Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Ni Trưởng Như Thanh, bậc chân tu

08/01/202013:34(Xem: 3661)
Ni Trưởng Như Thanh, bậc chân tu


Su_Ba_Nhu_Thanh

Ni Trưởng Như Thanh, bậc chân tu

Tỳ-kheo Thích Nhật Từ

--- o0o ---

Tôi may mắn được diện kiến Người một lần duy nhất, vào năm 1990, tại Chùa Huê Lâm, Thành phố Hồ Chí Minh. Lúc ấy, tôi làm trợ lý cho thầy Thích Phước Cẩn trong việc vận động phiên dịch và ấn hành Phật Quang Đại Từ Điển. Tôi được Người ân cần khích lệ và truyền trao những kinh nghiệm quý báu về cuộc đời tu học và làm việc Phật sự của Người, trong hơn năm mươi năm qua. Lúc ấy, Người đã tròn 80 tuổi. Sức khỏe của Người còn khá tốt. Tinh thần của Người sáng suốt khác thường. Giọng nói của Người thật từ tốn, nhẹ nhàng. Lời dạy của Người ngắn gọn, đơn giản nhưng vô cùng sâu sắc. Tinh thần và năng lực làm việc của Người làm cho tôi vô cùng kính phục. Phong thái thoát tục và cuộc đời của Người đã ảnh hưởng rất nhiều đến sự tu học và làm việc của tôi, từ dạo đó. Người là một trong những bậc tôn đức đã để lại nhiều ấn tượng không bao giờ quên được về cách tu, cách sống và cách nghiên cứu, sáng tác và làm việc, trong tâm trí và tinh thần của những đàn hậu tấn. Đối với tôi, Người như người mẹ tinh thần không giới hạn thế hệ, là tấm gương chói sáng cho việc tu học và phụng sự Phật pháp, là một bậc tôn túc, trưởng lão do đạo đức và trí tuệ, là người hiến dâng trọn đời mình cho sự nghiệp truyền bá chánh pháp, làm lợi lạc nhân sanh. Tôi kính nhớ Người như kính nhớ đến một bậc chân tu, một nhà thơ đạo, một nhà nghiên cứu sáng tác Phật giáo và một người thể hiện sống động tinh thần Bồ-tát đạo.

Ni Trưởng như thanh, bậc chân tu

Xuất thân trong một gia đình kính tin Ba ngôi báu, Ni Trưởng sớm nhận chân ra được bản chất của cuộc đời, quyết chí xuất trần, khi tuổi thanh xuân vừa chớm nỡ. Sau khi xuất gia với Sư tổ Pháp A?, Ni Trưởng nối gót các bậc tổ đức, vân du đây đó để tầm cầu chánh pháp, tham học với các bậc cao tăng thạc đức, ở mọi miền đất nước lúc bấy giờ. Song song với việc tu học trong những năm tháng đầu, Ni Trưởng còn tham gia xây dựng Chùa cho chư Ni có nơi an tâm tu học. Sau khi nắm vững được tinh yếu và cốt lõi của chánh pháp, Ni Trưởng bắt đầu dấn thân vào sự nghiệp giảng dạy, khai mở giới trường, xây dựng các trung tâm giáo lý cho Ni, mở trường tiểu học miễn phí cho cho các trẻ em nghèo hiếu học. Để đạo tạo và phát triển Ni giới Phật giáo Việt Nam, Ni Trưởng đã vận động và thành lập Ban quản trị Ni bộ Nam Việt. Công đức thành lập Ni bộ Bắc tông miền Nam Việt Nam này chắc chắn được Ni đoàn và Phật giáo Việt Nam trong thời hiện đại ghi nhớ và trân trọng. Người còn chấn tích quang lâm làm Hòa thượng đường đầu cho 15 giới đàn sa-di, sa-di-ni, thức-xoa-ma-na và tỳ-kheo-ni tại Thành phố Hồ Chí Minh và tại các tỉnh thành lân cận, từ năm 1946 cho đến năm 1994.

Trong suốt cuộc đời hoằng pháp, Người không hề tham gia vào chính sự, không cần đến sự hỗ trợ của bất kỳ chính thể nào, ấy thế mà mỗi hành vi, lời nói của Người đều thấm nhuần chất yêu nước, thương dân; và khuynh hướng cũng như cách thế làm đạo của Người đều mang tính tùy duyên bất biến và phương tiện quyền xảo. Cuộc đời của Người cho chúng ta thấy rằng cần gì phải tham gia chính trị mới yêu nước? Cần gì đến sự ủng hộ của chính thể này hay chính thể nọ mới gọi là tùy duyên? Với cuộc sống thanh cao, thoát tục và hạnh nguyện độ sanh của Người, ai dám nói Người là không yêu nước, không bảo vệ quốc gia, không vận dụng phương tiện để đưa giáo pháp của đức Phật đi vào sự sống của quần chúng Việt Nam? Cuộc đời của Người là cuộc đời của một vị chân tu, tự mình thắp đuốc lên mà đi. Hạnh nguyện của Người là tự thắp sáng đuốc của mình rồi truyền đuốc và?mòi đuốc cho người khác. Người sống trong thế gian để mà vượt lên trên thế gian. Người ở trong đời để mà độ đời. Người mộc mạc và bình dị trong cách sống để giúp mọi người nhận ra được cái siêu tuyệt của chánh pháp trong thế sự thường tình. Không có chánh pháp và chân lý nào tồn tại ngoài thế gian cũng như không có việc làm nào của Người là không nhằm hướng đến sự lợi lạc cho tha nhân và cộng đồng xã hội. Nhớ đến Người là nhớ đến một bậc chân tu làm chói sáng đạo giải thoát bằng cuộc sống bình dị, thanh cao; làm ích nước, lợi đời bằng hành vi chánh pháp. Người bình dị nhưng cao vĩ, trong đời nhưng vượt lên trên đời, để cho đời ca tụng.

Ni Trưởng Như Thanh, một nhà thơ đạo

Sáng tác thơ đạo là một trong những nét nổi bậc của Ni Trưởng. Đối với Ni Trưởng, thơ không phải là trò tiêu khiển mà là một phương tiện hữu hiệu, một lợi khí sắc bén để truyền đạo, để đem giáo lý vào lòng người. Với sáu tập thơ Hoa Đạo, Hoa Thiền, Hoa Thanh Lương, Hương Hoa Bát-nhã, Hoa Đạo Hạnh và Phẩm Chất Người Con Phật, được làm và xuất bản trong những thời điểm khác nhau, Ni Trưởng đã giới thiệu một cách sống động những lời dạy cao siêu của đức Phật dưới hình thức của những vần thơ giản dị, thanh thoát, nhẹ nhàng, mang hồn sắc Việt Nam. Thơ của Ni Trưởng mang một chí nguyện xuất trần, vào đời độ sanh. Thơ của Ni Trưởng là tất cả tâm tư, tình cảm, kinh nghiệm và thể nghiệm của một người đã trải qua quá trình tu tập nhiều gian khó, truyền lại cho người đọc những chất liệu của tình thương yêu, lượng thứ bao dung, những chất liệu của chánh pháp đã tinh chế, để tất cả cùng nhau thở cùng nhịp thở an lành trong bầu khí quyển của chánh pháp. Thơ của Người đậm đà tình quê hương dân tộc và thấm nhuần hương vị đạo đức.

Từ những bài thơ đầu tay vào năm 1932 cho đến những bài thơ cuối cùng trong những năm gần viện tịch, trải dài trong khoảng thời gian hơn 60 năm, tinh thần thơ của Người như nguồn mạch tuôn trào, thấm nhuần chất đạo, đậm đặc tinh hoa, mang mác ân tình, dồi dào đạo lực, ấp ủ chí khí, dào dạt tình thương, nuôi lớn hạnh nguyện, và đậm đà chất ngụ ngôn và triết lý sống. Thiên nhiên và mọi sự vật hiện tượng đối với Người không chỉ là nơi để thưởng ngoạn mà còn là công cụ để chuyển tải đạo, mô tả đạo một cách sống động. Từ hình ảnh của người nông dân mộc mạc, chú lái đò thân thương, ông phú ông bủn xỉn, cho đến con chim sáo, chim hoàng oanh, con tôm, con tép, con ếch, con lừa, và ngay cả hình ảnh của chiếc lồng, của viên ngọc, của sóng, của nước, của trời và biển?đều được Người vận dụng nhuận nhuyễn để diễn tả chân lý trong những cái bình thường. Thơ của Người lúc thì sử dụng các thể thất ngôn tứ tuyệt, thất ngôn bát cú, khi thì sử dụng lục bát và song thất lục bát và ngay cả thể tự do nhưng tất cả đều mang đậm chất liệu Việt Nam, thuần ngôn ngữ và tâm tình của người Việt Nam. Thơ của Người khi thì chứa đựng các ẩn dụ triết lý, các so sánh ví von, lúc thì khéo sử dụng các phương pháp tương phản, liệt kê, tất cả nhằm hướng cho người đọc nhận ra được tinh hoa áo nghĩa của lời Phật dạy trong đời thường, như duyên khởi, nhân quả tương ứng, tội phước phân minh, trau dồi đạo đức, đa văn, thiền định và trí huệ?Đây là việc làm đáng học hỏi, đáng được trân trọng. Người xứng đáng với tên gọi một nhà thơ đạo, một nhà thơ lớn của Ni giới Việt Nam, một nhà thơ của Phật giáo Việt Nam và là một nhà thơ tầm cở của dân tộc Việt Nam hôm nay và mai sau.

Ni Trưởng như thanh, nhà nghiên cứu sáng tác tầm cỡ

Nói đến Ni Trưởng là nói đến người suốt đời tận tụy với sự nghiệp bút nghiên cho Phật giáo và cho đàn hậu tấn. Ni Trưởng đã khởi đầu sự nghiệp sáng tác vào độ tuổi thanh xuân, cái tuổi mà người đời còn say mê trong hưởng thụ vật chất và vui chơi. Sớm ý thức và giác ngộ lẽ đạo siêu thoát, Ni Trưởng đã ròng rã suốt gần 60 năm, sáng tác, dịch thuật và sớ giải các kinh điển quan trọng của Phật giáo Đại thừa. Đây là một tấm gương mà không phải một vị cao ni nào, một bậc tôn túc nào cũng có thể làm được. Các sáng tác của Ni Trưởng nhắm vào các chủ đề nghiên cứu khác nhau, cho các đối tượng khác nhau, để xiển dương chánh pháp của đức Phật. Về lịch sử, có thể kể đến các tác phẩm Lược sử Phật Thích-ca và Lược sử Kiều-đàm-di mẫu. Về nghi thức tụng kinh, có thể kể đến các quyển Nghi thức tụng niệm, Nghi thức niệm hương và Nghi thức phóng sanh. Về các sách cẩm nang, có thể kể đến các quyển Cẩm nang người Phật tử (cho Phật tử tại gia), Giới đức kiêm ưu (cho người xuất gia) và Phật pháp giáo lý (cho cả hai đối tượng tại gia và xuất gia).

Trong mười năm cuối đời, Ni Trưởng đầu tư vào việc giới thiệu và sớ giải các kinh điển quan trọng của Phật giáo Đại thừa như các tác phẩm Hành Bồ-tát đạo (3 tập), Bát-nhã cương yếu (2 tập) và Duy thức học. Các tác phẩm này có giá trị nghiên cứu rất cao, không những về phương diện cung cấp tri thức Phật học mà còn ở phương diện truyền trao kinh nghiệm tu tập Phật học. Cách tiếp cận và sớ giải của Ni Trưởng trong các phẩm trên rất đặc biệt, mang tính chiều sâu và toàn diện. Chúng có thể được xem như những sách căn bản và tiêu chuẩn cho việc nghiên cứu và tu học Phật pháp.

Ngoài các sáng tác trên, Ni Trưởng còn tuyển dịch nhiều tác phẩm căn bản và quan trọng trong Phật giáo, nhằm đáp ứng cho việc nghiên cứu và học hỏi của tăng ni và Phật tử lúc bấy giờ. Các dịch phẩm ấy liên quan đến tư tưởng bát-nhã như Hai mươi bốn bài kệ bát-nhã, đến tinh hoa cũng như sự giống và sự khác nhau giữa thiền và tịnh độ như Thiền tông cương yếu và Thiền tông và Tịnh độ tông, đến phương pháp tu tập hữu hiệu như Tinh thần tu dưỡng, đến tinh thần nhập thế và hoạt động xã hội như Hộ quốc nhân vương và Hưng thiền hộ quốc và liên quan đến tiêu chí khôi phục và chứng hưng đạo Phật như Làm thế nào để chấn hưng Phật giáo.

Ngoài các dịch phẩm tiêu biểu trên, Ni Trưởng còn xuất bản sáu tuyển tập thơ đạo, tổng cộng gần 1000 bài thơ với nhiều thể loại khác nhau, do Người sáng tác ngay sau khi mới xuất gia và cho đến những năm cuối đời. Ni Trưởng còn là Tổng biên tập và Chủ biên của hai tạp chí Phật học mang tên Hoa đàm và Nhân cách, để khích lệ ni chúng sáng tác và truyền bá chánh pháp, dưới dạng thức văn học và phương diện hành đạo thực tiễn.

Với số lượng của 20 tác phẩm và 8 dịch phẩm như vừa nêu trên về các chủ đề Phật học khác nhau, được viết và xuất bản trong vòng 60 năm qua, mà trong số đó có?nhiều tác phẩm đã được tái bản nhiều lần, cũng đủ cho thấy tinh thần làm việc không mệt mỏi, tinh thần phục vụ tận tụy và gương hy sinh cao cả của Người, đối với Đời, đối với Đạo, đối với tăng ni Phật tử và đối với dân tộc Việt Nam. Người quả thật xứng đáng là nhà nghiên cứu và sáng tác Phật học tầm cở, không chỉ thuộc vào bậc nhất nhì trong giới Ni Việt Nam trong thế kỷ 20 mà còn thuộc vào bậc xứng đáng "ngồi riêng một chiếu" trong ni giới về gương hạnh làm việc và sáng tác trong suốt mấy ngàn năm của lịch sử Phật giáo Việt Nam.

-oOo-

Nhớ đến Người là tôi nhớ đến một vị Ni Trưởng đã đào tạo nên nhiều thế thệ Ni sư, Sư cô mà nhiều người trong số đó đã đóng góp không nhỏ vào sứ mạng truyền bá chánh pháp của đức Phật, làm lợi lạc con người và dân tộc Việt Nam. Dù cho sau này, nhục thân của Ni Trưởng không còn nữa nhưng tôi vẫn tin tưởng rằng tên tuổi, hình ảnh và tinh thần phụng sự chánh pháp của Người luôn sống mãi trong lòng của Ni bộ Việt Nam, trong Phật giáo Việt Nam hôm nay và mãi mãi về sau.

Dầu cho có phải vĩnh biệt Người trong nỗi đau khó tả, trong sự nhận thức lẽ vô thường tạm bợ, trong hoài bảo phụng sự chúng sanh chưa trọn vẹn, nhưng với niềm tin bền vững về một tương lai tươi sáng của Ni bộ miền Nam Việt Nam nói riêng và của Ni bộ Phật giáo Việt Nam nói chung, tôi kính mong và tin tưởng rằng quý Ni sư và Sư cô đệ tử của Người sẽ làm cho những giáo huấn và hành động bảo vệ chánh pháp của Người trở thành hiện thực. Được như vậy thì nỗi đau vô thường sẽ không còn là nỗi đau nữa mà là đầu nguồn của Phật sự độ sanh, của an lạc, giải thoát trong thế giới tử sanh như quy luật này.

Tôi mong sao sự ra đi của Ni Trưởng không phải là sự mất mát cho Ni chúng mà là sự cảnh tỉnh Ni chúng nhiều hơn về nguyên lý sanh-già-bệnh-chết, mà cố gắng nỗ lực hết mình trong sự nghiệp hoằng pháp lợi sanh, đem ánh sánh chân lý từ bi và trí tuệ của Phật giáo vào cuộc đời nhiều u mê, tăm tối này. Sự ra đi của Người có chăng chỉ là bài giáo huấn cho tất cả chúng ta, những ai chỉ mới tu tập cho bản thân mình, những ai chỉ giới hạn mình trong khuôn khổ lời kinh tiếng kệ mà chưa dấn thân vào sự nghiệp độ sanh, chưa tắm mình trong biển Phật học, để góp phần làm sáng soi chánh pháp cho Phật tử Việt Nam, cho văn học Phật giáo, cho dân tộc Việt Nam và cho văn hóa dân tộc. Do đó, tôi tin rằng sự ra đi của Người sẽ là nguồn động cơ không gì có thể cưởng lại được cho sự vươn dậy và trưởng thành của tất cả Ni chúng tu học theo người: Hãy noi gương Người làm xán lạn chánh pháp tại cuộc đời này, như Người đã từng khổ công thực hiện và chỉ dạy.

Cuộc đời và hạnh nguyện của Người đã góp phần tô bồi cho cây Bồ-đề Việt Nam mãi tốt tươi, cho cây đời Việt Nam vươn tới sự sống an lạc, cho Phật giáo và Dân Tộc mãi mãi bên nhau. Ngưỡng mong quý Ni sư, quý Sư cô, quý Phật tử đệ tử của Người hãy tiếp nối sự nghiệp của Người, đem đuốc tuệ của Người truyền đi khắp nơi, thắp sáng ngọn đèn chánh pháp khắp đó đây, để làm tỏ sáng chất liệu an lạc, giải thoát cho bầu trời Việt Nam hôm nay và mai sau.

Thành kính vĩnh biệt Người trong thế giới diệt sanh.

Kính mong mãi gặp được Người trong gương hạnh độ sanh thoát tục.

New Delhi, ngày 27 tháng 11 năm 1997.

Tỳ-kheo Thích Nhật Từ,
cẩn bút

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
14/10/2024(Xem: 908)
Bầu không khí chính trị trên thế giới hiện nay đang nóng bỏng vì khuynh hướng độc tài, cực đoan, chia rẽ, hận thù và cuồng vọng không thua kém gì bầu khí quyển của địa cầu đang nóng dần lên do khí thải nhà kính gây ra. Cả hai đều do con người tạo ra và đều là thảm họa cho nhân loại! Nhưng thảm họa này không phải là điều không thể giải quyết được, bởi lẽ những gì do con người gây ra cũng đều có thể do con người ngăn chận và hóa giải được. Cụ thể là hàng chục năm qua, Liên Hiệp Quốc đã nỗ lực kêu gọi, bằng các nghị quyết, các quốc gia cố gắng thực hiện các biện pháp giảm khí thải nhà kính, với các chính sách cắt giảm lượng tiêu thụ nhiên liệu hóa thạch, gia tăng sản lượng xe chạy bằng điện năng, v.v… Dù kết quả chưa đạt được mức yêu cầu, nhưng cũng đã gây được ý thức và thể hiện quyết tâm của cộng đồng thế giới trong việc giải quyết thảm họa của khí thải nhà kính.
04/06/2024(Xem: 3226)
Cùng toàn thể giới tử thọ trì Bát quan trai giới một ngày một đêm tại trú xứ Tăng già-lam Phước duyên, thành phố Huế, hiện diện quý mến. Một ngày một đêm quý vị ở trong Tịnh giới với niềm tin thanh tịnh, kiên cố, bất hoại đối với Tam bảo. Nhờ niềm tin này mà quý vị không để cho Giới pháp của mình bị sứt mẻ ở trong đi, ở trong đứng, ở trong nằm, ở trong ngồi, ở trong sự nói năng, giao tiếp. Quý vị có được niềm tin này là nhờ quý vị nuôi lớn sáu tính chất của Tam bảo, khiến cho ba nghiệp của quý vị được an tịnh, an tịnh về thân hành, an tịnh về ngữ hành, an tịnh về ý hành. Sáu tính chất của Tam bảo, quý vị phải thường quán chiếu sâu sắc, để thể nhập và tạo ra chất liệu cho chính mình, ngay đời này và đời sau. Sáu tính chất của Tam bảo gồm:
30/04/2024(Xem: 2892)
Con người thường hay thắc mắc tại sao mình có mặt ở cõi giới Ta Bà này để chịu khổ triền miên. Câu trả lời thường được nghe là: Để trả nghiệp. Nhưng nghiệp là gì? Và làm sao để thoát khỏi? Then chốt cho câu trả lời được gói ghém trong 2 câu: “Ái bất trọng, bất sanh Ta Bà Niệm bất nhất, bất sanh Tịnh Độ” Có nghĩa là: “Nghiệp ái luyến không nặng, sẽ không tái sanh ở cõi Ta Bà Niệm Phật không nhất tâm, sẽ không vãng sanh về Tịnh Độ”
07/02/2024(Xem: 6413)
Từ 1983 đến 1985 khi đang ở Singapore, bận bịu với chương trình nghiên cứu Phật giáo tại Viện Phát triển Giáo Trình, tôi được Tu viện Phật giáo Srilankaramaya và một số đạo hữu mời giảng bốn loạt bài pháp nói về một vài tông phái chính của Phật giáo. Các bài giảng được ưa thích, và nhờ các cố gắng của Ô. Yeo Eng Chen và một số bạn khác, chúng đã được ghi âm, chép tay và in ấn để phát miễn phí cho các học viên. Kể từ đó, các bài pháp khởi đi từ hình thức của các tập rời được ngưỡng mộ và cũng được tái bản. Sau đó, tôi nhận thấy có vẻ hay hơn nếu in ấn bốn phần ấy thành một quyển hợp nhất, và với vài lần nhuận sắc, xuất bản chúng để cho công chúng dùng chung.
19/12/2023(Xem: 8495)
Cách đây chừng 30 năm, Tổ Đình Viên Giác tại Hannover Đức Quốc chúng tôi có nhận được bộ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh (Taisho Shinshu Daizokyou) bằng Hán Văn gồm 100 tập do cố Hòa Thượng Thích Tịnh Hạnh từ Đài Loan giới thiệu để được tặng. Bộ Đại Tạng Kinh giá trị này do Phật Đà Giáo Dục Cơ Kim Hội xuất bản và gửi tặng đến các nơi có duyên. Phật Đà Giáo Dục Cơ Kim Hội dưới sự chứng minh và lãnh đạo tinh thần của cố Hòa Thượng Thích Tịnh Không đã làm được không biết bao nhiêu công đức truyền tải giáo lý Phật Đà qua việc xuất bản kinh điển và sách vở về Phật Giáo, với hình thức ấn tống bằng nhiều ngôn ngữ khác nhau như: Hoa Ngữ, Anh Ngữ, Pháp Ngữ, Đức Ngữ, Việt Ngữ. Nhờ đó tôi có cơ hội để tham cứu Kinh điển rất thuận tiện.
13/12/2023(Xem: 15522)
Hành Thiền, một nếp sống lành mạnh trong sáng, một phương pháp giáo dục hướng thượng (Sách pdf của HT Thích Minh Châu)
13/12/2023(Xem: 14052)
Đức Phật của Chúng Ta (Sách pdf của HT Thích Minh Châu)
03/05/2023(Xem: 10782)
Khi Phật giáo (PG) du nhập vào Trung Hoa (TH) lần đầu tiên từ Ấn-độ và Trung Á thì những TH theo PG có khuynh hướng coi tôn giáo này là một phần hay một phái của Đạo Giáo Hoàng Lão, một hình thức Đạo Giáo bắt nguồn từ kinh sách và pháp thực hành được coi là của Hoàng Đế và Lão Tử. Những người khác chấp nhận ít hơn tôn giáo “ngoại lai” xâm nhập từ các xứ Tây Phương “man rợ” này PG là xa lạ và là một sự thách thức nguy hiểm cho trật tự xã hội và đạo đức TH, Trong mấy thế kỷ, hai thái độ này tạo thành cái nôi mà ở trong đó sự hiểu biết PG của người TH thành kính, trong khi các nhà
21/04/2023(Xem: 11761)
Thượng Tọa Thích Trí Siêu từ Pháp Quốc sẽ giảng pháp tại Úc Châu vào tháng 4 năm 2023 -- Thượng Tọa Thích Trí Siêu sinh năm 1962 tại Sài Gòn. Theo cha mẹ tỵ nạn qua Pháp năm 1975. Năm 1985 nhập chúng tu học tại Tự Viện Linh-Sơn, tỉnh Joinville-le-Pont, Paris. Năm 1987 thọ cụ túc giới với Hòa Thượng Thích Huyền-Vi. Tuy xuất thân từ Đại Thừa, nhưng Thầy đã không ngần ngại du phương tham vấn và tu học với nhiều truyền thống khác như : Nguyên Thủy, Đại Thừa, Kim Cang Thừa Tây Tạng.
20/04/2023(Xem: 13292)
Học đạo quý vô tâm Làm, nghĩ, nói không lầm Sáng trong và lặng lẽ Giản dị mới uyên thâm
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com