Lớp Học Hàm Thụ cho Trại Sinh Lộc Uyển 10
Gia Đình Phật Tử Úc Đại Lợi
NHỮNG NGUYÊN LÝ CĂN BẢN
CỦA PHẬT GIÁO
Soạn và giảng: TT Thích Nguyên Tạng
Chủ Nhật: 25/08/2019 từ 7pm đến 9.30pm
I. DẪN NHẬP :
Trong Kinh Hoa Nghiêm Đức Phật từng dạy rằng: Tín là nguồn của Đạo, là mẹ của công đức. Và nuôi dưỡng tất cả mọi căn lành. (Tín vi Đạo nguyên công đức mẫu,. Trưởng dưỡng nhất thiết chư thiện căn.).Đạo Phật là đạo Giác Ngộ, muốn đạt được giác ngộ hành giả phải có niềm tin chân chính, mà niềm tin chân chánh ấy phải có cơ sở thực tế và trí tuệ đúng như thật.
Trên tinh thần đó, đối với hệ thống Kinh Điển do Đức Phật truyền dạy trong 45 năm, người học Phật phải có cơ sở để chứng tín rằng đó là lời Phật dạy, cơ sở đó chư Tổ Đức gọi là Tam Pháp Ấn:
1/Chư Hành Vô Thường
2/Chư Pháp Vô Ngã
3/Niết Bàn Tịch Tĩnh
Bất cứ giáo lý nào không dựng lập trên quan điểm này, thì Phật giáo xem là tà thuyết, và Tam Pháp Ấn này được xem là những nguyên lý căn bản của Phật Giáo.
II. NỘI DUNG :
1. Định nghĩa :
- Ấn là chiếc ấn hay khuôn dấu (Seal)
-Pháp có nghĩa là chánh pháp (Dharma) hay toàn bộ hệ thống tư tưởng trong lời dạy của Đức Phật được ghi lại trong ba tạng thánh điển.
- Tam Pháp Ấn: (Three Dharma Seal/ Three Characteristic marks of the Buddha’s Teachings): Vô Thường, Vô Ngã và Niết Bàn Tịch Tĩnh chính là ba dấu ấn mang tính pháp định, dùng để ấn chứng, chứng nhận tính xác thực của Chánh pháp. Mọi giáo lý của đạo Phật, tất yếu đều phải mang các pháp ấn, nếu thiếu một trong những pháp ấn đó thì giáo lý ấy chắc chắn không phải Chánh pháp, lời Phật dạy.
2. Tam Pháp Ấn là gì ?
A/CHƯ HÀNH VÔ THƯỜNG : Các hành vô thường ( Phạn: Anitya sarvasamskarah, Pali: anicca, E: impermanence), còn gọi là Nhất thiết hành vô thường ấn, Nhất thiết hữu pháp vô thường ấn, gọi tắt là Vô Thường ấn): Tất cả các pháp hữu vi ở thế gian đều vô thường, dời đổi, biến chuyển, sinh diệt không ngừng. Chúng sinh không nhận biết điều này nên đối với vô thường mà lầm chấp là thường, nên triền miên thống khổ, vì thế Phật nói vô thường để phá chấp thường của chúng sinh.
Vô thường là là đặc tính chung của mọi sự sinh ra có điều kiện, tức là thành, trụ, hoại, không arises, dwells, passes away, emptiness ). Từ tính vô thường ta có thể suy ra hai đặc tính kia là Khổ ( dukkha) và Vô ngã ( anatman). Vô thường là tính chất cơ bản của cuộc sống, không có vô thường thì không có sự tồn tại, vô thường cũng chính là khả năng dẫn đến giải thoát . Có tri kiến vô thường, hành giả mới bước vào Thánh đạo. Vì thế tri kiến vô thường được xem là tri kiến của bậc Dự lưu. (Impermanence is the basis of life, without which existence would not be possible; it is also the precondition for the possibility of attaining liberation. Without recognition of anitya there is no entry into the supramundane path, thus the insight leading to “ stream entry”).
* Có ba loại vô thường:
a/Thân Vô Thường: thân ta luôn bị vô thường biến đối chi phối bởi sanh, lão, bệnh và tử.
b/Tâm Vô Thường: tâm ta thay đổi trong từng phút giây, đối cảnh sanh tình: buồn đó rồi vui đó, thương đó rồi giận đó.
c/ Hoàn Cảnh Vô Thường: đời sống xung quanh ta, sơn hà đại địa, luôn bị Vô thường chi phối. Sách thường có câu: "Thương hải, tang điền" (Bãi biển nương dâu). Tục ngữ VN có câu nói lên được sự Vô thường của hoàn cảnh: "Không ai giàu ba họ, không ai khó ba đời".
Trong Kinh Niết Bàn (quyển 4) Phật nói về Vô thường như sau:
Chư hành vô thường
Thị sinh diệt pháp
Sinh diệt diệt dĩ
Tịch diệt vi lạc
Nghĩa là:
Các hành vô thường
Là pháp sinh diệt
Sinh diệt hết rồi
Tịch diệt là vui.
Thiền Sư Vạn Hạnh đời nhà Lý (1010 -1225) trước giờ thị tịch đã nhắc nhở chúng đệ tử về sự vận hành của vô thường qua bài kệ :
“Thân như điện ảnh hữu hoàn vô,
Vạn mộc xuân vinh thu hựu khô.
Nhậm vận tịnh suy vô bố úy,
Thịnh suy như lộ tháo đầu phô”.
Nghĩa là:
Thân như bóng chóp chiều tà
Cỏ cây tươi tốt qua thu rụng rồi
Xá chi suy thạnh việc đời
Thạnh suy như hạt sương rơi đầu cành.
Kinh Kim Cang cũng nói :
Nhất thiết hữu vi pháp
Như mộng huyễn bào ảnh
Như lộ diệc như diễn
Ứng tác như thị quán.
Dịch nghĩa:
Tất cả pháp hữu vi,
Như mộng, huyễn, bọt, bóng,
Như sương, như chớp loé,
Hãy quán chiếu như thế.
Dịch thơ vần:
Các pháp thế gian thuộc hữu vi
Như đêm đông giấc mộng đông thùy
Như đồ giả dối không bền chắc
Như bọt nước tan mất cấp kỳ.
Như bóng trong gương nào phải có
Như sương giọt nắng chẳng còn chi
Như luồng điện chớp làm gì có
Nhận xét như vầy mới thật tri.
Hành giả phải nhận thức được như thế để không khỏi đau khổ, lo âu, sợ hãi khi vô thường đến.
B/ CHƯ PHÁP VÔ NGÃ:
Các pháp vô ngã ( Phạn : Niràtmànahsarva-dharmàh), còn goi là Nhất thiết pháp vô ngã ấn, gọi tắt là Vô ngã ấn). Tất cả các pháp hữu vi ở thế gian nói chung đều là vô ngã, không có chủ thể nhất định, chúng sinh không rõ biết nên đối với tất cả pháp lầm chấp là có chủ thể, vì thế Phật nói Vô ngã để phá trừ chấp ngaõ của chúng sinh.
Vô ngã (Nonself- Anatman) là một giáo lý căn bản của Đạo Phật, cho rằng, không có một Ngã ( atman), một cái gì trường tồn, bất biến, nhất quán, tồn tại độc lập nằm trong mọi sự vật. Theo Đạo Phật, cái ngã, “cái tôi” cũng chỉ là một tập hợp của “ năm nhóm” (Ngũ uẩn - Five aggregates - Skandha), luôn luôn thay đổi, mất mát và vì vậy “ tôi” chỉ là giả hợp, gắn liền với cái khổ đau, không có chủ thể nhất định. Ví dụ, con người được cấu tạo bằng một tổng thể ngũ uẩn : Sắc uẩn, thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn và thức uẩn.
1/ Sắc uẩn: Thuộc về thân, chỉ cho hình hài của con người (mắt, mũi, tai, lưỡi, thân), sắc còn chỉ cho vật chất thô phù bên ngoài như đất, nước, núi sông, cây cỏ, đường xá, nhà cửa…Ở đây, sắc uẩn là chỉ thân xác của chúng ta, được kết hợp từ tinh cha huyết mẹ qua 4 yếu tố: Đất, nước, lửa, gió (địa, thủy, hỏa, phong). Thân có được từ các chất cứng (địa) như xương, thịt, răng, tóc, lông, móng…; thủy (nước) là chất lỏng như máu, mồ hôi, nước miếng…; phong (gió) là hơi thở ra vào; hỏa (lửa) là hơi ấm. Nếu thiếu một trong bốn yếu tố này ta sẽ chết và điều quan trọng là 4 yếu tố này không có cái nào làm chủ cả, ta không sai khiến được nó, nó ở ngoài tầm kiểm soát của ta, thân ta là do giả duyên hợp lại mà thành, không có tự thể nhất định, nên gọi đó là sắc uẩn, sắc uẩn là không.
2/ Thọ uẩn: Thuộc về tâm, là cảm giác vui, buồn, không vui không buồn. Bản thân của cảm xúc cũng không thật có, nếu ta có vui, có buồn, hoặc không vui không buồn phải đi ngang qua sự tiếp xúc của lục căn với lục trần như mắt thấy sắc, tai nghe tiếng, mũi ngửi mùi, lưỡi nếm vị, thân xúc chạm, ý thức phân biệt. Chẳng hạn như tai ta nghe bản nhạc “Mừng Phật Đản Sanh”, ta cảm thấy vui, nhưng ta buồn khi nghe bài “Tâm sự người cài hoa trắng”, trong khi nghe bài hòa tấu Piano “Sonata 32” của Beethoven, ta có cảm xúc trung hòa, không vui, không buồn. Cái cảm giác vui, buồn và không vui, không buồn này không thật có mà phải mượn tiếng nhạc du dương kia để nó xuất hiện trong tâm ta, nên Phật dạy thọ uẩn là không.
3/ Tưởng uẩn: Thuộc về tâm, là tri giác, nhận biết mọi âm thanh, sắc tướng xung quanh, hồi tưởng về quá khứ, tưởng tượng hiện tại và tương lai…Ví dụ như đêm tối ta nhìn thấy cục đá bên lề đường mà tưởng đó là con chó. Bản thân tưởng uẩn là không thật có và luôn sai lầm vì nó bị chi phối với ký ức của quá khứ và vọng tưởng điên đảo của hiện tại và tương lai, nên tưởng uẩn là không.
4/ Hành uẩn: Thuộc về tâm, những hoạt động tâm lý sau khi có tưởng, có 2 nghĩa thiên lưu và tạo tác. Thiên lưu là dòng chảy của suy tư; tạo tác ra 51 tâm sở thiện, bất thiện và vô ký, ví dụ như tâm ý vui thích, ghét bỏ, chú ý, đánh giá, quyết tâm, tỉnh giác. Hành là đối tượng đã tạo nên nghiệp thiện ác. Hành do tưởng mà có, và cũng tùy duyên mà dấy khởi, chứ không thật có, nên hành uẩn là không.
5/ Thức uẩn: Thuộc về Tâm Vương (có 8), là sự nhận thức phân biệt, như mắt thấy sắc, phân biệt đẹp hay xấu, tai nghe tiếng, phân biệt âm thanh lớn hay nhỏ, mũi ngửi mùi, phân biệt mùi thơm hay hôi, lưỡi nếm vị, phân biệt vị mặn hay lạt, thân xúc chạm, phân biệt lạnh hay nóng. Thức tự bản thân không tự có, mà do sáu căn tiếp xúc với sáu trần mới có phân biệt, nên thức uẩn là không.
Qua sự phân tích của năm uẩn như trên ta không thấy cái uẩn nào là của ta cả, và năm uẩn đều không có thực thể riêng biệt, không có chủ thể nhất định, vậy mà lâu nay ta lầm tưởng ngũ uẩn này là thật có để rồi ta tự gây đau khổ cho mình và cho người.
C/ NIẾT BÀN TỊCH TĨNH:
Niết bàn tịch tĩnh (Phạn: Satamnirvanam, còn gọi là Niết bàn tịch diệt ấn, Tịch diệt niết-bàn ấn, còn gọi là Diệt, Diệt Tận, Diệt độ, Tịch diệt, Bất Sinh, Viên Tịch, Giải thoát, Vô vi , An lạc , từ phổ biến và gọi tắt là Niết bàn. Tất cả chúng sinh không rõ biết khổ đau sinh tử cho nên tạo nghiệp, trôi lăn trong ba cõi, sáu đường, vì thế Phật nói Niết Bàn tịch diệt cho chúng sinh quy hướng.
Niết bàn là mục tiêu tối hậu phải đạt được của tất cả những đệ tử Phật, dù họ thuộc về tông phái nào, Nguyên Thủy hay Đại Thừa. Theo Phật Giáo Nguyên Thủy, Niết bàn được xem là đoạn tuyệt vòng luân hồi (Samsara) và đi vào một thể tồn tại khác ( Nibbana is departure from the cycle of rebirths and entry into an entirely different mode of existence). Đó là sự tận diệt gốc rễ của ba độc: tham, sân và si ( desire, hatred & delusion). Đồng thời Niết Bàn có nghĩa là không còn chịu sự tác động của nghiệp (Karma/action), không còn chịu quy luật của nhân duyên, ở trạng thái vô vi, tức là đặc tính thiếu vắng sự sinh, trụ, dị, diệt hoặc thành, trụ, hoại, không. Còn theo Phật giáo Đại Thừa, Niết Bàn được xem là sự thống nhất với cái Nhất thể tuyệt đối ( sự bình đẳng của chúng sinh- Sattvasamata), sự thống nhất luân hồi với dạng “ chuyển hóa” của nó. Niết bàn được xem như sự lưu trú trong tính tuyệt đối, sự an lạc khi thấy mình cùng một thể với tuyệt đối, khi thấy mình giải thoát khỏi mọi ảo giác, mọi biến tướng của tham ái.
Có hai loại Niết Bàn:
a) Hữu dư Niết bàn: Tiếng phạn : Savupadisesa-Nibbana: Niết bàn còn tàn dư, Niết bàn trước khi tịch diệt. Niết bàn này là trạng thái của các thánh nhân đã loại bỏ phiền não, không còn tái sinh. Các vị này còn sống trên đời nên vẫn còn ngũ uẩn, còn có nhân trạng, nên gọi là “ hữu dư”.
b)Vô dư Niết bàn :Tiếng phạn: Anupadisesa-nibbana: là Niết bàn không còn – ngũ uẩn, mười hai xứ, mười tám giới và các căn. Niết bàn Vô Dư đến với một vị A La Hán sau khi viên tịch, không còn tái sinh. Loại Niết Bàn này cũng được gọi là Niết Bàn toàn phần hay Bát Niết Bàn.
III/ HÀNH TRÌ TU TẬP: Xác lập niềm tin vào Tam Pháp Ấn là điều tiên quyết của người Phật tử, vì chỉ có niềm tin vững chắc chúng ta mới có tu tập để đạt đến Niết Bàn Tịch Tỉnh. Con đường đưa tới Niết bàn là Bát Chánh Đạo. Kinh Tăng Nhất A Hàm ( số 18), các vị Tỳ kheo hỏi Tôn giả Xá Lợi Phất về Niết Bàn: “ Bạch Đại Đức, làm thế nào để an trụ trong Trung đạo, làm thế nào để tuệ nhãn sanh, làm thế nào để trí tuệ sinh và làm thế để đưa tới Niết bàn”. Ngài Xá Lợi Phất trả lời: “ Này chư Hiền giả, đó là con đường Bát Chánh Đạo: Chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm và chánh định. Đó chính là con đường đưa hành giả vào trung đạo, làm cho tuệ nhãn sinh, làm cho trí tuệ sinh và làm cho an trụ vào Niết bàn”.
Bát Chánh Đạo: Con đường tám nhánh giúp hành giả giải thoát khỏi khổ đau và đạt đến Niết bàn, là chân lý cuối trong Tứ Diệu Đế. Bát Chánh Đạo là một trong 37 Bồ Đề Phần. Đó chính là:
1/Chánh kiến: gìn giữ một quan niệm xác đáng về giáo lý: Là rõ biết biết đây là khổ, rõ biết đây là tập khởi của khổ, rõ biết đây là diệt khổ, rõ biết con đường dẫn đến diệt khổ.
2/Chánh tư duy: suy xét về ý nghĩa của bốn chân lý một cách không sai lầm, là tư duy về ly dục, ly sân và ly ác pháp.
3/Chánh ngữ: không nói dối, không nói lời phù phiếm, không nói lời ác khẩu...
4/Chánh nghiệp: không phạm các giới luật mà hành giả đã thọ.
5/Chánh mạng: tránh các nghề nghiệp giết hại như đồ tể, thợ săn, buôn bán vũ khí, thuốc phiện;
6/Chánh tinh tấn: siêng năng tu tập tứ chánh cần, phát triển thiện nghiệp để vô hiệu hóa ác nghiệp.
7/Chánh niệm: tỉnh giác và tu tập để thanh lộc tam nghiệp: thân, khẩu và ý.
8/Chánh định: tập trung tâm ý để tu tập để đạt bốn tầng thiền xuất thế gian.
Bát Chánh Đạo không nên hiểu là những “ con đường” riêng biệt mà chính là ba môn học mà hành giả phải thực hành triệt để xuyên qua Giới ( gồm chánh ngữ, chánh nghiệp & chánh mạng), Định ( gồm Chánh tinh tấn, chánh niệm & chánh định) và Tuệ (gồm Chánh kiến & chánh tư duy). Chánh kiến là điều kiện tiên quyết để đi vào Thánh Đạo và đạt đến Niết bàn.
III/ KẾT LUẬN : Trong Kinh Trung Bộ, Đức Phật dạy: “ Này chư Tỳ kheo, từ xưa cho đến nay, ta chỉ nói lên hai vấn đề: Khổ và phương pháp diệt khổ”. Khổ là các hành vô thường, các pháp vô ngã ( pháp ấn thứ 1 và 2), và phương pháp diệt khổ chính là Niết bàn tịch tĩnh ( pháp ấn thứ 3).
Cuộc sống hiện nay và ngày mai vô cùng náo động và cuồng nhiệt, con người luôn đánh mất mình trong mọi sát na của đời sống vật chất, phù du giả tạm này, để rồi cuối cùng phải chịu sự chi phối, hành hạ của vô thường, khổ đau, của sinh tử luân hồi. Tam pháp ấn là giáo lý căn bản của Phật giáo giúp cho chúng ta suy ngẫm và áp dụng vào trong đời sống của chính mình, để cho đời mình bớt khổ./.
Tham khảo từ các tài liệu : Phật Học Phổ Thông ( HT Thiện Hoa) trên Trang Nhà Quảng Đức www.quangduc.com; Từ Điển Phật Học ( Chân Nguyên – Nguyễn Tường Bách; The Encylopedia of Eastern Philosophy and Religion ( Ed. Stephan Schumacher & Gert Woerner)
Câu Hỏi Trắc Nghiệm
Lớp Giáo Lý Trại Lộc Uyển:
NHỮNG NGUYÊN LÝ CĂN BẢN
CỦA PHẬT GIÁO
Soạn và giảng: TT Thích Nguyên Tạng
Chủ Nhật: 25/08/2019 từ 7pm đến 9.30pm
*Xin quý anh chị chọn câu trả lời và khoanh tròn phần đúng nhất:
(Please select correct statements/answers)
1/Nguyên lý căn bản của Phật Giáo là:
a.Tam Bảo: 1/ Phật Bảo, 2/ Pháp Bảo, 3/ Tăng Bảo
b.Tam Giới: 1/Dục giới, 2/ Sắc Giới, 3/ Vô Sắc Giới
c.Tam Pháp Ấn: 1/Chư Hành Vô Thường, 2/Chư Pháp Vô Ngã, 3/Niết Bàn Tịch Tĩnh
1. Principles of Buddhism are:
- a. The three Jewels: 1. Buddha, 2. Dharma, 3. Sangha
- b. The three realms: 1. The realm of passions, 2. The realm of beauty, 3. The realm of non-form
- c. Three Dharma seal: 1. Impermanence, 2. Non Ego, 3. Nirvana
2. Tam Pháp Ấn có nghĩa là:
a. Vô Thường, Vô Ngã và Niết Bàn Tịch Tĩnh chính là ba dấu ấn mang tính pháp định, dùng để ấn chứng, chứng nhận tính xác thực của Chánh pháp.
b. Vô Thường là ba dấu ấn mang tính pháp định, dùng để ấn chứng, chứng nhận tính xác thực của Chánh pháp.
c. Vô Thường và Niết Bàn Tịch Tĩnh chính là ba dấu ấn mang tính pháp định, dùng để ấn chứng, chứng nhận tính xác thực của Chánh pháp.
2. Three Dharma seal is meaning of:
a. Impermanence, Non ego and Nirvana are three dharma seal legislation, certifying the truth of the correct doctrine of the Buddhism
b. Impermanence is three dharma seal legislation, certifying the truth of the correct doctrine of the Buddhism
c. Impermanence and Nirvana are three dharma seal legislation, certifying the truth of the correct doctrine of the Buddhism
3. Vô Thường có 3 loại:
a. Thân Vô Thường, Tâm Vô Thường, Hoàn Cảnh Vô Thường
b. Thân Vô Thường, Tâm Chơn Thường, Hoàn Cảnh Vô Thường
c. Thân Chơn Thường, Tâm Vô Thường, Hoàn Cảnh Vô Thường
3. Impermanence has three types:
a. Impermanent body, Impermanent mind, impermanent environment
b. Impermanent body, Permanent mind, Impermanent environment
c. Permanent body, Impermanent mind, Impermanent environment
4. Chư Pháp Vô Ngã là:
a. Tất cả các pháp hữu vi ở thế gian đều là vô ngã, không có chủ thể nhất định.
b. Tất cả các pháp hữu vi ở thế gian đều là chơn ngã, đó là lời Phật dạy
b. Tất cả các pháp hữu vi ở thế gian Phật nói rõ là có chủ thể nhất định.
4. Non Ego is:
a. Allphenomena in the universe are non ego, there is no certain subject
b. All phenomena in the universe are ego, that is the Buddha taught
c. All phenomena in the universe there is certain subject, Buddha said
5. Bát Chánh Đạo: Con đường tám nhánh giúp hành giả giải thoát khỏi khổ đau và đạt đến Niết bàn, là:
a. Chánh kiến, Chánh tâm, Chánh ngữ, Chánh đạo, Chánh mạng, Chánh tinh tấn, Chánh niệm, Chánh định
b. Chánh kiến, Chánh tư duy, Chánh tín, Chánh Pháp, Chánh mạng, Chánh tinh tấn, Chánh niệm, Chánh định.
c.Chánh kiến, Chánh tư duy, Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng, Chánh tinh tấn, Chánh niệm, Chánh định.
5. The Eightfold path: The way leading the practitioner to liberate from suffering and attain the Nirvana:
a. Right view, Right mind, Right speech, Right way, Right livelihood, Right effort, Right mindfulness, Right concentration.
b. Right view, Right thought, Right belief, Right doctrine, Right livelihood, Right effort, Right mindfulness, Right concentration.
c. Right view, Right thought, Right speech, Right action, Right livelihood, Right effort, Right mindfulness, Right concentration.