Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Mã Minh Bồ Tát Truyện

05/09/202412:23(Xem: 398)
Mã Minh Bồ Tát Truyện
images_10-09_maminh_835468481

Mã Minh Bồ Tát Truyện

Hậu Tần Tam Tạng Cưu Ma La Thập (Hán dịch)
Thích Chúc Hiền (Việt dịch)



Có Đại sư tên Bồ Tát Mã Minh là đệ tử của Trưởng lão Hiếp. Bấy giờ, Trưởng lão Hiếp chăm lo Phật pháp nhập Tam muội quán xem ai là người có thể xuất gia rộng tuyên đạo pháp giáo hóa khai ngộ chúng sanh? Trưởng lão Hiếp thấy Trung Thiên Trúc có ngoại đạo xuất gia, thế trí biện thông, giỏi nghị luận. Vị ấy xướng rằng: Nếu các tỳ kheo, người nào có khả năng nghị luận với ta thì hãy đánh kiền chuỳ. Còn như không có khả năng thì không đáng để đánh kiền chuỳ nhận cúng dường từ người khác. Khi ấy, Trưởng lão Hiếp mới từ Bắc Thiên Trúc đến Trung Thiên Trúc, thành Thích Ca. Trên đường đi ngài gặp các Sa di. Các Sa di đều cùng đi với ngài: Đại đức trưởng lão cùng nô đùa với bọn con. Tức thì họ đến nắm tay ngài dắt đi, những trò tinh nghịch của các Sa di Trưởng lão đều bỏ qua. Diện mạo của Trưởng lão vẫn bình thản không hề có dấu hiệu tỏ ra bất mãn. Trong các Sa di có người học vấn rộng nhận ra Trưởng lão là bậc phi phàm, có hiểu biết sâu xa, nên dò hỏi sở hành của Trưởng lão. Trưởng lão thong thả bước đi và ôn tồn trả lời kẹn kẽ thông suốt hết những thắc mắc của vị ấy. Bấy giờ, các Sa di đều thấy Trưởng lão là bậc cao đức có hiểu biết sâu xa khó lường, nên họ càng thêm cung kính, theo hầu cận Trưởng lão. Khi đó, Trưởng lão dùng thần lực nương hư không để đến Trung Thiên Trúc trú trong một ngôi chùa. Trưởng lão hỏi các tỳ kheo: “Sao không y pháp đánh kiền chuỳ?” Các tỳ kheo đáp: “Thưa Trưởng lão vì có nguyên nhân không đánh kiền chuỳ”. Trưởng lão hỏi: Vì cớ gì? Đáp: Có ngoại đạo xuất gia có khả năng nghị luận giỏi, xướng rằng:”Bảo các chúng sa môn Thích tử trong nước nếu không có khả năng nghị luận với ngài thì không được đánh kiểu chuỳ nhận sự cúng dường từ người khác”. Do có lời ấy nên không đánh kiền chuỳ. Trưởng lão bảo: Hãy đánh kiền chuỳ nếu vị ấy tới thì ta ra ứng đối. Các cựu tỳ kheo rất lấy làm lạ lời ấy mà nghi là Trưởng lão không thể tranh biện. Chư vị cùng tập họp để bàn việc đánh kiền chuỳ. Nếu ngoại đạo đến sẽ thỉnh Trưởng lão đảm nhiệm ứng đối. Thế rồi, chư tỳ kheo cho đánh kiền chuỳ. Ngoại đạo liền hỏi: Nay vì cớ gì mà đánh kiền chuỳ? Đáp: Phương Bắc có Sa môn Trưởng lão đến đánh kiền chuỳ, chứ không phải chúng tôi. Ngoại đạo nói: Hãy bảo Trưởng lão đến đây. Liền thỉnh Trưởng lão ra diện kiến. Ngoại đạo hỏi: Trưởng lão muốn luận nghị chăng? Đáp: Đúng thế. Ngoại đạo liền cười nói: Trưởng lão tỳ kheo này dáng vẻ đã như vầy. Lại nói: Cũng chỉ là người thường thôi sao lại muốn luận nghi với ta? Hai vị liền cùng hẹn. Bảy ngày sau, mời quốc vương, đại thần, sa môn, ngoại đạo cùng vân tập, các đại pháp sư sẽ đến đó luận nghị. Qua đêm thứ sáu, Trưởng lão nhập quán tam muội chiêm nghiệm điều cần ứng đối. Đến sáng ngày thứ bảy đại chúng vân tập. Trưởng lão đến trước liền thăng tòa cao, diện mạo hoan hỷ hơn ngày thường. Ngoại đạo đến sau ngồi dãy ghế phía trước. Nhìn thấy dáng vẻ sa môn hòa vui, tâm ý an tịnh, thư thái, lại toàn thân có đủ luận tướng. Ngoại đạo liền nghĩ rằng: Phải chăng đây là một Thánh tỳ kheo, tâm chí an vui lại đầy đủ luận tướng? Hôm nay chắc chắn Trưởng lão sẽ thành công trong cuộc nghị luận. Trưởng lão liền cùng ngoại đạo lập giao ước: Nếu người nào thua thì sẽ chịu tội gì? Ngoại đạo đáp: Nếu thua thì phải chịu cắt lưỡi. Trưởng lão ôn tồn đáp: Không được! Chỉ cần làm đệ tử là đủ rồi! Ngoại đạo đáp: Được!

Ngoại đạo lại hỏi: Ai nói trước? Trưởng lão đáp: Ta tuổi già, từ xa đến, lại ngồi đây trước lẽ ra ta nói trước. Ngoại đạo đáp: Cũng được! Ngoại đạo nói những điều hôm nay Trưởng lão nói tôi sẽ đả phá hết. Trưởng lão nói: Những điều ta nói sẽ khiến thiên hạ thái bình, đại vương trường thọ, cõi nước hưng thịnh, an lạc, không có tai ương, hoạn ách. Ngoại đạo im lặng không biết nói gì, đành ở chỗ thua cuộc quy phục cạo bỏ râu tóc làm đệ tử. Trưởng lão độ vị ấy làm Sa di và cho thọ giới cụ túc. Vị ấy ngồi một mình ở nơi thanh vắng tự tâm tư duy: Ta có tài hiểu biết sáng suốt sâu xa nổi tiếng làm chấn động thiên hạ nhưng sao vì một lời của Trưởng lão mà dẫn đến phải chịu quy phục liền làm đệ tử người khác? Nghĩ vậy tâm không vui. Trưởng lão biết tâm vị ấy nên liền bảo vào phòng rồi Trưởng lão hiện thần túc hiển bày các biến hóa. Từ đó vị ấy mới biết Trưởng lão là bậc phi phàm, nên vị ấy liền vui vẻ nghĩ rằng: Ta là đệ tử cố gắng làm như Trưởng lão. Trưởng lão nói: Ngươi thông minh tài năng nhưng không dễ đạt đến chân thật nên không thành tựu. Nếu học được pháp của ta, ngươi là người có năng lực hiểu biết, biện tài sâu sắc, thông suốt, thấu rõ nghĩa thú thì tương lai trong thiên hạ không ai địch nổi. Sau, Trưởng lão trở về nước, vị đệ tử ấy ở lại Trung Thiên Trúc thông suốt các kinh, thấu rõ trong ngoài, tài biện luận trùm khắp thế gian, bốn chúng kính phục. Vua nước Thiên Trúc rất quý trọng tiếp đãi vị ấy. Sau đó, vua nước nhỏ Nguyệt Thị  Bắc Thiên Trúc đến chinh phạt ở Trung Thiên Trúc. Khi vây giữ kinh thành, vua Trung Thiên Trúc sai mang thư hỏi rằng: Nếu vua có nhu cầu điều gì sẽ chu cấp, sao trụ ở đây lâu làm khốn khổ dân chúng ? Vua nước Nguyệt Thị đáp: Theo ý ngươi thì hãy dâng ba ức vàng thì sẽ tha cho. Vua Trung Thiên Trúc đáp: Cả nước không có được một ức vàng, làm sao có ba ức để dâng. Đáp: Trong nước ngươi có hai bảo vật lớn: một là bình bát Phật, hai là Tỳ kheo biện tài. Đem hai thứ báu dâng cho ta thì đáng được hai ức vàng. Vua nói: Hai bảo vật này ta rất trân quý không thể đem dâng. 

Bấy giờ, tỳ kheo thuyết pháp cho vua. Tỳ kheo nói: Phàm vua có cảm tình nhận sự giáo hóa trong thiên hạ thì không có hai. Phật đạo nghĩa sâu rộng gồm cả sự cứu giúp chúng sanh. Đức của bậc Đại nhân cũng lấy việc cứu độ chúng sanh làm đầu. Theo lẽ ở đời có nhiều khó khăn, nên vua chỉ giáo hóa một nước mà thôi. Nay hoằng tuyên Phật đạo thì tự mình có thể làm pháp vương trong bốn biển. Tỳ kheo độ người nghĩa không gì khác, công đức ở nơi tâm lẽ đạo không có xa gần. Nên gìn giữ lợi ích sâu xa rộng lớn, chứ đâu cần những điều ở trước mắt mà thôi. Vua thấu hiểu càng thêm kính trọng, thực hành theo lời của tỳ kheo liền dâng tỳ kheo cho vua Nguyệt Thị. Vua Nguyệt Thị liền trở về nước. Các bề tôi nghị bàn rằng: Vua phụng thờ bình bát Phật nên giữ kỹ. Vị tỳ kheo mà thiên hạ đều cho là đáng một ức vàng không phải là thái quá. Vua biết rõ tỳ kheo là bậc cao minh, thù thắng, là người dẫn đường làm lợi ích hoằng truyền Phật pháp , có tài biện luận thuyết pháp thâm sâu cảm hóa loài phi nhân, sẽ khai ngộ cho những kẻ mê lầm. Vua thử để bảy con ngựa đói đến sáu ngày, cho tập hợp khắp sa môn, các học giả khác trong và ngoài nước, thỉnh tỳ kheo thuyết pháp. Các thính giả không ai mà không khai ngộ. Vua đem cột ngựa trước hội chúng, đem cỏ cho chúng. Ngựa rơi lệ nghe pháp không màng đến việc ăn cỏ. Từ đó thiên hạ mới biết tỳ kheo là bậc phi phàm, vì ngựa hiểu được âm thanh thuyết pháp của tỳ kheo, nên bèn gọi tỳ kheo là Mã Minh Bồ Tát. Ở Bắc Thiên Trúc ngài Mã Minh đã hoằng tuyên Phật pháp sâu rộng, dẫn dắt làm lợi ích cho quần sanh bằng phương tiện khéo léo. Bồ tát là bậc thành tựu công đức được bốn chúng kính trọng, lại tôn xưng ngài là “Mặt trời công đức”.

(Trích dịch từ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh No: 2046)

Tu Viện An Lạc, California, 04-09-2024

Thích Chúc Hiền ( kính dịch)




images_10-09_maminh_835468481

大正新脩大藏經 第50冊
No.2046 馬鳴菩薩傳 (1卷)
【後秦 鳩摩羅什譯】
第 1 卷

No. 2046

馬鳴菩薩傳

後秦三藏鳩摩羅什譯

有大師名馬鳴菩薩。長老脇弟子也。時長老脇勤憂佛法入三昧觀。誰堪出家廣宣道化開悟眾生者。見中天竺有出家外道。世智聰辯善通論議。唱言若諸比丘。能與我論議者。可打揵椎。如其不能。不足公鳴揵椎受人供養。時長老脇。始從北天竺欲至中國。城名釋迦。路逢諸沙彌。皆共戲之。大德長老與我富羅提。即有持去者。種種嫐之輒不以理。長老脇顏無異容恬然不忤。諸沙彌中廣學問者。覺其遠大疑非常人。試問其人觀察所為。隨問盡答而行不輟足。意色深遠不存近細。時諸沙彌具觀長老德量沖邃。知不可測倍加恭敬。咸共侍送。於是長老脇。即以神力乘虛而逝到中天竺。在一寺住問諸比丘。何不依法鳴揵椎耶。諸比丘言。長老摩訶羅。有以故不打也。問言何故。答言。有出家外道善能論議。唱令國中諸釋子沙門眾。若其不能與我論議者。不得公鳴犍椎受人供養。以有此言是故不打。長老脇言。但鳴犍椎。設彼來者吾自對之。諸舊比丘深奇其言。而疑不能辨。集共議言且鳴犍椎。外道若來。當令長老任其所為。即鳴犍椎。外道即問。今日何故打此木耶。答言。北方有長老沙門。來鳴犍椎非我等也。外道言。可令其來。即出相見。外道問言。欲論議耶。答言然。外道即形笑言。此長老比丘形貌既爾。又言。不出常人。如何乃欲與吾論議。即共要言。却後七日。當集國王大臣沙門外道。諸大法師於此論也。至六日夜長老脇。入于三昧觀其所應。七日明旦大眾雲集。長老脇先至即昇高座。顏色怡懌倍於常日。外道後來當前而坐。占視沙門容貌和悅志意安泰。又復舉體備有論相。便念言將無非是聖比丘耶。志安且悅又備論相。今日將成佳論議也。便共立要若墮負者當以何罪外道言若負者當斷其舌。長老脇言此不可也。但作弟子足以允約。答言可爾。又問誰應先語。長老脇言。吾既年邁故從遠來。又先在此坐理應先語。外道言亦可爾耳。現汝所說吾盡當破。長老脇即言。當令天下泰平大王長壽國土豐樂無諸災患。外道默然不知所言。論法無對即墮負處。伏為弟子剃除鬚髮。度為沙彌受具足戒。獨坐一處心自惟曰。吾才明遠識聲震天下。如何一言致屈便為人弟子。念已不悅。師知其心即命入房。為現神足種種變化。知師非恒心乃悅伏。念曰吾為弟子固其宜矣。師語言汝才明不易真未成耳。設學吾所得法。根力覺道辯才深達。明審義趣者。將天下無對也。師還本國弟子住中天竺。博通眾經明達內外。才辯蓋世四輩敬伏。天竺國王甚珍遇之。其後北天竺小月氏國王。伐於中國圍守經時。中天竺王遣信問言。若有所求當相給與。何足苦困人民久住此耶。答言汝意伏者送三億金當相赦耳。王言舉此一國無一億金。如何三億而可得耶。答言汝國內有二大寶。一佛鉢二辯才比丘。以此與我足當二億金也。王言此二寶者吾甚重之不能捨也。於是比丘為王說法。其辭曰。夫含情受化者天下莫二也。佛道淵弘義存兼救。大人之德亦以濟物為上。世教多難故王化一國而已。今弘宣佛道自可為四海法王也。比丘度人義不容異功德在心理無遠近。宜存遠大何必在目前而已。王素宗重敬用其言。即以與之月氏王便還本國。諸臣議曰王奉佛鉢固其宜矣。夫比丘者天下皆是當一億金。無乃太過。王審知比丘高明勝達。導利弘深辯才說法乃感非人類。將欲悟諸群惑。餓七匹馬至於六日旦。普集內外沙門異學請比丘說法。諸有聽者莫不開悟。王繫此馬於眾會前以草與之(馬嗜浮流故以浮流草與之也)馬垂淚聽法無念食想。於是天下乃知非恒。以馬解其音故。遂號為馬鳴菩薩。於北天竺廣宣佛法。導利群生善能方便。成人功德四輩敬重。復咸稱為功德日。

馬鳴菩薩



Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com 
KHÁCH VIẾNG THĂM
50,000,000