương, là 4 bậc đem lại phúc-lợi cho nhân-dân thế-gian, có tháp mà thôi. Ai cúng-dàng những tháp ấy, đều được phúc nhưng, phúc ấy có khác nhau!”



Chú thích


[1] Chuyển-luân-thánh-vương: Tiếng Phạm gọi là Chước-ca-la-phạt-lạt-để-hạt-la-xa (Cakavarti-raja): Vua Chuyển-luân-thánh-vương có 32 tướng. Khi tức-vị, do thiên-cảm nhà vua được cỗ xe báu (luân-bảo), xe này quay-chuyển hàng-phục được 4 phương nên gọi là Chuyển-luân-vương. Khi kiếp số tăng lên của nhân-loại, người ta thọ đến 2 vạn tuổi trở lên, thời vua Chuyển-luân mới xuất-thế. Mà ở kiếp diệt, người ta thọ từ vô-lượng tuổi, đến 8 vạn tuổi, thời nhà vua ra đời. Luân-bảo (cỗ xe báu) của nhà vua có 4 loại: Kim (vàng) ngân (bạc) đồng và thiết (sắt). Bốn cỗ xe báu này lần-lượt thống-lĩnh 4 đại-châu, như Kim-luân-vương coi cả 4 châu; Ngân-luân-vương coi ba châu: Đông, Tây và Nam; Đồng-luân-vương coi 2 châu Đông và Nam; Thiết-luân-vương coi 1 châu Nam-diêm-phù-đề.
[2] Chiên-đàn (Candana): tên một thứ gỗ thơm, ở núi Ma-la-da, Nam Ấn-Độ. Núi này hình đầu trâu nên gọi là Ngưu-đầu. Có chỗ gọi là Ngưu-đầu Chiên-đàn Tàu dịch là “dữ lạc” (cho vui), vì nó chữa được bệnh.
[3] Xá-lỵ (Saria): Có chỗ gọi là “Thất-lỵ-la”, hay “Thiết-lỵ-la”. Có nghĩa là thân-cốt của Phật. Xá-lỵ là vô-lượng công-đức lục-độ họp thành, là do sự huân-tu giới, định, tuệ mà thành. Xá-lỵ có ba hình sắc: sắc trắng là xá-lỵ bằng xương; sắc đen là xá-lỵ bằng tóc; sắc đỏ là xá-lỵ bằng thịt. Và, có 2 loại xá-lỵ: 1/ Toàn thân xá-lỵ: Như xá-lỵ Phật Đa-Bảo (trong kinh Pháp-Hoa). 2/ Toái-thân xá-lỵ: Thân đốt vụn ra như thân đức Phật Thích-Ca. Lại có hai thứ nữa: 1/ Sinh thân xá-lỵ: Thân do tu giới, định, tuệ mà thành, Như-Lai sau khi nhập-diệt, lưu lại thân-cốt, làm cho Nhân, thiên được phúc-đức cúng-dàng mãi mãi. 2/ Pháp-thân xá-lỵ: tức là hết thảy kinh sách, Đại, Tiểu-thừa.
[4] Xin xem chú-thích nơi kinh Quán-Âm Bồ-Tát Thụ-Ký đã ấn-hành.
[5] Tứ-thiên-hạ: Tức là 4 châu trong thiên-hạ: Đông-thắng thần-châu, Nam-thiệm bộ-châu, Tây-ngưu hóa-châu và Bắc-câu lô-châu.
[6] Bảy báu: Kim, ngân, lưu-ly, pha-lê, xà-cừ, mã-não, san-hô.
[7] 10 điều thiện: Không sát-sinh, không trộm-cắp, không tà-dâm, không nói dối, không nói lưỡi đôi chiều, không nói thêu-dệt, không nói ác, không tham, không sân, không si.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
10/09/2021(Xem: 3377)
Ngũ uẩn là yếu tố tạo nên thân và tâm con người. Ngũ uẩn, bao gồm sắc, thọ, tưởng, hành, thức.
03/09/2021(Xem: 31560)
(Thắp đèn đốt hương trầm xong, đứng ngay ngắn chắp tay để ngang ngực mật niệm) 1. TỊNH PHÁP GIỚI CHƠN NGÔN: Án, lam xóa ha. (3 lần) 2. TỊNH KHẨU NGHIỆP CHƠN NGÔN: Tu rị, Tu rị, Ma ha tu rị, Tu tu rị, Ta bà ha. (3 lần) 3. TỊNH TAM NGHIỆP CHƠN NGÔN Án, Ta phạ bà phạ thuật đà ta phạ, đạt ma ta phạ, bà phạ thuật độ hám. (3 lần) 4. PHỔ CÚNG DƯỜNG CHƠN NGÔN: Án, Nga nga nẵng tam bà, phạ phiệt nhựt ra hồng (3 lần) 5. AN THỔ ĐỊA CHƠN NGÔN: Nam mô tam mãn đa một đà nẫm, Án, độ rô độ rô, địa vỷ ta bà ha (3 lần) Hộ pháp, Vĩ Đà thị chứng minh Thân trụ Phật tiền Tâm Tư nguyện Tưởng bằng bí chú đắc oan linh Hà chơn bất thức trì niệm Luật Thiên kinh vạn quyển vô nhất tự Nẳng mô tô tất đế, đa rị, đa rị, mạn đà, mạn đà, ta bà ha (3 lần)
03/09/2021(Xem: 9056)
Pháp hành Trì để vượt thoát Đại Nạn Covid-19
03/09/2021(Xem: 8571)
5.1). Đệ tử tên là: Một lòng quy kính Đức Phật A Di Đà, Thế giới Cực Lạc, Nguyện lấy hào quang, Trong sạch soi cho, Lấy thệ từ bi, Mà nhiếp thọ cho, Con nay chánh niệm, Niệm hiệu Như Lai, Vì đạo Bồ Đề, Cầu sanh Tịnh Độ. Phật xưa có thệ: “Nếu có chúng sinh, Muốn sinh về nước ta, Hết lòng tín nguyện, Cho đến mười niệm, Nếu chẳng đặng sinh, Chẳng thành Chánh Giác”. Do vì nhân duyên, Niệm hiệu Phật nầy, Được vào trong bể, Đại thệ Như Lai, Nhờ sức Từ Bi, Các tội tiêu diệt, Căn lành tăng trưởng, Khi mạng gần chung, Biết trước giờ chết, Thân không bệnh khổ, Tâm không tham luyến, Ý không điên đảo, Như vào Thiền định. Phật và Thánh Chúng, Tay nâng kim đài, Cùng đến tiếp dẫn, Trong khoảng một niệm, Sinh về Cực Lạc, Sen nở thấy Phật, Liền nghe Phật thừa, Chóng mở Phật tuệ, Khắp độ chúng sanh, Trọn Bồ Đề nguyện.
24/06/2021(Xem: 4068)
— Thiện Tịch Bồ Tát tạo Tây Thiên dịch Kinh Tam Tạng Triêu Phụng Đại Phu Thức Quang Lục Khanh Truyền Pháp Đại Sư Sắc Tử Thần Thí Hộ Phụng chiếu dịch. — Thứ tự kinh văn số 1638 Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh Quyển thứ 32 thuộc Luận Tập Bộ Toàn từ trang 150 đến 155. — Sa Môn Thích Như Điển, Phương Trượng Chùa Viên Giác Hannover, Đức Quốc dịch từ chữ Hán sang tiếng Việt tại Tu Viện Đa Bảo Úc Đại Lợi cùng với sự phụ dịch của Tỳ kheo Thích Đồng Văn, bắt đầu từ ngày 16 tháng 12 năm 2004 nhân kỳ nhập thất lần thứ hai tại đây.
24/06/2021(Xem: 4115)
— Thiện Tịch Bồ Tát tạo Tây Thiên dịch Kinh Tam Tạng Triêu Phụng Đại Phu Thức Quang Lục Khanh Truyền Pháp Đại Sư Sắc Tử Thần Thí Hộ Phụng chiếu dịch. — Thứ tự kinh văn số 1638 Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh Quyển thứ 32 thuộc Luận Tập Bộ Toàn từ trang 150 đến 155. — Sa Môn Thích Như Điển, Phương Trượng Chùa Viên Giác Hannover, Đức Quốc dịch từ chữ Hán sang tiếng Việt tại Tu Viện Đa Bảo Úc Đại Lợi cùng với sự phụ dịch của Tỳ kheo Thích Đồng Văn, bắt đầu từ ngày 16 tháng 12 năm 2004 nhân kỳ nhập thất lần thứ hai tại đây.
12/07/2020(Xem: 6300)
Theo, Đại-Vô-Lượng-Thọ-Kịnh. Đại-A-Di-Đà-Kinh Q1.- Bình-Đẳng-Giác- Kinh Q1. Đại-Bảo-Tích-Kinh Q17. Bi-Hoa-Kinh Q3. Vô-Lượng-Quảng- Trang-Nghiêm-Đại-Thừa-Kinh… Thì đều lạy tu theo 48 nguyện. 48 đại nguyện có đủ trong 6 bộ kinh nói trên. Chỗ cốt yếu cho người tu niệm Phật và lễ lạy 48 đại nguyện là : 1.Tin tưởng tha thiết nguyện về cõi Phật A Di Đà chắc thật diệt sạch hết tâm nghi ngờ. Lòng tin trọn vẹn trong sạch. 2. Lập thời khóa tu niệm lễ lạy trong một ngày đêm 1, 2, hay 3 Thời, Tùy ý thích. Chọn cho thích hợp để tu. Quan trọng là thành tâm. Đừng ham nhiều mà lụy thân rồi chán bỏ! 3. Quyết tâm phát nguyện vãng sanh về Cực Lạc Tịnh Độ, Tâm luôn kính nhớ ưa thích cõi Cực Lạc của Từ Phụ A Di Đà, quí mến Từ Phụ A Di Đà. niệm Hồng danh Phật liên tục, khi xướng lạy lời nguyện thân tâm vui thích mừng rỡ cảm động, thân nhẹ lân lân như ơn Phật đang ban phước cao vời vô tận, đầy tâm an lạc, như thấy mình đầy đủ sức khỏe. Niệm, chừng nào được “nhứt tâm bất loạn” đồng nghĩa với “hế
21/06/2020(Xem: 8595)
Do một thiện niệm vừa phát sinh sau khi TT Thích Nguyên Tạng chấm dứt 48 bài pháp thoại liên tục được livestream trên Facebook của trangnhaquangduc trong mùa cách giản xã hội vì đại dịch Corona vào mỗi sáng sau thời công phu khuya ( với kinh Lăng Nghiêm, Đại Bi và thập chú ) mà người viết mới có dịp ôn lại những gì trong “ PHÁP NGỮ CỦA HT TỊNH KHÔNG” đã được TT Thích Nguyên Tạng Việt dịch và được xuất bản từ 2004. Thời gian trôi qua nhanh quá , thấm thoát đã 16 năm mà đến bây giờ đây là lần thứ ba tôi mới đọc lại , phải nói là rất ân hận cho sự vô minh của mình trong nhiều năm và đã uổng phí thời gian để có thể tu tập đúng hơn nữa .
01/05/2020(Xem: 3579)
Muốn tu học theo Đạo Phật, muốn trở thành Phật tử thời chính bản thân mình phải có chí muốn thành Phật và tự nguyện sẽ thành Phật, vì biết mình có sẵn Phật tánh nên tự tin là mình sẽ thành Phật. Ai tu cũng được cả, dù giàu sang hay nghèo hèn, dù thông minh hay dốt nát, dù già hay trẻ. Tu càng sớm càng hay. Tu chỉ có nghĩa là “sửa đổi”, sửa xấu thành đẹp, sửa ác thành hiền, sửa si mê thành giác ngộ… Tu ở nhà, tu ngoài xã hội, tu ở chùa, nơi đâu cũng được.
21/04/2020(Xem: 6177)
Đức Phật khuyên con người nên diệt trừ ái dục. “Ái” là thích, thương yêu, mến tiếc, luyến ái, tham ái bám víu. “Dục” là ham muốn, tham dục, lạc dục. Ái dục là lòng ham muốn, luyến ái, bám víu, tham hưởng mọi sự sung sướng thường tình đối với người và đối với vật. Có ba loại ái dục: 1. Ái dục theo nhục dục “ngũ trần”: Năm cảnh trần là “sắc, thanh, hương, vị, xúc”. Trần là bụi dơ. Ngũ trần là năm cái có thể thấm bụi dơ vào thân tâm ta, vào chân tính của ta. 2. Ái dục đeo níu theo khoái lạc vật chất, theo quan niệm “đoạn kiến”, nghĩ rằng chết là hết, nên không cần quan tâm đến thiện ác, tội phước, quả báo gì cả, cứ lo hưởng thụ lạc thú vật chất và sự giàu sang hiện tại. 3. Ái dục đeo níu theo khoái lạc vật chất, theo quan niệm “thường kiến”, nghĩ rằng những lạc thú và tài sản sẽ còn với mình mãi mãi, lâu dài vĩnh cửu, trường tồn.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567