Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Ni Trưởng Như Thanh, bậc chân tu

08/01/202013:34(Xem: 2900)
Ni Trưởng Như Thanh, bậc chân tu


Su_Ba_Nhu_Thanh

Ni Trưởng Như Thanh, bậc chân tu

Tỳ-kheo Thích Nhật Từ

--- o0o ---

Tôi may mắn được diện kiến Người một lần duy nhất, vào năm 1990, tại Chùa Huê Lâm, Thành phố Hồ Chí Minh. Lúc ấy, tôi làm trợ lý cho thầy Thích Phước Cẩn trong việc vận động phiên dịch và ấn hành Phật Quang Đại Từ Điển. Tôi được Người ân cần khích lệ và truyền trao những kinh nghiệm quý báu về cuộc đời tu học và làm việc Phật sự của Người, trong hơn năm mươi năm qua. Lúc ấy, Người đã tròn 80 tuổi. Sức khỏe của Người còn khá tốt. Tinh thần của Người sáng suốt khác thường. Giọng nói của Người thật từ tốn, nhẹ nhàng. Lời dạy của Người ngắn gọn, đơn giản nhưng vô cùng sâu sắc. Tinh thần và năng lực làm việc của Người làm cho tôi vô cùng kính phục. Phong thái thoát tục và cuộc đời của Người đã ảnh hưởng rất nhiều đến sự tu học và làm việc của tôi, từ dạo đó. Người là một trong những bậc tôn đức đã để lại nhiều ấn tượng không bao giờ quên được về cách tu, cách sống và cách nghiên cứu, sáng tác và làm việc, trong tâm trí và tinh thần của những đàn hậu tấn. Đối với tôi, Người như người mẹ tinh thần không giới hạn thế hệ, là tấm gương chói sáng cho việc tu học và phụng sự Phật pháp, là một bậc tôn túc, trưởng lão do đạo đức và trí tuệ, là người hiến dâng trọn đời mình cho sự nghiệp truyền bá chánh pháp, làm lợi lạc nhân sanh. Tôi kính nhớ Người như kính nhớ đến một bậc chân tu, một nhà thơ đạo, một nhà nghiên cứu sáng tác Phật giáo và một người thể hiện sống động tinh thần Bồ-tát đạo.

Ni Trưởng như thanh, bậc chân tu

Xuất thân trong một gia đình kính tin Ba ngôi báu, Ni Trưởng sớm nhận chân ra được bản chất của cuộc đời, quyết chí xuất trần, khi tuổi thanh xuân vừa chớm nỡ. Sau khi xuất gia với Sư tổ Pháp A?, Ni Trưởng nối gót các bậc tổ đức, vân du đây đó để tầm cầu chánh pháp, tham học với các bậc cao tăng thạc đức, ở mọi miền đất nước lúc bấy giờ. Song song với việc tu học trong những năm tháng đầu, Ni Trưởng còn tham gia xây dựng Chùa cho chư Ni có nơi an tâm tu học. Sau khi nắm vững được tinh yếu và cốt lõi của chánh pháp, Ni Trưởng bắt đầu dấn thân vào sự nghiệp giảng dạy, khai mở giới trường, xây dựng các trung tâm giáo lý cho Ni, mở trường tiểu học miễn phí cho cho các trẻ em nghèo hiếu học. Để đạo tạo và phát triển Ni giới Phật giáo Việt Nam, Ni Trưởng đã vận động và thành lập Ban quản trị Ni bộ Nam Việt. Công đức thành lập Ni bộ Bắc tông miền Nam Việt Nam này chắc chắn được Ni đoàn và Phật giáo Việt Nam trong thời hiện đại ghi nhớ và trân trọng. Người còn chấn tích quang lâm làm Hòa thượng đường đầu cho 15 giới đàn sa-di, sa-di-ni, thức-xoa-ma-na và tỳ-kheo-ni tại Thành phố Hồ Chí Minh và tại các tỉnh thành lân cận, từ năm 1946 cho đến năm 1994.

Trong suốt cuộc đời hoằng pháp, Người không hề tham gia vào chính sự, không cần đến sự hỗ trợ của bất kỳ chính thể nào, ấy thế mà mỗi hành vi, lời nói của Người đều thấm nhuần chất yêu nước, thương dân; và khuynh hướng cũng như cách thế làm đạo của Người đều mang tính tùy duyên bất biến và phương tiện quyền xảo. Cuộc đời của Người cho chúng ta thấy rằng cần gì phải tham gia chính trị mới yêu nước? Cần gì đến sự ủng hộ của chính thể này hay chính thể nọ mới gọi là tùy duyên? Với cuộc sống thanh cao, thoát tục và hạnh nguyện độ sanh của Người, ai dám nói Người là không yêu nước, không bảo vệ quốc gia, không vận dụng phương tiện để đưa giáo pháp của đức Phật đi vào sự sống của quần chúng Việt Nam? Cuộc đời của Người là cuộc đời của một vị chân tu, tự mình thắp đuốc lên mà đi. Hạnh nguyện của Người là tự thắp sáng đuốc của mình rồi truyền đuốc và?mòi đuốc cho người khác. Người sống trong thế gian để mà vượt lên trên thế gian. Người ở trong đời để mà độ đời. Người mộc mạc và bình dị trong cách sống để giúp mọi người nhận ra được cái siêu tuyệt của chánh pháp trong thế sự thường tình. Không có chánh pháp và chân lý nào tồn tại ngoài thế gian cũng như không có việc làm nào của Người là không nhằm hướng đến sự lợi lạc cho tha nhân và cộng đồng xã hội. Nhớ đến Người là nhớ đến một bậc chân tu làm chói sáng đạo giải thoát bằng cuộc sống bình dị, thanh cao; làm ích nước, lợi đời bằng hành vi chánh pháp. Người bình dị nhưng cao vĩ, trong đời nhưng vượt lên trên đời, để cho đời ca tụng.

Ni Trưởng Như Thanh, một nhà thơ đạo

Sáng tác thơ đạo là một trong những nét nổi bậc của Ni Trưởng. Đối với Ni Trưởng, thơ không phải là trò tiêu khiển mà là một phương tiện hữu hiệu, một lợi khí sắc bén để truyền đạo, để đem giáo lý vào lòng người. Với sáu tập thơ Hoa Đạo, Hoa Thiền, Hoa Thanh Lương, Hương Hoa Bát-nhã, Hoa Đạo Hạnh và Phẩm Chất Người Con Phật, được làm và xuất bản trong những thời điểm khác nhau, Ni Trưởng đã giới thiệu một cách sống động những lời dạy cao siêu của đức Phật dưới hình thức của những vần thơ giản dị, thanh thoát, nhẹ nhàng, mang hồn sắc Việt Nam. Thơ của Ni Trưởng mang một chí nguyện xuất trần, vào đời độ sanh. Thơ của Ni Trưởng là tất cả tâm tư, tình cảm, kinh nghiệm và thể nghiệm của một người đã trải qua quá trình tu tập nhiều gian khó, truyền lại cho người đọc những chất liệu của tình thương yêu, lượng thứ bao dung, những chất liệu của chánh pháp đã tinh chế, để tất cả cùng nhau thở cùng nhịp thở an lành trong bầu khí quyển của chánh pháp. Thơ của Người đậm đà tình quê hương dân tộc và thấm nhuần hương vị đạo đức.

Từ những bài thơ đầu tay vào năm 1932 cho đến những bài thơ cuối cùng trong những năm gần viện tịch, trải dài trong khoảng thời gian hơn 60 năm, tinh thần thơ của Người như nguồn mạch tuôn trào, thấm nhuần chất đạo, đậm đặc tinh hoa, mang mác ân tình, dồi dào đạo lực, ấp ủ chí khí, dào dạt tình thương, nuôi lớn hạnh nguyện, và đậm đà chất ngụ ngôn và triết lý sống. Thiên nhiên và mọi sự vật hiện tượng đối với Người không chỉ là nơi để thưởng ngoạn mà còn là công cụ để chuyển tải đạo, mô tả đạo một cách sống động. Từ hình ảnh của người nông dân mộc mạc, chú lái đò thân thương, ông phú ông bủn xỉn, cho đến con chim sáo, chim hoàng oanh, con tôm, con tép, con ếch, con lừa, và ngay cả hình ảnh của chiếc lồng, của viên ngọc, của sóng, của nước, của trời và biển?đều được Người vận dụng nhuận nhuyễn để diễn tả chân lý trong những cái bình thường. Thơ của Người lúc thì sử dụng các thể thất ngôn tứ tuyệt, thất ngôn bát cú, khi thì sử dụng lục bát và song thất lục bát và ngay cả thể tự do nhưng tất cả đều mang đậm chất liệu Việt Nam, thuần ngôn ngữ và tâm tình của người Việt Nam. Thơ của Người khi thì chứa đựng các ẩn dụ triết lý, các so sánh ví von, lúc thì khéo sử dụng các phương pháp tương phản, liệt kê, tất cả nhằm hướng cho người đọc nhận ra được tinh hoa áo nghĩa của lời Phật dạy trong đời thường, như duyên khởi, nhân quả tương ứng, tội phước phân minh, trau dồi đạo đức, đa văn, thiền định và trí huệ?Đây là việc làm đáng học hỏi, đáng được trân trọng. Người xứng đáng với tên gọi một nhà thơ đạo, một nhà thơ lớn của Ni giới Việt Nam, một nhà thơ của Phật giáo Việt Nam và là một nhà thơ tầm cở của dân tộc Việt Nam hôm nay và mai sau.

Ni Trưởng như thanh, nhà nghiên cứu sáng tác tầm cỡ

Nói đến Ni Trưởng là nói đến người suốt đời tận tụy với sự nghiệp bút nghiên cho Phật giáo và cho đàn hậu tấn. Ni Trưởng đã khởi đầu sự nghiệp sáng tác vào độ tuổi thanh xuân, cái tuổi mà người đời còn say mê trong hưởng thụ vật chất và vui chơi. Sớm ý thức và giác ngộ lẽ đạo siêu thoát, Ni Trưởng đã ròng rã suốt gần 60 năm, sáng tác, dịch thuật và sớ giải các kinh điển quan trọng của Phật giáo Đại thừa. Đây là một tấm gương mà không phải một vị cao ni nào, một bậc tôn túc nào cũng có thể làm được. Các sáng tác của Ni Trưởng nhắm vào các chủ đề nghiên cứu khác nhau, cho các đối tượng khác nhau, để xiển dương chánh pháp của đức Phật. Về lịch sử, có thể kể đến các tác phẩm Lược sử Phật Thích-ca và Lược sử Kiều-đàm-di mẫu. Về nghi thức tụng kinh, có thể kể đến các quyển Nghi thức tụng niệm, Nghi thức niệm hương và Nghi thức phóng sanh. Về các sách cẩm nang, có thể kể đến các quyển Cẩm nang người Phật tử (cho Phật tử tại gia), Giới đức kiêm ưu (cho người xuất gia) và Phật pháp giáo lý (cho cả hai đối tượng tại gia và xuất gia).

Trong mười năm cuối đời, Ni Trưởng đầu tư vào việc giới thiệu và sớ giải các kinh điển quan trọng của Phật giáo Đại thừa như các tác phẩm Hành Bồ-tát đạo (3 tập), Bát-nhã cương yếu (2 tập) và Duy thức học. Các tác phẩm này có giá trị nghiên cứu rất cao, không những về phương diện cung cấp tri thức Phật học mà còn ở phương diện truyền trao kinh nghiệm tu tập Phật học. Cách tiếp cận và sớ giải của Ni Trưởng trong các phẩm trên rất đặc biệt, mang tính chiều sâu và toàn diện. Chúng có thể được xem như những sách căn bản và tiêu chuẩn cho việc nghiên cứu và tu học Phật pháp.

Ngoài các sáng tác trên, Ni Trưởng còn tuyển dịch nhiều tác phẩm căn bản và quan trọng trong Phật giáo, nhằm đáp ứng cho việc nghiên cứu và học hỏi của tăng ni và Phật tử lúc bấy giờ. Các dịch phẩm ấy liên quan đến tư tưởng bát-nhã như Hai mươi bốn bài kệ bát-nhã, đến tinh hoa cũng như sự giống và sự khác nhau giữa thiền và tịnh độ như Thiền tông cương yếu và Thiền tông và Tịnh độ tông, đến phương pháp tu tập hữu hiệu như Tinh thần tu dưỡng, đến tinh thần nhập thế và hoạt động xã hội như Hộ quốc nhân vương và Hưng thiền hộ quốc và liên quan đến tiêu chí khôi phục và chứng hưng đạo Phật như Làm thế nào để chấn hưng Phật giáo.

Ngoài các dịch phẩm tiêu biểu trên, Ni Trưởng còn xuất bản sáu tuyển tập thơ đạo, tổng cộng gần 1000 bài thơ với nhiều thể loại khác nhau, do Người sáng tác ngay sau khi mới xuất gia và cho đến những năm cuối đời. Ni Trưởng còn là Tổng biên tập và Chủ biên của hai tạp chí Phật học mang tên Hoa đàm và Nhân cách, để khích lệ ni chúng sáng tác và truyền bá chánh pháp, dưới dạng thức văn học và phương diện hành đạo thực tiễn.

Với số lượng của 20 tác phẩm và 8 dịch phẩm như vừa nêu trên về các chủ đề Phật học khác nhau, được viết và xuất bản trong vòng 60 năm qua, mà trong số đó có?nhiều tác phẩm đã được tái bản nhiều lần, cũng đủ cho thấy tinh thần làm việc không mệt mỏi, tinh thần phục vụ tận tụy và gương hy sinh cao cả của Người, đối với Đời, đối với Đạo, đối với tăng ni Phật tử và đối với dân tộc Việt Nam. Người quả thật xứng đáng là nhà nghiên cứu và sáng tác Phật học tầm cở, không chỉ thuộc vào bậc nhất nhì trong giới Ni Việt Nam trong thế kỷ 20 mà còn thuộc vào bậc xứng đáng "ngồi riêng một chiếu" trong ni giới về gương hạnh làm việc và sáng tác trong suốt mấy ngàn năm của lịch sử Phật giáo Việt Nam.

-oOo-

Nhớ đến Người là tôi nhớ đến một vị Ni Trưởng đã đào tạo nên nhiều thế thệ Ni sư, Sư cô mà nhiều người trong số đó đã đóng góp không nhỏ vào sứ mạng truyền bá chánh pháp của đức Phật, làm lợi lạc con người và dân tộc Việt Nam. Dù cho sau này, nhục thân của Ni Trưởng không còn nữa nhưng tôi vẫn tin tưởng rằng tên tuổi, hình ảnh và tinh thần phụng sự chánh pháp của Người luôn sống mãi trong lòng của Ni bộ Việt Nam, trong Phật giáo Việt Nam hôm nay và mãi mãi về sau.

Dầu cho có phải vĩnh biệt Người trong nỗi đau khó tả, trong sự nhận thức lẽ vô thường tạm bợ, trong hoài bảo phụng sự chúng sanh chưa trọn vẹn, nhưng với niềm tin bền vững về một tương lai tươi sáng của Ni bộ miền Nam Việt Nam nói riêng và của Ni bộ Phật giáo Việt Nam nói chung, tôi kính mong và tin tưởng rằng quý Ni sư và Sư cô đệ tử của Người sẽ làm cho những giáo huấn và hành động bảo vệ chánh pháp của Người trở thành hiện thực. Được như vậy thì nỗi đau vô thường sẽ không còn là nỗi đau nữa mà là đầu nguồn của Phật sự độ sanh, của an lạc, giải thoát trong thế giới tử sanh như quy luật này.

Tôi mong sao sự ra đi của Ni Trưởng không phải là sự mất mát cho Ni chúng mà là sự cảnh tỉnh Ni chúng nhiều hơn về nguyên lý sanh-già-bệnh-chết, mà cố gắng nỗ lực hết mình trong sự nghiệp hoằng pháp lợi sanh, đem ánh sánh chân lý từ bi và trí tuệ của Phật giáo vào cuộc đời nhiều u mê, tăm tối này. Sự ra đi của Người có chăng chỉ là bài giáo huấn cho tất cả chúng ta, những ai chỉ mới tu tập cho bản thân mình, những ai chỉ giới hạn mình trong khuôn khổ lời kinh tiếng kệ mà chưa dấn thân vào sự nghiệp độ sanh, chưa tắm mình trong biển Phật học, để góp phần làm sáng soi chánh pháp cho Phật tử Việt Nam, cho văn học Phật giáo, cho dân tộc Việt Nam và cho văn hóa dân tộc. Do đó, tôi tin rằng sự ra đi của Người sẽ là nguồn động cơ không gì có thể cưởng lại được cho sự vươn dậy và trưởng thành của tất cả Ni chúng tu học theo người: Hãy noi gương Người làm xán lạn chánh pháp tại cuộc đời này, như Người đã từng khổ công thực hiện và chỉ dạy.

Cuộc đời và hạnh nguyện của Người đã góp phần tô bồi cho cây Bồ-đề Việt Nam mãi tốt tươi, cho cây đời Việt Nam vươn tới sự sống an lạc, cho Phật giáo và Dân Tộc mãi mãi bên nhau. Ngưỡng mong quý Ni sư, quý Sư cô, quý Phật tử đệ tử của Người hãy tiếp nối sự nghiệp của Người, đem đuốc tuệ của Người truyền đi khắp nơi, thắp sáng ngọn đèn chánh pháp khắp đó đây, để làm tỏ sáng chất liệu an lạc, giải thoát cho bầu trời Việt Nam hôm nay và mai sau.

Thành kính vĩnh biệt Người trong thế giới diệt sanh.

Kính mong mãi gặp được Người trong gương hạnh độ sanh thoát tục.

New Delhi, ngày 27 tháng 11 năm 1997.

Tỳ-kheo Thích Nhật Từ,
cẩn bút

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
17/11/2021(Xem: 20112)
Nghiệp, phổ thông được hiểu là quy luật nhân quả. Nhân quả cũng chỉ là mối quan hệ về tồn tại và tác dụng của các hiện tượng tâm và vật trong phạm vi thường nghiệm. Lý tính của tất cả mọi tồn tại được Phật chỉ điểm là lý tính duyên khởi.266F[1] Lý tính duyên khởi được nhận thức trên hai trình độ khác nhau. Trong trình độ thông tục của nhận thức thường nghiệm, quan hệ duyên khởi là quan hệ nhân quả. Chân lý của thực tại trong trình độ này được gọi là tục đế, nó có tính quy ước, lệ thuộc mô hình cấu trúc của các căn hay quan năng nhận thức. Nhận thức về sự vật và môi trường chung quanh chắc chắn loài người không giống loài vật. Trong loài người, bối cảnh thiên nhiên và xã hội tạo thành những truyền thống tư duy khác nhau, rồi những dị biệt này dẫn đến chiến tranh tôn giáo.
14/11/2021(Xem: 16578)
Một thuở nọ, Đức Thế Tôn ngự tại xứ Sāvatthi, gần đến ngày an cư nhập hạ suốt ba tháng trong mùa mưa, chư Tỳ khưu từ mọi nơi đến hầu đảnh lễ Đức Thế Tôn, xin Ngài truyền dạy đề mục thiền định, đối tượng thiền tuệ thích hợp với bản tánh của mỗi Tỳ khưu. Khi ấy, có nhóm năm trăm (500) Tỳ khưu, sau khi thọ giáo đề mục thiền định xong, dẫn nhau đến khu rừng núi thuộc dãy núi Himavantu, nơi ấy có cây cối xanh tươi, có nguồn nước trong lành, không gần cũng không xa xóm làng, chư Tỳ khưu ấy nghỉ đêm tại đó. Sáng hôm sau, chư Tỳ khưu ấy dẫn nhau vào xóm làng để khất thực, dân chúng vùng này khoảng một ngàn (1.000) gia đình, khi nhìn thấy đông đảo chư Tỳ khưu, họ vô cùng hoan hỉ, bởi vì những gia đình sống nơi vùng hẻo lánh này khó thấy, khó gặp được chư Tỳ khưu. Họ hoan hỉ làm phước, dâng cúng vật thực đến chư Tỳ khưu xong, bèn bạch rằng: – Kính bạch chư Đại Đức Tăng, tất cả chúng con kính thỉnh quý Ngài an cư nhập hạ suốt ba tháng mùa mưa tại nơi vùng này, để cho tất cả chúng con có
08/11/2021(Xem: 11605)
Đây chỉ là chiếc thuyền nan, chưa tới bờ bên kia, vẫn còn đầy ảo tưởng chèo ra biển cả. Thân con kiến, chưa gột sạch đất cát, bò dưới chân Hy Mã Lạp Sơn, nghe tiếng vỗ của một bàn tay trên đỉnh cao. Chúng sinh mù, nếm nước biển, ngỡ bát canh riêu cá, Thế gian cháy, mải vui chơi, quên cảnh trí đại viên. Nắm vạt áo vàng tưởng như nắm lấy diệu quang, bay lên muôn cõi, theo tiếng nhạc Càn Thát Bà réo gọi về Tịnh Độ, ngửi mùi trầm Hương Tích, an thần phóng thoát. Con bướm mơ trăng Cực Lạc, con cá ngụp lặn dưới nước đuôi vàng như áo cà sa quẫy trong bể khổ, chờ thiên thủ thiên nhãn nghe tiếng sóng trầm luân vớt lên cõi Thanh văn Duyên giác. Những trang sách còn sở tri chướng của kẻ sĩ loanh quanh thềm chùa Tiêu Sơn tìm bóng Vạn Hạnh, mơ tiên Long Giáng lào xào bàn tay chú tiểu Lan trên đồi sắn.
07/11/2021(Xem: 12086)
Kinh Vô Lượng Nghĩa nói “vô lượng pháp từ một pháp mà sinh ra”. Ma Ha Chỉ Quán của Thiên Thai Trí Giả (538-597), quyển 5, nói: “Phật bảo các Tỳ-kheo, một pháp thâu nhiếp tất cả pháp, chính là Tâm”. Phổ môn là vô lượng giáo pháp. Vô lượng giáo pháp này cũng từ một giáo pháp mà sinh ra. Một giáo pháp phổ cập tất cả gọi là phổ môn. Chư Phật thuyết giáo thuận theo Tâm của chúng sinh. Giáo là những ngôn từ được thuyết ra cho những chúng sinh chưa thấu suốt. Pháp là những phương thức với nhiều tướng trạng giống nhau hoặc khác nhau. Tâm ý chúng sinh có bao nhiêu ngõ ngách thì giáo pháp có chừng ấy quanh co. Chư Phật dùng muôn vàn phương tiện khế cơ mang lại lợi ích cho chúng sinh. Ngài Xá Lợi Phất từng nói: “Phật dùng nhiều thứ nhân duyên và thí dụ, phương tiện ngôn thuyết như biển rộng khiến tâm người trong pháp hội được yên ổn, con nghe pháp ấy khiến lưới nghi dứt” là nghĩa trên vậy.
05/09/2021(Xem: 14942)
Bắt đầu gặp nhau trong nhà Đạo, người quy-y và người hướng-dẫn biết hỏi và biết tặng món quà pháp-vị gì cho hợp? Thực vậy, kinh sách man-mác, giáo-lý cao-siêu, danh-từ khúc-mắc, nghi-thức tụng-niệm quá nhiều – nghiêng nặng về cầu-siêu, cầu-an – không biết xem gì, tụng gì và nhất là nhiều người không có hoàn-cảnh, thỉnh đủ. Giải-đáp thực-trạng phân-vân trên, giúp người Phật-tử hiểu qua những điểm chính trong giáo-lý, biết qua sự nghiệp người xưa, công việc hiện nay và biết đặt mình vào sự rèn-luyện thân-tâm trong khuôn-khổ giác-ngộ và xử-thế, tôi biên-soạn cuốn sách nhỏ này. Cuốn sách nhỏ này không có kỳ-vọng cao xa, nó chỉ ứng theo nhu-cầu cần-thiết, mong giúp một số vốn tối-thiểu cho người mới vào Đạo muốn tiến trên đường tu-học thực-sự. Viết tại Sài-thành mùa Đông năm Mậu-tuất (1958) Thích-Tâm-Châu
24/06/2021(Xem: 4176)
Lòng Từ bi là một giá trị phổ quát. Tranh đấu cho công bằng xã hội – nghĩa là bảo đảm quyền lợi và cơ hội bình đẳng cho tất cả mọi người – thường xuất phát từ sự phẫn nộ, thúc đẩy con người chống lại những bất công có hệ thống. Tôi tin rằng đấu tranh cho công bằng xã hội sẽ có hiệu quả tốt nhất nếu được kích hoạt bởi lòng từ bi. Nếu động lực đấu tranh cho công bằng xã hội của chúng ta là do lòng từ bi đích thực, chúng ta sẽ được tiếp thêm năng lượng để hoạt động tích cực hơn nhằm bảo đảm cho tất cả mọi người có được một phẩm chất đời sống xứng đáng. Tôi tin rằng nữ giới có thể đóng một vai trò đặc biệt trong việc đấu tranh cho công bằng xã hội bằng cách tu tập lòng từ bi và trí tuệ.
07/05/2021(Xem: 16513)
Phật Điển Thông Dụng - Lối Vào Tuệ Giác Phật, BAN BIÊN TẬP BẢN TIẾNG ANH Tổng biên tập: Hòa thượng BRAHMAPUNDIT Biên tập viên: PETER HARVEY BAN PHIÊN DỊCH BẢN TIẾNG VIỆT Chủ biên và hiệu đính: THÍCH NHẬT TỪ Dịch giả tiếng Việt: Thích Viên Minh (chương 11, 12) Thích Đồng Đắc (chương 1, 2) Thích Thanh Lương (chương 8) Thích Ngộ Trí Đức (chương 7) Thích Nữ Diệu Nga (chương 3, 4) Thích Nữ Diệu Như (chương 9) Đặng Thị Hường (giới thiệu tổng quan, chương 6, 10) Lại Viết Thắng (phụ lục) Võ Thị Thúy Vy (chương 5) MỤC LỤC Bảng viết tắt Bối cảnh quyển sách và những người đóng góp Lời giới thiệu của HT Tổng biên tập Lời nói đầu của Chủ biên bản dịch tiếng Việt GIỚI THIỆU TỔNG QUAN Giới thiệu dẫn nhập Giới thiệu về cuộc đời đức Phật lịch sử Giới thiệu về Tăng đoàn: Cộng đồng tâm linh Giới thiệu về các đoạn kinh của Phật giáo Thượng tọa bộ Giới thiệu về các đoạn kinh của Phật giáo Đại thừa Giới thiệu về các đoạn kinhcủa Phật giáo Kim cương thừa PHẦN I: CUỘC ĐỜI ĐỨC
29/11/2020(Xem: 12489)
“Ma” tiếng Phạn gọi là Mara, Tàu dịch là “Sát,” bởi nó hay cướp của công đức, giết hại mạng sống trí huệ của người tu. “Ma” cũng chỉ cho những duyên phá hoại làm hành giả thối thất đạo tâm, cuồng loạn mất chánh niệm, hoặc sanh tà kiến làm điều ác, rồi kết cuộc bị sa đọa. Những việc phát sanh công đức trí huệ, đưa loài hữu tình đến Niết-bàn, gọi là Phật sự. Các điều phá hoại căn lành, khiến cho chúng sanh chịu khổ đọa trong luân hồi sanh tử, gọi là Ma sự. Người tu càng lâu, đạo càng cao, mới thấy rõ việc ma càng hung hiểm cường thạnh. Theo Hòa Thượng Thích Thiền Tâm trong "Niệm Phật Thập Yếu", Ma tuy nhiều, nhưng cốt yếu chỉ có ba loại: Phiền não ma, Ngoại ma và Thiên ma
03/10/2020(Xem: 19951)
Đây là một bài nghị luận về Lý Duyên Khởi được Ajahn Brahm viết lần đầu tiên hơn hai thập niên trước. Vào lúc đó, ngài quan tâm nhiều hơn đến những chi tiết phức tạp trong việc giảng dạy kinh điển. Vì lý do đó bài nghị luận này có tính cách hoàn toàn chuyên môn, so với những gì ngài giảng dạy hiện nay. Một trong những học giả Phật học nổi tiếng nhất hiện nay về kinh điển Phật giáo đương đại là Ngài Bhikkhu Bodhi, đã nói với tôi rằng “Đây là bài tham luận hay nhất mà tôi được đọc về đề tài này”.
05/04/2020(Xem: 11607)
Luận Đại Thừa Trăm Pháp do Bồ tát Thế Thân (TK IV TL) tạo nêu rõ tám thức tâm vương hàm Tâm Ý Thức thuộc ngành tâm lý – Duy Thức Học và là một tông phái: Duy Thức Tông - thuộc Đại Thừa Phật Giáo. Tâm Ý Thức như trở thành một đề tài lớn, quan trọng, bàn cải bất tận lâu nay trong giới Phật học thuộc tâm lý học. Bồ Tát Thế Thântạo luận, lập Du Già Hành Tông ở Ấn Độ, và sau 3 thế kỷ pháp sư Huyền Trang du học sang Ấn Độ học tông này với Ngài Giới Hiền tại đại học Na Lan Đà (Ấn Độ) năm 626 Tây Lịch. Sau khi trở về nước (TH) Huyền Trang lập Duy Thức Tông và truyền thừa cho Khuy Cơ (632-682) xiển dương giáo nghĩa lưu truyền hậu thế.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567