315. Sáu Thời Sám Hối do Vua Trần Thái Tông biên soạn
🙏🌷🙏🌼🙏🌺🙏🌹🌺🍀💐🌼🌹🥀🌷🌸🏵️🌻🌺🍀💐🌼🌹🥀🌷🌸🏵️
Nam Mô A Di Đà Phật
Kính bạch Sư Phụ, hôm nay Thứ Năm, 25/11/2021 (21/10/Tân Sửu), chúng con được học về Sáu Thời Sám Hối, trích từ Khóa Hư Lục của Trần Thái Tông (1218 - 1277), một vị Vua khai sáng triều đại nhà Trần, cũng là một Thiền Sư Việt Nam, người có công thiết lập nền tảng vững chắc cho Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử, một dòng thiền nguyên chất của người Việt Nam. Sư phụ dựa theo tài liệu gốc Thiền Sư Việt Nam do HT Thích Thanh Từ biên soạn và ấn hành tại VN vào năm 1972. Pháp thoại hôm nay là bài giảng thứ 315 của Sư Phụ bắt đầu từ mùa cách ly do bệnh đại dịch covid 19 (đầu tháng 5-2020).
Phương đông tờ mờ sáng,
Mặt đất tối tan dần.
Tâm chạm trần cảnh dấy,
Mắt lòa sắc tưng bừng.
Xác thối đừng ôm mãi,
Đầu vùi, sớm ngưỡng lên.
Ân cần chuyên sáu niệm,
Hầu mong hợp cơ chân.
(Lễ Tam Bảo ba lạy)
Sư Phụ giải thích:
- Sư Phụ kể lại chuyện đau buồn của vua Trần Thái Tông bị Trần Thủ Độ ép lấy nữ hoàng Lý Chiêu Hoàng mới có 8 tuổi và Lý Chiêu Hoàng phải nhường ngôi cho chồng là Trần Cảnh lên ngôi lấy hiệu là Trần Thái Tông lập ra triều đại nhà Trần kéo dài được 175 năm.
Lúc Vua Trần Thái Tông 21 tuổi, Lý Chiêu Hoàng 20 tuổi không có con. Trần Thủ Độ ép vua Trần Thái Tông lấy chị dâu là Thuận Thiên, vợ của Trần Liễu, đang có thai, Lý Chiêu Hoàng bị giáng xuống là công chúa.
Vua Trần Thái Tông buồn khổ vì bị chia ly với Lý Chiêu Hoàng, Vua bỏ trốn lên núi và bị Trần Thủ Độ ép trở lại hoàng cung. Quốc Sư Đạo Viên khuyên Vua nên trở về thành Thăng Long thuận theo ý của dân.
- Từ năm 21 tuổi đến năm 31 tuổi, Vua tinh tấn hành trì tu tập trong đêm khuya, Vua thọ trì kinh Kim Cang và lãnh hội yếu chỉ.
Dù bị ép lên làm vua, lấy vợ, bỏ vợ rồi lấy chị vợ của anh ruột, gây đau khổ và tang thương cho nhiều người khác vị sự xuất hiện của mình, nên Vua cảm thấy bản thân mình quá nhiều tội lỗi, nên Vua Trần Thái Tông đã biên soạn Khoa Nghi Sáu Thời Sám Hối này để tự mình thực hành mỗi ngày để tiêu trừ nghiệp chướng.
* Sáu thời sám hối, về không gian là sáu thời, về bản thể là sáu căn (nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý ) để mau ra khỏi sáu nẻo luân hồi (Thiên, Nhân, ATuLa, địa ngục, ngạ quỷ và súc sanh).
Mỗi thời sám hối từ 15-20 phút gồm có đủ 10 phần:
1/kệ cảnh sách cảnh tỉnh
2/ kệ dâng hương
3/ kệ dâng hoa
4/phát nguyện
5/sám hối tội căn
6/khuyến thỉnh Phật chứng minh
7/chí tâm tùy hỷ
8/chí tâm hồi hướng
9/chí tâm phát nguyện
10/kệ vô thường
* Sư Phụ kể Hoà Thượng Thanh Từ đã cho áp dụng Khoa Nghi sám hối này ở trong tất cả thiền viện của Hoà Thượng.
* Ân cần chuyên sáu niệm.
Về sự, sáu niệm là niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, niệm Giới , niệm Thí, niệm Thiên.
Về lý, niệm Phật là niệm tánh giác, niệm Pháp là niệm thanh tịnh, niệm Tăng là niệm hòa hợp tánh, niệm thí là buông xả, niệm thiên là niệm tu 10 điều thiện, niệm giới là niệm thanh tịnh viên mãn.
*Ân cần chuyên sáu niệm, có thể áp dụng:
“Lục tự Di Đà vô biệt niệm.
Bất lao đàn chỉ đáo Tây phương”
Có nghĩa là: “Sáu chữ Di Đà không có một niệm nào khác, không mất công lao nhọc, sát na đến Tây Phương”, tức là hành giả niệm 6 chữ “Nam Mô A Di Đà Phật” mà không có 1 vọng niệm nào can thiệp vào, đó là chỗ nhất tâm bất loạn của hành giả, đó là điều kiện tiên quyết để đi vãng sanh, chấm dứt vòng sanh tử luân hồi, và tất nhiên, đó cũng là điểm đến cuối cùng, vô sanh bất tử của hành giả tu theo pháp môn Thiền tông hay Mật tông.
DÂNG HƯƠNG BUỔI SÁNG
Cúi mong, phương Tây mặt trăng vừa lặn, hướng Đông vầng nhật hiện dần. Chiếu phạn họp dòng thanh tịnh, cõi không lễ bậc Thánh Hiền. Mong thấu lòng thành, kính dâng hương báu.
Hương này, trồng từ rừng giới, tưới bằng nước định, chặt từ vườn tuệ, vót bằng đao giải thoát. Chẳng do sức người, rìu, búa, hình thế xuất tự thiên nhiên. Đốt lên từ lò báu tri kiến, kết đài mây sáng rỡ. Khi bay khắp chốn ngạt ngào, tan ra đầy trời thơm phức. Vừa lúc rạng đông, thắp hương cúng dường.
Sư Phụ giải thích:
- Chiếu phạn họp dòng thanh tịnh là thân tâm được nhẹ nhàng.
- cõi không là cõi không còn vô minh phiền não.
KỆ DÂNG HƯƠNG
Trầm thủy, rừng thiền hương sực nức,
Chiên-đàn, vườn tuệ đã vun trồng,
Đao giới vót thành hình non thẳm,
Nguyện đốt lò tâm mãi cúng dâng.
Sư Phụ giải thích:
- hương lấy từ rừng giới pháp đã thọ, từ sự tu hành của hành giả, hương các loài hoa chỉ bay theo chiều gió nhưng hương trì giới có thể bay ngược chiều gió để tỏa ngát muôn phương.
KỆ DÂNG HOA
Đất tâm mở ra, hoa nở rộn,
Trời có mưa hoa vẫn kém thơm.
Cành cành đóa đóa dâng cúng Phật,
Gió nghiệp muôn đời thổi chẳng rơi.
Sư Phụ giải thích:
Hoa trời không bằng hoa nở ra từ đất tâm. Cành hoa tâm không bị gió nghiệp thổi bay.
PHÁT NGUYỆN
Nguyện mây hương hoa này
Khắp cả mười phương cõi
Cúng dường tất cả Phật,
Tôn Pháp, chư Bồ-tát,
Vô lượng chúng Thanh văn
Và tất cả Thánh Hiền.
Vừa rời đài quang minh
Qua cõi nước vô biên
Trong vô biên cõi Phật
Nhận dùng làm Phật sự.
Xông khắp các chúng sanh
Đều phát tâm Bồ-đề.
(Lễ Tam Bảo một lạy)
Sư Phụ giải thích:
-Bài nguyện hương này do Vua Trần Thái Tông biên soạn từ hơn 800 năm được Chư Hoà Thượng đưa vào nghi thức tụng niệm cho hành giả Việt Nam hành trì
- Nhận dùng làm Phật sự, lời nhắn nhủ là khi làm Phật sự phải nương vào Phật tánh thì không thì rơi vào ma sự.
- Chúng sanh nghe lời phát nguyện sẽ phát Bồ Đề tâm để tu tập.
TÂU BẠCH
Kính bạch, mười phương Đại Giác, ba đời Hùng Sư. Soi đuốc tuệ nơi đường tối, thả thuyền từ trong biển khổ.
Trộm nghe, canh gà vừa qua, bóng thỏ mới lặn. Khói mù nơi sông núi chớm tan, xe ngựa xa gần đều chuyển động. Tiếng mai hoa trên lầu vừa tàn, chén trúc diệp trước song mới tỉnh. Mày liễu thập thò bày nắng sớm, mặt hoa e thẹn đọng sương mai. Gặp khi bừng sáng, thương kẻ ngu mê. Trong đêm giấc mộng đã lờ mờ, sáng đến tâm hồn còn rộn rịp. Mắt tai đuổi theo thanh sắc, mũi lưỡi dính mắc vị hương. Nhà lửa hằng cam thiêu đốt, sông ái mãi chịu đắm chìm. Mặc dù sáng nay ông thức giấc, cũng như người đang ngủ đêm qua. Chẳng lo sanh già bệnh chết đuổi gấp, chỉ chăm vợ con tiền của buộc ràng.
Các Phật tử! Gốc thân chẳng bền, cành mạng khó yên. Mọi người trên đầu đội trời, khó khỏi mắt sáng rơi đất. Một sớm chợt sẩy tay, muôn kiếp thân khó được. Cần phải mau mau gieo giống lành, chớ có khư khư cầu quả ác. Người người sớm tỉnh, mỗi mỗi siêng tu. Chuyên tâm lễ Vô thượng Từ Dung, chạm mắt thấy Đại quang minh tạng.
Đệ tử chúng con, kính tưởng thời này, lấy làm khóa lễ buổi sáng.
(Lễ Tam Bảo một lạy)
Sư Phụ giải thích:
- lời Tâu bạch là bày tỏ tâm trạng của hành giả với mười phương Đại Giác, là mười phương Phật..
- Hùng Sư là danh hiệu tôn vinh Đức Thế Tôn, là bậc Đại Hùng, Đại Lực, Đại Từ Bi, đó là người đã thắng được giặc phiền não để ra khỏi tam giới như Kinh Pháp Cú số 103 nói:
“Thắng ngàn, ngàn địch chiến trường
Chẳng bằng tự thắng bản thân của mình
Thắng mình oanh liệt thật tình
Mới là chiến thắng xứng danh hàng đầu”
(Chuyển Kinh qua thơ Lục Bát của Cư Sĩ Tâm Minh Ngô Tằng Giao)
- Từ Dung là dung nhan từ bi, chỉ cho Đức Thế Tôn
- Đại quang minh tạng là kho ánh sáng trí tuệ là chân tâm Phật tánh của chính mình.
SÁM HỐI TỘI CĂN MẮT
Chí tâm sám hối,
Chúng con từ vô thủy kiếp đến nay;
Bỏ mất bản tâm, không biết chánh đạo.
Rơi ba đường khổ, bởi sáu căn lầm.
Không sám lỗi trước, khó tránh hối sau.
NGHIỆP CĂN MẮT LÀ:
Nhân ác xem kỹ, nghiệp thiện coi khinh.
Lầm nhận hoa giả, quên ngắm trăng thật.
Yêu ghét nổi dậy, đẹp xấu tranh giành;
Chợt mắt dối sanh, mờ đường chánh kiến.
Trắng qua xanh lại, tía phải vàng sai;
Nhìn lệch các thứ, nào khác kẻ mù.
Gặp người sắc đẹp, liếc trộm nhìn ngang;
Lòa mắt chưa sanh Bản lai diện mục.
Thấy ai giàu có, giương mắt mải nhìn;
Gặp kẻ bần cùng, lờ đi chẳng đoái.
Người dưng chết chóc, nước mắt ráo khô;
Thân quyến qua đời, đầm đìa lệ máu.
Hoặc đến Tam Bảo, hoặc vào chùa chiền;
Gần tượng thấy kinh, mắt không thèm ngó.
Phòng Tăng điện Phật, gặp gỡ gái trai;
Mắt liếc mày đưa, đam mê sắc dục.
Không ngại Hộ pháp, chẳng sợ Long thần;
Trố mắt ham vui, đầu chưa từng cúi.
Những tội như thế, vô lượng vô biên;
Đều từ mắt sanh, phải sa địa ngục.
Trải hằng sa kiếp, mới được làm người;
Dù được làm người, lại bị mù chột.
Nếu không sám hối khó được tiêu trừ.
Nay trước Phật đài, thảy đều sám hối.
(Lễ Tam Bảo một lạy)
Sư Phụ giải thích:
- Từ vô thủy kiếp, là không biết khởi đầu từ bao giờ, bản tâm là tâm gốc, tâm gốc chính là tâm giác ngộ. Sáu căn lầm nên rơi vào ba đường khổ.
CHÍ TÂM KHUYẾN THỈNH
Khuyến thỉnh mười phương ba đời Phật
Và chư Bồ-tát, Thánh Hiền Tăng.
Mở rộng tâm từ bi vô lượng
Đồng độ chúng sanh lên bờ kia (giác).
CHÍ TÂM TÙY HỈ
Nay con theo Phật sanh hoan hỉ
Hôm sớm kính thành sám lỗi lầm.
Thềm thang Thập địa nguyện sớm lên.
Bồ-đề Chân tâm không lui sụt.
Sư Phụ giải thích: sám hối sạch sẽ hết mọi lỗi lầm nghiệp chướng hành giả sẽ lần bước lên thềm thang của 10 địa Bồ tát: Hoan hỉ địa, Ly cấu địa, Phát quang địa, Diệm tuệ địa, Cực nan thắng địa, Hiện tiền địa, Viễn hành địa, Bất động địa, Thiện tuệ địa và Pháp Vân địa.
CHÍ TÂM HỒI HƯỚNG
Chúng con hồi tâm nương Thánh chúng
Chí thành đầu lễ đức Từ Tôn.
Nguyện đem công đức đến quần sanh
Nhờ thắng nhân này thành Chánh giác.
(Lễ một lạy)
CHÍ TÂM PHÁT NGUYỆN
Một nguyện rộng mở sáng chánh kiến,
Hai nguyện lau sạch bụi trần mù,
Ba nguyện nhìn hình không đắm mến,
Bốn nguyện thấy sắc chẳng bận lòng.
Năm nguyện quên đầu cần kíp nhận,
Sáu nguyện mắt tuệ tự tròn đầy,
Bảy nguyện hiện nay sớm tỉnh mộng,
Tám nguyện hằng được sáng xưa nay.
Chín nguyện khi nhìn trừ mắt bệnh,
Mười nguyện chỗ thấy dứt không hoa,
Mười một nguyện trông xa mây chướng cuốn,
Mười hai nguyện chớp mắt nghiệp băng trong.
(Lễ Tam Bảo một lạy)
Sư Phụ giải thích:
- Lau sạch bụi trần trong mắt, bụi do chính mình tạo ra. Trong cái thấy chỉ là cái thấy, nếu có nhiều cái thấy là bụi tự mình tạo ra.
- Nguyện thứ mười hai, trong chớp mắt, nghiệp luân hồi sanh tử tan biến như băng bị tan chảy.
KỆ VÔ THƯỜNG BUỔI SỚM
Đêm tối vừa rạng sáng
Ánh dương dần hiện không.
Tóc bạc thầm tới điểm
Má hồng dần đổi thay.
Chẳng biết tuổi xuân ngắn
Vẫn tranh nghiệp quả hùng.
Thân như băng gặp nắng
Mạng tợ đuốc gió đùa.
Chớ mải mê làm khách
Quay về sớm chiếu soi.
(Lễ Tam Bảo một lạy)
Sư Phụ giải thích:
- Thân như băng gặp nắng, thân sẽ bị tiêu hủy.
- Mạng tợ đuốc gió đùa, mạng sẽ tiêu vong như ngọn đuốc gặp gió.
Cuối buổi giảng Sư phụ diễn ngâm bài thơ Sáu Thời Sám Hối của TT Chúc Hiền gởi tặng:
Sáu căn sám hối chuyển mê lầm
Sớm tối trưa chiều hướng diệu nhân
Mũi lưỡi mắt tai rời thói tục
Thân tâm ý tứ lắng tình trần
Tai ương rũ sạch tịnh ba nghiệp
Tội chướng tiêu mòn sáng cõi tâm
Tuệ giác bừng soi trừ cấu nhiễm
Đèn thiền tỏ rạng tháng ngày an…!
Kính bạch Sư Phụ, hôm nay chúng con được Sư Phụ ban giảng về Khoa Nghi Sám Hối Sáu Căn của Vua Trần Thái Tông. Vì không đủ thời gian nên Sư Phụ chỉ giảng trọn vẹn thời sám hối đầu tiên về Căn Mắt, những 5 thời sám hối về tai, mũi, lưỡi, thân và ý, sư phụ sẽ giảng trong dịp khóa tu cuối năm tại Tu Viện Quảng Đức từ ngày 17, 18 và 19 tháng 12 năm 2021 và đặc biệt tại khóa tu 3 ngày này, quý Phật tử sẽ được thực hành lễ sám hối với khóa nghi “Sáu Thời Sám Hối”này.
Có thể nói, cuộc đời của Vua Trần Thái Tông sớm được hưởng vinh hoa phú quý, đạt đến danh vọng tột đỉnh của kiếp người, nhưng đến năm 21 tuổi, một biến cố về tình cảm, và cũng là một bước ngoặt quan trọng của cuộc đời của Vua, đúng là cùng tắt biến, biến tắt thông, cơ duyên mầu nhiệm đã đưa Vua đến đạo lộ giải thoát, từ đó Vua để lại cho đời nhiều tác phẩm Phật học giá trị, trong đó có Khoa Nghi Sám Hối Sáu Thời, giúp ích hàng Phật tử chúng con thọ trì để tiêu trừ nghiệp chướng và sớm lên bờ giác.
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
Cung kính và tri ơn Sư Phụ
Đệ tử Quảng Tịnh Tâm
(Montréal, Canada).
🙏🙏🙏🌹🥀🌷🍀🌷🌸🏵️🌻🌼🍁🌺🍀🌹🥀🌷🌸🏵️