Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Những Nguyên Lý Căn Bản của Đạo Phật

26/08/201909:57(Xem: 5610)
Những Nguyên Lý Căn Bản của Đạo Phật

phat thanh dao

Lớp Học Hàm Thụ cho Trại Sinh Lộc Uyển 10
 Gia Đình Phật Tử Úc Đại Lợi


NHỮNG NGUYÊN LÝ CĂN BẢN
CỦA PHẬT GIÁO


Soạn và giảng: TT Thích Nguyên Tạng

Chủ Nhật: 25/08/2019 từ 7pm đến 9.30pm

 

 

I. DẪN NHẬP :

 Trong Kinh Hoa Nghiêm Đức Phật từng dạy rằng: Tín là nguồn của Đạo, là mẹ của công đức. Và nuôi dưỡng tất cả mọi căn lành. (Tín vi Đạo nguyên công đức mẫu,. Trưởng dưỡng nhất thiết chư thiện căn.).Đạo Phật là đạo Giác Ngộ, muốn đạt được giác ngộ hành giả phải có niềm tin chân chính, mà niềm tin chân chánh ấy phải có cơ sở thực tế và trí tuệ đúng như thật.

Trên tinh thần đó, đối với hệ thống Kinh Điển do Đức Phật truyền dạy trong 45 năm, người học Phật phải có cơ sở để chứng tín rằng đó là lời Phật dạy, cơ sở đó chư Tổ Đức gọi là Tam Pháp Ấn:

1/Chư Hành Vô Thường
2/Chư Pháp Vô Ngã
3/Niết Bàn Tịch Tĩnh

 Bất cứ giáo lý nào không dựng lập trên quan điểm này, thì Phật giáo xem là tà thuyết, và Tam Pháp Ấn này được xem là những nguyên lý căn bản của Phật Giáo.

II. NỘI DUNG :

1. Định nghĩa :

- Ấn là chiếc ấn hay khuôn dấu (Seal)
-Pháp có nghĩa là chánh pháp (Dharma) hay toàn bộ hệ thống tư tưởng trong lời dạy của Đức Phật được ghi lại trong ba tạng thánh điển.
- Tam Pháp Ấn: (Three Dharma Seal/ Three Characteristic marks of the Buddha’s Teachings): Vô Thường, Vô Ngã và Niết Bàn Tịch Tĩnh chính là ba dấu ấn mang tính pháp định, dùng để ấn chứng, chứng nhận tính xác thực của Chánh pháp. Mọi giáo lý của đạo Phật, tất yếu đều phải mang các pháp ấn, nếu thiếu một trong những pháp ấn đó thì giáo lý ấy chắc chắn không phải Chánh pháp, lời Phật dạy.

2. Tam Pháp Ấn là gì ?

 

A/CHƯ HÀNH VÔ THƯỜNG : Các hành vô thường ( Phạn: Anitya sarvasamskarah, Pali: anicca, E: impermanence), còn gọi là Nhất thiết hành vô thường ấn, Nhất thiết hữu pháp vô thường ấn, gọi tắt là Vô Thường ấn): Tất cả các pháp hữu vi ở thế gian đều vô thường, dời đổi, biến chuyển, sinh diệt không ngừng. Chúng sinh không nhận biết điều này nên đối với vô thường mà lầm chấp là thường, nên triền miên thống khổ, vì thế Phật nói vô thường để phá chấp thường của chúng sinh.

Vô thường là là đặc tính chung của mọi sự sinh ra có điều kiện, tức là thành, trụ, hoại, không arises, dwells, passes away, emptiness ). Từ tính vô thường ta có thể suy ra hai đặc tính kia là Khổ ( dukkha) và Vô ngã ( anatman). Vô thường là tính chất cơ bản của cuộc sống, không có vô thường thì không có sự tồn tại, vô thường cũng chính là khả năng dẫn đến giải thoát . Có tri kiến vô thường, hành giả mới bước vào Thánh đạo. Vì thế tri kiến vô thường được xem là tri kiến của bậc Dự lưu. (Impermanence is the basis of life, without which existence would not be possible; it is also the precondition for the possibility of attaining liberation. Without recognition of anitya there is no entry into the supramundane path, thus the insight leading to “ stream entry”).

* Có ba loại vô thường:
a/Thân Vô Thường: thân ta luôn bị vô thường biến đối chi phối bởi sanh, lão, bệnh và tử.
b/Tâm Vô Thường: tâm ta thay đổi trong từng phút giây, đối cảnh sanh tình:  buồn đó rồi vui đó, thương đó rồi giận đó.
c/ Hoàn Cảnh Vô Thường: đời sống xung quanh ta, sơn hà đại địa, luôn bị Vô thường chi phối. Sách thường có câu: "Thương hải, tang điền" (Bãi biển nương dâu). Tục ngữ VN có câu nói lên được sự Vô thường của hoàn cảnh: "Không ai giàu ba họ, không ai khó ba đời".

Trong Kinh Niết Bàn (quyển 4) Phật nói về Vô thường như sau:

Chư hành vô thường
Thị sinh diệt pháp
Sinh diệt diệt dĩ
Tịch diệt vi lạc

Nghĩa là:
Các hành vô thường
Là pháp sinh diệt
Sinh diệt hết rồi
Tịch diệt là vui.

Thiền Sư Vạn Hạnh đời nhà Lý (1010 -1225) trước giờ thị tịch đã nhắc nhở chúng đệ tử về sự vận hành của vô thường qua bài kệ :

“Thân như điện ảnh hữu hoàn vô,
Vạn mộc xuân vinh thu hựu khô.
Nhậm vận tịnh suy vô bố úy,
Thịnh suy như lộ tháo đầu phô”.

Nghĩa là:

Thân như bóng chóp chiều tà
Cỏ cây tươi tốt qua thu rụng rồi
Xá chi suy thạnh việc đời
Thạnh suy như hạt sương rơi đầu cành.

Kinh Kim Cang cũng nói :

Nhất thiết hữu vi pháp
Như mộng huyễn bào ảnh
Như lộ diệc như diễn
Ứng tác như thị quán.

Dịch nghĩa:
Tất cả pháp hữu vi,
Như mộng, huyễn, bọt, bóng,
Như sương, như chớp loé,
Hãy quán chiếu như thế.

Dịch thơ vần:
Các pháp thế gian thuộc hữu vi
Như đêm đông giấc mộng đông thùy
Như đồ giả dối không bền chắc
Như bọt nước tan mất cấp kỳ.
Như bóng trong gương nào phải có
Như sương giọt nắng chẳng còn chi
Như luồng điện chớp làm gì có
Nhận xét như vầy mới thật tri.

Hành giả phải nhận thức được như thế để không khỏi đau khổ, lo âu, sợ hãi khi vô thường đến.


B/ CHƯ PHÁP VÔ NGÃ:

Các pháp vô ngã ( Phạn : Niràtmànahsarva-dharmàh), còn goi là Nhất thiết pháp vô ngã ấn, gọi tắt là Vô ngã ấn). Tất cả các pháp hữu vi ở thế gian nói chung đều là vô ngã, không có chủ thể nhất định, chúng sinh không rõ biết nên đối với tất cả pháp lầm chấp là có chủ thể, vì thế Phật nói Vô ngã để phá trừ chấp ngaõ của chúng sinh.

Vô ngã (Nonself- Anatman) là một giáo lý căn bản của Đạo Phật, cho rằng, không có một Ngã ( atman), một cái gì trường tồn, bất biến, nhất quán, tồn tại độc lập nằm trong mọi sự vật. Theo Đạo Phật, cái ngã, “cái tôi” cũng chỉ là một tập hợp của “ năm nhóm” (Ngũ uẩn - Five aggregates - Skandha), luôn luôn thay đổi, mất mát và vì vậy “ tôi” chỉ là giả hợp, gắn liền với cái khổ đau, không có chủ thể nhất định. Ví dụ, con người được cấu tạo bằng một tổng thể ngũ uẩn : Sắc uẩn, thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn và thức uẩn.

1/ Sắc uẩn: Thuộc về thân, chỉ cho hình hài của con người (mắt, mũi, tai, lưỡi, thân), sắc còn chỉ cho vật chất thô phù bên ngoài như đất, nước, núi sông, cây cỏ, đường xá, nhà cửa…Ở đây, sắc uẩn là chỉ thân xác của chúng ta, được kết hợp từ tinh cha huyết mẹ qua 4 yếu tố:  Đất, nước, lửa, gió (địa, thủy, hỏa, phong). Thân có được từ các chất cứng (địa) như xương, thịt, răng, tóc, lông, móng…; thủy (nước) là chất lỏng như máu, mồ hôi, nước miếng…; phong (gió) là hơi thở ra vào; hỏa (lửa) là hơi ấm. Nếu thiếu một trong bốn yếu tố này ta sẽ chết và điều quan trọng là 4 yếu tố này không có cái nào làm chủ cả, ta không sai khiến được nó, nó ở ngoài tầm kiểm soát của ta, thân ta là do giả duyên hợp lại mà thành, không có tự thể nhất định, nên gọi đó là sắc uẩn, sắc uẩn là không.

2/ Thọ uẩn: Thuộc về tâm, là cảm giác vui, buồn, không vui không buồn. Bản thân của cảm xúc cũng không thật có, nếu ta có vui, có buồn, hoặc không vui không buồn phải đi ngang qua sự tiếp xúc của lục căn với lục trần như mắt thấy sắc, tai nghe tiếng, mũi ngửi mùi, lưỡi nếm vị, thân xúc chạm, ý thức phân biệt. Chẳng hạn như tai ta nghe bản nhạc “Mừng Phật Đản Sanh”, ta cảm thấy vui, nhưng ta buồn khi nghe bài “Tâm sự người cài hoa trắng”, trong khi nghe bài hòa tấu Piano “Sonata 32” của Beethoven, ta có cảm xúc trung hòa, không vui, không buồn. Cái cảm giác vui, buồn và không vui, không buồn này không thật có mà phải mượn tiếng nhạc du dương kia để nó xuất hiện trong tâm ta, nên Phật dạy thọ uẩn là không.

3/ Tưởng uẩn: Thuộc về tâm, là tri giác, nhận biết mọi âm thanh, sắc tướng xung quanh, hồi tưởng về quá khứ, tưởng tượng hiện tại và tương lai…Ví dụ như đêm tối ta nhìn thấy cục đá bên lề đường mà tưởng đó là con chó. Bản thân tưởng uẩn là không thật có và luôn sai lầm vì nó bị chi phối với ký ức của quá khứ và vọng tưởng điên đảo của hiện tại và tương lai, nên tưởng uẩn là không.

 4/ Hành uẩn: Thuộc về tâm, những hoạt động tâm lý sau khi có tưởng, có 2 nghĩa thiên lưu và tạo tác. Thiên lưu là dòng chảy của suy tư; tạo tác ra 51 tâm sở thiện, bất thiện và vô ký, ví dụ như tâm ý vui thích, ghét bỏ, chú ý, đánh giá, quyết tâm, tỉnh giác. Hành là đối tượng đã tạo nên nghiệp thiện ác. Hành do tưởng mà có, và cũng tùy duyên mà dấy khởi, chứ không thật có, nên hành uẩn là không.

 5/ Thức uẩn: Thuộc về Tâm Vương (có 8), là sự nhận thức phân biệt, như mắt thấy sắc, phân biệt đẹp hay xấu, tai nghe tiếng, phân biệt âm thanh lớn hay nhỏ, mũi ngửi mùi, phân biệt mùi thơm hay hôi, lưỡi nếm vị, phân biệt vị mặn hay lạt, thân xúc chạm, phân biệt lạnh hay nóng. Thức tự bản thân không tự có, mà do sáu căn tiếp xúc với sáu trần mới có phân biệt, nên thức uẩn là không.

Qua sự phân tích của năm uẩn như trên ta không thấy cái uẩn nào là của ta cả, và năm uẩn đều không có thực thể riêng biệt, không có chủ thể nhất định, vậy mà lâu nay ta lầm tưởng ngũ uẩn này là thật có để rồi ta tự gây đau khổ cho mình và cho người.


C/ NIẾT BÀN TỊCH TĨNH:

Niết bàn tịch tĩnh (Phạn: Satamnirvanam, còn gọi là Niết bàn tịch diệt ấn, Tịch diệt niết-bàn ấn, còn gọi là Diệt, Diệt Tận, Diệt độ, Tịch diệt, Bất Sinh, Viên Tịch, Giải thoát, Vô vi , An lạc , từ phổ biến và gọi tắt là Niết bàn. Tất cả chúng sinh không rõ biết khổ đau sinh tử cho nên tạo nghiệp, trôi lăn trong ba cõi, sáu đường, vì thế Phật nói Niết Bàn tịch diệt cho chúng sinh quy hướng.

Niết bàn là mục tiêu tối hậu phải đạt được của tất cả những đệ tử Phật, dù họ thuộc về tông phái nào, Nguyên Thủy hay Đại Thừa. Theo Phật Giáo Nguyên Thủy, Niết bàn được xem là đoạn tuyệt vòng luân hồi (Samsara) và đi vào một thể tồn tại khác ( Nibbana is departure from the cycle of rebirths and entry into an entirely different mode of existence). Đó là sự tận diệt gốc rễ của ba độc: tham, sân và si ( desire, hatred & delusion). Đồng thời Niết Bàn có nghĩa là không còn chịu sự tác động của nghiệp (Karma/action), không còn chịu quy luật của nhân duyên, ở trạng thái vô vi, tức là đặc tính thiếu vắng sự sinh, trụ, dị, diệt hoặc thành, trụ, hoại, không. Còn theo Phật giáo Đại Thừa, Niết Bàn được xem là sự thống nhất với cái Nhất thể tuyệt đối ( sự bình đẳng của chúng sinh- Sattvasamata), sự thống nhất luân hồi với dạng “ chuyển hóa” của nó. Niết bàn được xem như sự lưu trú trong tính tuyệt đối, sự an lạc khi thấy mình cùng một thể với tuyệt đối, khi thấy mình giải thoát khỏi mọi ảo giác, mọi biến tướng của tham ái.


Có hai loại Niết Bàn:


a) Hữu dư Niết bàn:
Tiếng phạn : Savupadisesa-Nibbana: Niết bàn còn tàn dư, Niết bàn trước khi tịch diệt. Niết bàn này là trạng thái của các thánh nhân đã loại bỏ phiền não, không còn tái sinh. Các vị này còn sống trên đời nên vẫn còn ngũ uẩn, còn có nhân trạng, nên gọi là “ hữu dư”.

b)Vô dư Niết bàn :Tiếng phạn: Anupadisesa-nibbana: là Niết bàn không còn – ngũ uẩn, mười hai xứ, mười tám giới và các căn. Niết bàn Vô Dư đến với một vị A La Hán sau khi viên tịch, không còn tái sinh. Loại Niết Bàn này cũng được gọi là Niết Bàn toàn phần hay Bát Niết Bàn.


III/ HÀNH TRÌ TU TẬP:
 Xác lập niềm tin vào Tam Pháp Ấn là điều tiên quyết của người Phật tử, vì chỉ có niềm tin vững chắc chúng ta mới có tu tập để đạt đến Niết Bàn Tịch Tỉnh. Con đường đưa tới Niết bàn là Bát Chánh Đạo. Kinh Tăng Nhất A Hàm ( số 18), các vị Tỳ kheo hỏi Tôn giả Xá Lợi Phất về Niết Bàn: “ Bạch Đại Đức, làm thế nào để an trụ trong Trung đạo, làm thế nào để tuệ nhãn sanh, làm thế nào để trí tuệ sinh và làm thế để đưa tới Niết bàn”. Ngài Xá Lợi Phất trả lời: “ Này chư Hiền giả, đó là con đường Bát Chánh Đạo: Chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm và chánh định. Đó chính là con đường đưa hành giả vào trung đạo, làm cho tuệ nhãn sinh, làm cho trí tuệ sinh và làm cho an trụ vào Niết bàn”.


Bát Chánh Đạo: C
on đường tám nhánh giúp  hành giả giải thoát khỏi khổ đau và đạt đến Niết bàn, là chân lý cuối trong Tứ Diệu Đế. Bát Chánh Đạo là một trong 37 Bồ Đề Phần. Đó chính là:

1/Chánh kiến: gìn giữ một quan niệm xác đáng về giáo lý: Là rõ biết biết đây là khổ, rõ biết đây là tập khởi của khổ, rõ biết đây là diệt khổ, rõ biết con đường dẫn đến diệt khổ.
2/Chánh tư duy: suy xét về ý nghĩa của bốn chân lý một cách không sai lầm, là tư duy về ly dục, ly sân và ly ác pháp.
3/Chánh ngữ: không nói dối, không nói lời phù phiếm, không nói lời ác khẩu...
4/Chánh nghiệp: không phạm các giới luật mà hành giả đã thọ.
5/Chánh mạng: tránh các nghề nghiệp giết hại như đồ tể, thợ săn, buôn bán vũ khí, thuốc phiện;
6/Chánh tinh tấn: siêng năng tu tập tứ chánh cần, phát triển thiện nghiệp để vô hiệu hóa ác nghiệp.

7/Chánh niệm: tỉnh giác và tu tập để thanh lộc tam nghiệp: thân, khẩu và ý.
8/Chánh định: tập trung tâm ý để tu tập để đạt bốn tầng thiền xuất thế gian.

Bát Chánh Đạo không nên hiểu là những “ con đường” riêng biệt mà chính là ba môn học mà hành giả phải thực hành triệt để xuyên qua Giới ( gồm chánh ngữ, chánh nghiệp & chánh mạng), Định ( gồm Chánh tinh tấn, chánh niệm & chánh định) và Tuệ (gồm Chánh kiến & chánh tư duy). Chánh kiến là điều kiện tiên quyết để đi vào Thánh Đạo và đạt đến Niết bàn.


III/ KẾT LUẬN :
Trong Kinh Trung Bộ, Đức Phật dạy: “ Này chư Tỳ kheo, từ xưa cho đến nay, ta chỉ nói lên hai vấn đề: Khổ và phương pháp diệt khổ”. Khổ là các hành vô thường, các pháp vô ngã ( pháp ấn thứ 1 và 2), và phương pháp diệt khổ chính là Niết bàn tịch tĩnh ( pháp ấn thứ 3).

Cuộc sống hiện nay và ngày mai vô cùng náo động và cuồng nhiệt, con người luôn đánh mất mình trong mọi sát na của đời sống vật chất, phù du giả tạm này, để rồi cuối cùng phải chịu sự chi phối, hành hạ của vô thường, khổ đau, của sinh tử luân hồi. Tam pháp ấn là giáo lý căn bản của Phật giáo giúp cho chúng ta suy ngẫm và áp dụng vào trong đời sống của chính mình, để cho đời mình bớt khổ./.



Tham khảo từ các tài liệu
: Phật Học Phổ Thông ( HT Thiện Hoa) trên Trang Nhà Quảng Đức www.quangduc.com; Từ Điển Phật Học ( Chân Nguyên – Nguyễn Tường Bách; The Encylopedia of Eastern Philosophy and Religion ( Ed. Stephan Schumacher & Gert Woerner)

 

 



Câu Hỏi Trắc Nghiệm

Lớp Giáo Lý Trại Lộc Uyển:

NHỮNG NGUYÊN LÝ CĂN BẢN
CỦA PHẬT GIÁO


Soạn và giảng: TT Thích Nguyên Tạng
Chủ Nhật: 25/08/2019 từ 7pm đến 9.30pm


*Xin quý anh chị chọn câu trả lời và khoanh tròn phần đúng nhất:

(Please select correct statements/answers)

 

1/Nguyên lý căn bản của Phật Giáo là:
a.Tam Bảo: 1/ Phật Bảo, 2/ Pháp Bảo, 3/ Tăng Bảo
b.Tam Giới: 1/Dục giới, 2/ Sắc Giới, 3/ Vô Sắc Giới
c.Tam Pháp Ấn:
1/Chư Hành Vô Thường, 2/Chư Pháp Vô Ngã, 3/Niết Bàn Tịch Tĩnh

1. Principles of Buddhism are:

  1. a.      The three Jewels: 1. Buddha, 2. Dharma, 3. Sangha
  2. b.      The three realms: 1. The realm of passions, 2. The realm of beauty, 3. The realm of non-form
  3. c.       Three Dharma seal: 1. Impermanence, 2. Non Ego, 3. Nirvana

2. Tam Pháp Ấn có nghĩa là:
a. Vô Thường, Vô Ngã và Niết Bàn Tịch Tĩnh chính là ba dấu ấn mang tính pháp định, dùng để ấn chứng, chứng nhận tính xác thực của Chánh pháp.
b. Vô Thường là ba dấu ấn mang tính pháp định, dùng để ấn chứng, chứng nhận tính xác thực của Chánh pháp.
c. Vô Thường và Niết Bàn Tịch Tĩnh chính là ba dấu ấn mang tính pháp định, dùng để ấn chứng, chứng nhận tính xác thực của Chánh pháp.

2. Three Dharma seal is meaning of:

a. Impermanence, Non ego and Nirvana are three dharma seal legislation, certifying the truth of the correct doctrine of the Buddhism

b. Impermanence is three dharma seal legislation, certifying the truth of the correct doctrine of the  Buddhism

c. Impermanence and Nirvana are three dharma seal legislation, certifying the truth of the correct doctrine of the  Buddhism

 


3. Vô Thường có 3 loại:
a. Thân Vô Thường, Tâm Vô Thường, Hoàn Cảnh Vô Thường
b. Thân Vô Thường,  Tâm Chơn Thường, Hoàn Cảnh Vô Thường
c. Thân Chơn Thường, Tâm Vô Thường, Hoàn Cảnh Vô Thường

3. Impermanence has three types:

a. Impermanent body, Impermanent mind, impermanent environment

b. Impermanent body, Permanent mind, Impermanent environment

c. Permanent body, Impermanent mind, Impermanent environment


4. Chư Pháp Vô Ngã là: 
a. Tất cả các pháp hữu vi ở thế gian đều là vô ngã, không có chủ thể nhất định.
b. Tất cả các pháp hữu vi ở thế gian đều là chơn ngã, đó là lời Phật dạy
b. Tất cả các pháp hữu vi ở thế gian Phật nói rõ là có chủ thể nhất định.

4. Non Ego is:

a. Allphenomena in the universe are non ego, there is no certain subject

b. All phenomena in the universe are ego, that is the Buddha taught

c. All phenomena in the universe there is certain subject, Buddha said

 

5. Bát Chánh Đạo: Con đường tám nhánh giúp hành giả giải thoát khỏi khổ đau và đạt đến Niết bàn, là:
a. Chánh kiến, Chánh tâm, Chánh ngữ, Chánh đạo, Chánh mạng, Chánh tinh tấn, Chánh niệm, Chánh định
b. Chánh kiến, Chánh tư duy, Chánh tín, Chánh Pháp, Chánh mạng, Chánh tinh tấn, Chánh niệm, Chánh định.
c.Chánh kiến, Chánh tư duy, Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng, Chánh tinh tấn, Chánh niệm, Chánh định.

5. The Eightfold path: The way leading the practitioner to liberate from suffering and attain the Nirvana:

a. Right view, Right mind, Right speech, Right way, Right livelihood, Right effort, Right mindfulness, Right concentration.

b. Right view, Right thought, Right belief, Right doctrine, Right livelihood, Right effort, Right mindfulness, Right concentration.

c. Right view, Right thought, Right speech, Right action, Right livelihood, Right effort, Right mindfulness, Right concentration.

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
01/05/2017(Xem: 4618)
Trong 45 năm thuyết pháp, Đức Phật Thích-ca đã không để lại một chữ viết nào cả. Sau khi Đức Phật lịch sử nhập niết-bàn (khoảng năm 483 trước CN), đã có 3 kỳ Hội nghị kết tập kinh điển, Các vị Trưởng lão và Đại sư đã theo cách "ghi nhớ kinh điển ở trong đầu" (committing the Tripitaka to memory) để ghi lại lời Phật dạy.
01/05/2017(Xem: 5808)
Những bài đố chữ (word-puzzle) về Phật Pháp dựa theo cuốn Phật học phổ thông của HT Thích Thiện Hoa BS Tâm Đức - Hoàng Đức Thành Tâm dẫn đầu các pháp, Tâm làm chủ, tâm tạo; Nếu với tâm thanh tịnh, Nói lên hay hành động, An lạc bước theo sau, Như bóng, không rời hình. Mind precedes all knowables, mind's their chief, mind-made are they. If with a clear and pure mind one should speak and act happiness follows caused by that, as one's shadow never departing
26/04/2017(Xem: 13159)
Đạo Phật là đạo của giác ngộ, giải thoát nên lúc nào cũng phát khởi tấm lòng vô ngã, vị tha với tinh thần từ bi và trí huệ. Trong suốt 49 năm hoằng dương Chánh pháp, đức Phật đem hết sự thấy biết của mình qua sự tu chứng, trải nghiệm thực tế, nhằm thức tỉnh và giác ngộ mọi người để có sự hiểu biết chân chánh bằng niềm tin nơi chính mình và tin sâu nhân quả. Kinh Kamala được đức Phật nói trong hoàn cảnh khi Ngài cùng các đệ tử đi đến thị trấn Kêsaputa của sắc dân Kalama thuộc nước Kôsala.
22/04/2017(Xem: 5850)
Phật tử Chùa Thiên Khánh hỏi : 6-Hai người cùng tu tập như nhau, nhưng một người hay giúp đỡ và một người không? Vậy phước có đồng nhau không? Xin thầy chỉ dạy. Thầy trả lời : Câu hỏi này rất hay và có giá trị. Hai người cùng làm một công việc trong một thời điểm và có tài sức ngang nhau, thế nhưng có người thành công và có người thất bại. Đối với những người không thành công, họ hay tự an ủi mình rằng số mình chưa đến hoặc họ đổ thừa tại bị thì là…. Nhưng ít ai biết rằng tất cả nên hư, thành bại, tốt xấu đều do mình tạo ra trong quá khứ hoặc hiện tại
17/04/2017(Xem: 5632)
Thân và tâm là hai yếu tố quan trọng luôn liên hệ chặt chẽ, mật thiết với nhau trong một cơ thể con người. Nếu ta luôn tỉnh giác hằng ngày, ý thức ba việc thường chớ đủ là ăn mặc, ngủ; hay nói cho đúng hơn, ta phải muốn ít, biết đủ, chỉ ăn uống điều độ vừa đủ để nuôi thân, làm việc, vận động hợp lý, ngủ nghỉ cho có chừng mực, nên thân khỏe mạnh, tinh thần sáng suốt, nhờ vậy mình dễ dàng buông xả mọi dính mắc trong cuộc đời mà thành tựu đạo pháp.
25/03/2017(Xem: 7802)
Còn nhớ nửa đầu thập niên 90 thế kỷ trước, mỗi khi có tác phẩm nào nội dung liên quan đến Phật giáo thì phía bộ phận quản lý đều yêu cầu tác giả hoặc nhà xuất bản phải trình qua phía văn hóa, hoằng pháp Phật giáo để có phê duyệt rõ ràng, thì mới được cấp giấy phép thực hiện và phát hành rộng rãi. Quy định chặt chẽ ấy đã giúp và hỗ trợ Phật giáo rất nhiều trong việc hạn chế được những sai phạm vô tình hay hữu ý hiểu sai về Phật giáo. Việc làm tích cực này hiện nay đã không còn thấy nữa. Vì vậy từ khi thấy có xuất hiện quyển sách "Tranh Nhân Quả" do Sư Thầy Thích Chân Quang biên soạn
19/03/2017(Xem: 7718)
Là người mới bắt đầu học Phật hoặc đã học Phật nhưng chưa thấm nhuần Phật pháp chân chính, chúng tôi biên soạn quyển sách nhỏ này, nhằm hướng dẫn cho người cư sĩ tại gia tập sống cuộc đời thánh thiện, theo lời Phật dạy. Chúng tôi cố gắng trình bày các nguyên tắc này theo sự hiểu biết có giới hạn của mình, sau một thời gian ứng dụng tu học cảm thấy có chút an lạc. Để giúp cho người cư sĩ tại gia thực hiện đúng vai trò và trách nhiệm của mình đối với gia đình người thân và cộng đồng xã hội. Trước tiên, chúng ta cần phải có một niềm tin vững chắc sau khi học hỏi, có tư duy sâu sắc, có quán chiếu chiêm nghiệm như lời Phật dạy sau đây: Này các thiện nam, tín nữ, khi nghe một điều gì, các vị phải quan sát, suy tư và thể nghiệm. Chỉ khi nào, sau khi thể nghiệm, quý vị thực sự thấy lời dạy này là tốt, lành mạnh, đạo đức, có khả năng hướng thiện, chói sáng và được người trí tán thán; nếu sống và thực hiện theo lời dạy này sẽ đem đến hạnh phúc, an lạc thực sự ngay hiện tại và về lâu về dài,
19/03/2017(Xem: 7184)
Nói đến đạo Phật là nói đến tinh thần nhân quả, nói đến sự giác ngộ của một con người. Con người sinh ra đủ phước báo hay bất hạnh là do tích lũy nghiệp từ nhiều đời mà hiện tại cho ra kết quả khác nhau. Mọi việc đều có thể thay đổi và cải thiện tốt hơn nếu chúng ta có ý chí và quyết tâm cao độ. Tất cả mọi hiện tượng, sự vật trên thế gian này là một dòng chuyển biến liên tục từng phút giây, không có gì là cố định cả. Một gia đình nọ, hai cha con cùng dạo chơi trong khu vườn nhà của họ. Bổng nhiên đứa con hỏi bố: “Bố ơi bố, nhà chúng ta có giàu không ạ?” Ông bố nghe xong liền mỉm cười, xoa đầu cậu con trai, rồi nói: “Bố có tiền, nhưng con không có. Tiền của bố là do bố tự mình siêng năng tích cực làm ra bằng đôi bàn tay và khối óc, được tích lũy trong nhiều năm tháng. Sau này con muốn giàu có như bố, trước tiên con phải học và chọn cho mình một nghề nghiệp chân chính, con cũng có thể thông qua nghề nghiệp của mình mà kiếm được tiền.”
17/03/2017(Xem: 7016)
1-Người Phật tử, phải thắng sự lười biếng bởi thái độ ỷ lại hay dựa dẫm vào người khác mà cầu khẩn van xin để đánh mất chính mình. 2-Bất mãn là thái độ thiếu khôn ngoan và sáng suốt, người trí càng nổ lực tu học và dấn thân đóng góp nhiều hơn nữa khi mọi việc chưa được tốt đẹp để không bị rơi vào trạng thái tiêu cực. 3-Người Phật tử chân chính, cương quyết phải thắng sự thiếu quyết tâm khi muốn làm việc thiện vì đó là trách nhiệm và bổn phận của người có lòng từ bi hỷ xả.
16/03/2017(Xem: 7125)
1-Người Phật tử hãy nên nhớ, sở dĩ con người ta đau khổ chính vì mãi đeo đuổi những thứ sai lầm do không tin sâu nhân quả và tin chính mình là chủ nhân của bao điều họa phúc. 2-Nếu chúng ta không muốn rước phiền não vào mình, thì người khác cũng không thể làm cho ta phiền muộn khổ đau, vì ta đã có cây kiếm trí tuệ nhờ nghe và biết chiêm nghiệm để rồi tu sửa. 3-Người Phật tử dù thắng trăm vạn quân cũng không bằng chiến thắng những thói hư tật xấu của mình, đó là chiến công oanh liệt nhất mà người đời ít ai làm được. 4-Chúng ta hãy luôn cám ơn nghịch cảnh vì chính khó khăn đó đã giúp cho ta có cơ hội quay lại chính mình, nhờ vậy tâm ta an tĩnh, sáng suốt mà tìm ra phương hướng để khắc phục.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]