Mật Tạng Bộ 2_ No.951 (Tr.256 _ Tr.263)
KINH NHẤT TỰ ĐẢNH LUÂN VƯƠNG
_QUYỂN THỨ NĂM_
THẾ THÀNH TỰU
_PHẨM THỨ MƯỜI_
Bấy giờ, Đức Thích Ca Mâu Ni Như Lai ngay lúc đó lại nhập vào trong Nhất Thiết Phật Bất Tư Nghị Đà La Ni Đảnh Pháp Quang Vương Cảnh Giới Thần Biến Tam Ma Địa. Căng Già Sa hết thảy chư Phật ấy đều ở lúc đấy cũng nhập vào trong Nhất Thiết Phật Bất Tư Nghị Đà La Ni Đảnh Pháp Quang Vương Cảnh Giới Thần Biến Tam Ma Địa
Khi ấy, Kim Cang Mật Tích Chủ Bồ Tát từ chỗ ngồi đứng dậy, chắp tay cung kính nhiễu quanh Đức Phật ba vòng rồi lui lại đứng một bên, chiêm ngưỡng Đức Như Lai, mắt chẳng nhìn nơi khác.
Lúc đấy, Đức Thích Ca Mâu Ni Như Lai cùng với căng già sa hết thảy Như Lai từ Tam Ma Địa an lành đứng dậy, bảo Kim Cang Mật Tích Chủ Bồ Tát: “Ông hãy trong sạch nghe cho kỹ! Hết thảy chư Phật, năm Đảnh Luân Vương khác Chú đồng Pháp, hay thành vô lượng oai đức, vô lượng sự nghiệp của nhóm Đảnh Luân Vương Chú, Phật Nhãn Chú. Hay hiện mọi loại chẳng thể nghĩ bàn to lớn, lợi ích chúng sanh. Từ trong một Ấn sanh Ấn khác nhau, thông dụng khác nhau… đều thành tựu vô lượng việc”
NHẤT THIẾT ĐẢNH LUÂN VƯƠNG CĂN BẢN TÂM ẤN_ CHI MỘT
Hai tay: đem hai ngón trỏ, hai ngón vô danh, hai ngón út, bên phải đè bên trái, cùng cài chéo nhau vào trong lòng bàn tay rồi nắm quyền. Kèm song song hai ngón cái ấy, co đầu ngón vào trong lòng bàn tay, dựng thẳng hai ngón giữa cùng hợp đầu ngón
Một Pháp Ấn này thông hết Pháp thành tựu của các Phật Đảnh. Dùng Ấn ấy khiến cho hết thảy Trời, Rồng, Dược Xoa, La Sát, A Tố Lạc, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hô La Già, Tỳ Na Dạ Ca ác nhìn thấy xoay vần Ấn này thảy đều sợ hãi bỏ chạy.
Ấn Chú là:
“Na mô bà già phạ để (1) ô sắt nị sái dã (2) Úm-hồng (3) trác lỗ-hồng (4) bạn đà (5) tốt-phạ ha (6)”
NAMO BHAGAVATE UṢṆĪṢĀYA_ OṂ ṬRŪṂ BANDHA SVĀHĀ
Một Ấn Chú này đủ oai đức lớn. Nếu thường xoay vần kết tự hộ giúp mình, hộ giúp người khác… được an vui lớn, trừ hết mọi khổ, lợi các hữu tình, cũng hay làm đủ Pháp của hết thảy việc.
NHẤT THIẾT ĐẢNH LUÂN VƯƠNG ĐỒNG THỈNH HOÁN ẤN_ CHI HAI
Dựa theo Căn Bản Ấn, chỉ đem đầu hai ngón giữa hơi hơi đưa lên đưa xuống, đưa qua, đưa lại.
Ấn Chú là:
“Na mô bà già phạ để (1) ô sắt nị sái dã (2) ế hứ duệ hứ (3) bạc già bạn (4) đạt ma la nhạ (5) bả la để xả, ma ma (xưng tên gọi của mình) yết kiệm (6) kiện đà, bổ sáp bả, độ bả, phạ lẫm giả (7) mạn già tị la khất-sái, a bả la để khiếm đả (8) phạ la bá la (9) cật-la ma dã (10) tốt-phạ ha (11)”
NAMO BHAGAVATE UṢṆĪṢĀYA_ EHYEHI BHAGAVAṂ DHARMA-RĀJA PRATĪCHA MAMA (xưng tên gọi của mình…) ARGHAṂ GANDHA PUṢPA DHŪPA BALIṂṢYA MAÑCA ABHI-RAKṢA APRATIHATA VARA BALA KRAMĀYA SVĀHĀ
Một Ấn Chú này, nâng giữ hoa màu trắng, Chú vào ba biến, thỉnh triệu hết thảy Chủng Tộc của chư Phật, năm Đảnh Luân Vương, Bồ Tát tập hội trong Đàn rồi ngồi xuống.
NHẤT THIẾT ĐẢNH LUÂN VƯƠNG CÚNG DƯỜNG ẤN CHÚ_ CHI BA
Trong đây, Ấn cúng dường dựa theo Cúng Dường Ấn khác mà dùng
“Na mô bà già phạ để (1) ô sắt nị sái dã (2) ải ma-hồng, kiện đàm (3) bổ sáp phàm, độ phàm (4) phạ lâm, nễ phàm giả (5) bả la để xả (6) ca la, ca la (7) tát phạ bột đà địa sắt sỉ đê (8) đạt ma la nhạ (9) a bả la để khả đá dã (10) tốt-phạ ha (10)”
NAMO BHAGAVATE UṢṆĪṢĀYA_ IMAṂ GHANDHAṂ PUṢPAM DHŪPAṂ BALIṂ DĪPAṂ CA PRATĪCCHA KARA KARA, SARVA BUDDHA-ADHIṢṬHITE DHARMA-RĀJA APRATIHATĀYA SVĀHĀ
Một Pháp Chú này. Nếu khi cúng dường thời dùng hương xoa bôi, hương đốt, nước hương, hoa với các thức ăn uống… đều Chú vào ba biến rồi cầm hiến cúng.
NHẤT THIẾT ĐẢNH LUÂN VƯƠNG THỈNH HOÁN HỎA THIÊN ẤN _ CHI BỐN
Dựa theo Căn Bản Ấn. Chỉ sửa, co hai ngón giữa như thế nửa cái vòng, đầu ngón đừng để dính nhau.
Một Pháp Ấn này, thỉnh gọi Hỏa Thiên để cúng dường. Nếu hiến cúng đều Phát Tống (đưa tiễn) Hỏa Thiên, tức lại duỗī thẳng đầu hai ngón giữa.
Ấn Chú là:
“Na mô bà già phạ để (1) ô sắt nị sái dã (2) ế hứ duệ hứ (3) đế thiệu ma lý nỉ (4) a khất na duệ (5) tốt-phạ ha (6)”
NAMO BHAGAVATE UṢṆĪṢĀYA _ EHYEHI TEJO-MĀLINĪ AGNAYE SVĀHĀ
Một Ấn Chú này. Khi thiêu đốt Hỏa Thực thời tụng ba biến. Trước tiên thỉnh Hỏa Thiên thiêu đốt thức ăn cúng dường. Sau đó mới thiêu đốt thức ăn cúng dường chư Phật, Bồ Tát, Kim Cang với các Chú Thần.
NHẤT THIẾT ĐẢNH LUÂN VƯƠNG PHÁT KHIỂN HỎA THIÊN ẤN CHÚ _ CHI NĂM
Phát Khiển Ấn này dựa theo Thỉnh Ấn lúc trước mà dùng.
“Na mô bà già phạ để (1) ô sắt nị sái dã (2) gia hứ, gia hứ (3) đế thiệu ma lý nỉ (4) a khất na duệ (5) tốt-phạ ha (6)”
NAMO BHAGAVATE UṢṆĪṢĀYA _ YAHI YAHI, TEJO-MĀLINĪ AGNAYE SVĀHĀ
Một Ấn Chú này, Hỏa Thực đã hiến đều hoàn tất xong, tụng 21 biến phát khiển Hỏa Thiên.
THỈNH TRIỆU NGŨ ĐẢNH LUÂN VƯƠNG ẤN CHÚ_ CHI SÁU
Một Chú Ấn này dựa theo Thình Ấn lúc trước mà dùng.
“Na mô bà già phạ để (1) ô sắt nị sái dã (2) Úm-hồng (3) a bá la nhĩ đả (3) úm-hồng (4) nhập phạ la nhĩ, úm-hồng (5) nhã diệu nga đả, hổ-hồng (6) úm-hồng (7) mỗ phất đà, ninh sách (8) úm-hồng (9) ma ma ma (10) hổ-hồng, ninh (11)”
NAMO BHAGAVATE UṢṆĪṢĀYA_ OṂ APARĀJITA_ OṂ JVALA ME_ OṂ JAYO-GATA HŪṂ_ OṂ MŪRDHA NIṢAD_ OṂ MAMA HŪṂ NĪḤ
Một Ấn Chú này khải triệu năm Đảnh Luân Vương với hết thảy Phật, Bồ Tát, các Chú Tiên Thần. Cũng thông với dụng của Pháp: xoa bôi hương, rải hoa, thiêu đốt hương cúng dường
TỒI TOÁI ĐẢNH LUÂN VƯƠNG ẤN_ CHI BẢY
Dựa theo Căn Bản Ấn. Chỉ sửa co đầu ngón giữa phải trụ ở vạch lóng thứ nhất trên ngón giữa trái, duỗi thẳng đứng ngón giữa trái.
Một Pháp Ấn này cũng gọi là Tịnh Trị Địa Ấn, có sức hay thành tựu hết thảy các việc, kết Giới, hộ thân, sửa trị đất (trị địa), quán đảnh thảy đều thông dụng.
Ấn Chú là:
“Na mô bà già phạ để (1) ô sắt nị sái dã (2) Úm-hồng (3) nhĩ chỉ la noa (4) độ nẵng, độ nẵng (5) độ (6)”
NAMO BHAGAVATE UṢṆĪṢĀYA_ OṂ_ VIKĪRAṆA DHUNA DHUNA DHUḤ
Một Ấn Chú này. Nếu bị Tỳ Na Dạ Ca quấy nhiễu gây chướng ngại thì thường dùng Chú này quán đảnh, hộ thân, kết Giới, kết Đàn, thông dụng cho hết thảy
Nếu làm Nhất Tự Đảnh Luân Vương Đại Pháp Đàn. Khi nhà của sạch sẽ thời nên tụng Chú này chú vào Hỏa Thực được thiêu đốt, tro, hạt cải trắng… 108 biến hoà chung với nhau rồi cầm rải tán bốn phương bên trong bên ngoài của nhà cửa để Tịnh Giới. Hoặc dùng Nhất Thiết Đảnh Luân Vương Tâm Chú chú vào nước, tro… rồi chú rải tán khắp. Hoặc dùng Bổn Sở Tụng Trì Thân Chú Tâm Chú chú vào. Lại tụng Tồi Toái Đảnh Luân Vương Chú chú vào bốn cây cọc bằng gỗ Khư Đà La 108 biến rồi đóng ở bốn phương, kết làm Đàn Giới.
NHẤT TỰ ĐẢNH LUÂN VƯƠNG TỒI
Dựa theo Căn Bản Ấn. Chỉ sửa co đầu ngón giữa trái trụ ở vạch lóng thứ nhất trên ngón giữa phải, duỗi thẳng đứng ngón giữa phải ấy.
Một Pháp Ấn này gọi là Nhất Tự Đảnh Luân Vương Tâm Ấn có sức hay điều phục Tỳ Na Dạ Ca gây chướng ngại, các Thần Quỷ ác. Thường xoay vần Ấn này sẽ đập tan các chướng nạn. Quán đảnh, tắm gội thảy đều thông dụng, không có các chướng não.
Ấn Chú là:
“Na mô bà già phạ để (1) ô sắt nị sái dã (2) tát phạ nhĩ khất na (3) bật khoách sái ca dã (4) đốt lộ nhứ dã (5) tốt-phạ ha (6)”
NAMO BHAGAVATE UṢṆĪṢĀYA_ SARVA VIGHNA VIDHVAṂSANA KARAYA TRUṬAYA SVĀHĀ
Một Pháp Chú này hay đập nát hết thảy chúng Thần Quỷ ác kèm Chú vào Đồng Bạn che chở hộ thân, đứng thẳng ở bốn phương bố thí làm Đại Pháp
ĐẠI
Dựa theo Căn Bản Ấn. Chỉ sửa, co hai ngón giữa, bên phải đè bên trái, đều dựng đầu ngón đè khoảng giữa ở lưng của ngón tay bên trái bên phải.
Một Pháp Ấn này, nếu thường xoay vần kết thì hay diệt mọi tội, được an ổn lớn, chẳng gặp mộng ác. Đối với Pháp Phiến Để Ca (Śāntika: Tức Tai) thiên về dụng làm cho thù thắng.
Ấn Chú là:
“Na mô bà già phạ để (1) ô sắt nị sái dã (2) tát phạ đát la, a bả la nhĩ đả dã (3) úm-hồng (4) xả ma dã, xả ma dã (5) phiến để đãn để (6) đạt ma la nhạ (7) bà sử để (8) ma ha bật-địa, tát phạ lạt đà, sa đà ninh (9) tốt-phạ ha (10)”
NAMO BHAGAVATE UṢṆĪṢĀYA_ SARVATRA APARAJITĀYA _ OṂ ŚAMAYA ŚAMAYA ŚĀNTI DĀNTI DHARMA-RĀJA BHAṢITE MAHĀ-BODHI SARVĀTHA SĀDHAYA SVĀHĀ
Một Ấn Chú này. Dùng một cái bình sành trắng đựng hai đấu nước thơm, để chính giữa Đàn, Chú vào 1008 biến rồi quán đảnh, tắm gội thân, hay trừ bỏ hết thảy tội cấu, tai ách, Tỳ Na Dạ Ca…. Ngày đêm an ổn, trừ hết mọi mộng ác.
Này Mật Tích Chủ! Đây gọi là lược nói một Ấn sanh ra Ấn sai khác, tùy theo các Pháp mà dùng. Nếu rộng giải nói Pháp của mỗi một Chú lưu bày, Giáo Hạnh tức có vô lượng, không có vay mượn rộng nói. Tại sao thế? Vì Ta ở Bộ khác đã rộng phân biệt năm Đảnh Luân Vương Chú cộng với Pháp của Phật Nhãn Chú với các Chú Pháp. Thế nên nay ở trong đây lược nói Pháp thành tựu Chú của năm Đảnh Luân Vương, dùng sức của Chú Thần chứng nơi giải thoát, là nơi mà hết thảy Phật đã nói cho Phật Tử, nói dùng sức tinh tấn thề làm lợi chúng sanh đang bị mọi thứ khổ, thọ nhận được sự an vui của Thế Gian. Người biết Chú này làm lợi cho chúng sanh, chặt đứt các lưới nghi, siêng năng tinh tấn tu tập, liền chứng thành tựu.
_Này Mật Tích Chủ! Nếu người đang trì Chú này, dùng đại tinh tấn, lâu dài thọ trì Chú mà chẳng thành chứng. Lại nên làm một cái Đàn vuông vức bốn khuỷu tay, như Pháp trét bùn tô điểm.
Ở chính giữa Đàn, vẽ hoa sen bảy báu có ngàn cánh lớn khoảng một khuỷu tay, ở trên đài hoa vẽ bánh xe bảy báu
Lại ở đầu cửa Đông, vẽ Luân Ấn
Tiếp theo đầu cửa
Tiếp theo đầu cửa Tây, vẽ Long Vương Ấn
Tiếp theo đầu cửa Bắc, vẽ chày Kim Cang ba chia
Tiếp theo, chữ thập cài chéo nhau trong bốn góc vẽ hai Ngũ Cổ Kim Cang Chử Ấn
Dùng cái bình sứ trắng chứa đầy hai đấu nước hương, để trên đài hoa sen ngay tâm Đàn.Ngày ngày dùng Đại Nan Thắng Phấn Nộ Vương Chú chú vào 1008 biến, như Pháp tự cầm, lại Chú bảy biến, rưới rót đảnh đầu, tắm gội thân, Tâm miệng phát Nguyện
Dựa theo Pháp Đại Quán Đảnh lúc trước, phát Nguyện..v.v…
Một ngày thường làm ba lần, mãn 21 ngày hoặc 49 ngày, dựa theo lúc trước trì tụng, liền được hết thảy Tỳ Na Dạ Ca gây chướng ngại, tinh tú ác, tai quái… thảy đều chịu hàng phục, tăng trưởng Phước Đức, mau chứng Nhất Tự Đảnh Luân Vương Chú Đại Tam Ma Địa.
_Này Mật Tích Chủ! Năm Đảnh Luân Vương này lại có chút ít Pháp, chỉ nhớ tụng trì, kết Như Lai Đảnh Ấn ấn ở trên đảnh đầu, Chú Ấn ba lần liền thành ủng hộ. Hoặc dùng tro của Hỏa Thực đã được thiêu đốt, hoặc dùng hạt cải trắng… Chú vào bảy biến rồi đội trên đảnh, búi tóc, đeo trên thân cũng thành ủng hộ
Nếu có tai ách, Vọng Lượng, các tật bệnh. Hợp se sợi dây trắng, một lần Chú thì thắt một gút rồi đeo giữ trên thân, cổ liền được trừ diệt.
Nếu ở rừng Thi Đà làm các Pháp thì kết Ấn, tụng Chú 108 biến liền hộ ích cho thân, thực hiện được Pháp đã làm
Nếu Phiến Để ca (Śāntika: Tức Tai) thì dựa theo Pháp bên dưới. Dùng Bơ, một lần Chú một lần thiêu đốt, liền được Pháp thành.
Nếu lấy Phục Tàng (kho tàng được chôn dấu) dùng bơ đã luyện tinh sạch, một lần Chú một lần thiêu đốt, 1008 biến thì lấy không có chướng ngại. Hoặc dùng hạt cải trắng, một lần Chú một lần thiêu đốt, 1008 biến cũng được không có chướng ngại.
Nếu muốn mở cửa của A Tố Lạc. Trước tiên, xoa làm Tùy Tâm Đàn (đàn tùy theo Tâm), đốt hương cúng dường, tụng ba lạc xoa (Tiếng Phạn một Lạc Xoa (Lakṣa), đời Đường nói là mười vạn) khiến then chốt gài cửa của A Tố Lạc bị gãy mở. Lại dùng hạt cải trắng (bạch giới tử), muối bằng nhau, hòa Lỗ Địa La (Rudhira: máu) của thân mình, mỗi ngày ba thời dùng hai ngón tay bốc giữ, một lần Chú một lần thiêu đốt, 1008 biến, mãn 21 ngày, thì cung điện bên trong hang A Tố Lạc đều bốc lửa lớn, chúng A Tố Lạc nữ đều ra cửa hang nghinh đón người trì Chú, ban cho thuốc trường sanh, ban cho cái chày, bánh xe, cây kiếm, Hùng Hoàng, Tất Địa. Hoặc cung kính thỉnh vào trong hang, người trì Chú nếu thấy A Tố Lạc ác nên kết Như Lai Đảnh Ấn, một lần Chú một lần hướng vào A Tô La ấy ném Ấn, mãn bảy biến, thì A Tố Lạc ấy liền mê man té xuống dất.
Lại có Pháp. Thường ăn Đại Mạch, cháo sữa… xoa tô Đàn, tụng Chú mãn ba lạc xoa, tức ở trong mộng biết được thuốc trường sanh, lấy mà ăn.
Lại có Pháp. Vào lúc Nguyệt Thực, xoa tô Đàn, đốt hương. Khi ấy người trì Chú không được nhìn mặt trăng, lấy đồ bằng bạc đựng đầy sữa để ở chính giữa Đàn, chuyên tâm Chú vào sữa đến khi mặt trăng trở lại như cũ, liền cầm lấy, uống vào bụng thì hay trừ hết thảy ách nạn trong thân.
Lại có Pháp. Đến trụ trên đảnh núi, thường ăn cơm sữa, gạo tẻ… ngồi hướng mặt về phương Đông, kết Ấn, tụng Chú mãn ba lạc xoa, rồi ở ba ngày ba đêm không ăn không nói, lấy cây Bồ Đề chặt bằng đầu nhúm lửa. Liền đem mè, bơ, lạc lượng bằng nhau trộn lại. Trong ba ngày ba đêm, một lần Chú một lần thiêu đốt, không dược gián đoạn. Mãn ba ngày đêm khi trời sắp sáng, tức được cát tường tài bảo tự nhiên.
Lại ở trên đảnh núi làm Tùy Tâm Đàn, Ở ngay tâm Đàn để tháp Xá Lợi, thường ở trước tháp, ngồi hướng mặt về phương Đông, mỗi ngày: một lần Chú vào hoa sen thì một lần để trước tháp, mãn một lạc xoa thời hay chuyển người bạc phước, đoản mạng tăng gấp đôi Phước Thọ
Lại có Pháp. Đến ở bên bờ sông, thuần dùng bùn Bạch Đàn Hương bôi trên hoa sen, một lần Chú một lần ném xuống sông, mãn một lạc xoa, cũng trừ hết tội cấu, được Phước lâu xa.
Lại có Pháp. Lấy bạch giới tử trộn với dầu, một ngày ba thời, một lần Chú một lần thiêu đốt, 1008 biến, mãn bảy ngày liền được người khác tự kính phục.
Lại có Pháp. Nếu muốn Tịnh Hạnh Bà La Môn cung kính thán phục thì nên thiêu đốt hoa màu trắng.
Nếu muốn Sát Lợi cung kính yêu phục thì nên thiêu đốt hoa màu vàng.
Nếu muốn người Điền Lợi yêu kính thuận phục thì nên thiêu đốt hoa màu đen.
Nếu muốn sai khiến hàng phục (khiển phục) người ác Tà Kiến thì vỏ trấu của lúa gạo, cây Khổ Đống, thuốc độc … lượng bằng nhau, hòa với nhau. Một lần Chú một lần thiêu đốt, liền được khiển phục.
Nếu phạt người Oán. Dùng hạt cải đen (hắc giới tử), một lần Chú một lần thiêu đốt, liền được tồi phục.
Nếu muốn điều phục Bộ Đa Quỷ, Tất Xá Già Quỷ. Dùng Uất Kim Hương, một lần Chú một lần thiêu đốt, một thời riêng 1008 biến, mãn ba ngày đêm, liền tự kính phục.
Nếu muốn khiển phục Quỷ gây bệnh. Kết Ấn, tụng Chú, sau mỗi biến Chú tụng thêm chữ Phán (PHAṬ)
Nếu người bị vướng trùng độc, thuốc độc…làm cho mê man, lo lắng, đau đớn thì người trì Chú sau mỗi biến lại tụng thêm hai chữ Nhạ Ninh bảy biến, lại gia thêm ba chữ Mạc Ma Ma bảy biến, lại gia thêm chữ Cảo bảy biến, lại gia thêm hai chữ Nhứ Mục bảy biến… như vậy chữ gia thêm chữ đều tụng ngầm sẽ nhiếp cấm nhiếp các độc.
Nếu muốn cấm Quỷ, khi Chú lại tụng thêm chữ Để Sắt Xá, Để Sắt Sá (TIṢṬA TIṢṬA), hoặc GIA thêm Ca Nhứ, Ca Nhứ (KAṬA KAṬA), hoặc gia thêm Lạc Cật Sái, Lạc Cật Sái (RAKṢA RAKṢA) liền ngăn cấm bắt thân đứng yên. Nếu gia thêm Luận Đà, Luận Đà (RUDDHA RUDDHA) liền ngăn cấm hơi ở cổ họng của Quỷ chẳng tuôn thông.
Lại có Pháp. Lấy 108 cái lông đuôi của chim công, cột chung lại…Vào lúc Nhật Nguyệt Thực thời xoa tô Đàn an Tượng, nên để lông đuội chim công ở trước tượng, kết Ấn, tụng Chú chú vào lông đuôi chim công, sau khi mặt trời mặt trăng trở lại như cũ thì cầm lấy lông đuôi này, tùy dụng phất phủi thì hay làm hết thảy Pháp Cát Tường. Nếu phất phủi người bị chất độc thì chất độc đần dần được trừ diệt. Nhóm Pháp như vậy tùy theo chỗ làm, tu hết thảy đều thành.
Nếu muốn trị phạt Quỷ Thần gây bệnh. Lấy muối hòa với dầu, một lần Chú một lần thiêu đốt liền trừ được bệnh Quỷ
Lại pháp dùng Cù Ma Di (phân bò) nặn hình tượng Quỷ để ở trước Tượng, cầm cây đao, một lần Chú vào cây đao thì một lần chặt tay, chân, chi tiết của hình Quỷ thì hay khiến cho chi tiết của Quỷ bị đau buốt.
Nếu muốn giàu có, dùng các cây có nhựa trắng, chặt bằng đầu rồi nhúm lửa, Lấy các quả trái, bơ, mật hòa chung với nhau, một lần Chú một lần thiêu đốt, liền như ước nguyện.
Lại có Pháp. Lấy mè trắng hòa với bơ, mật. Một lần Chú một lần thiêu đốt, cũng được như Nguyện.
Lại có Pháp. Lấy có Cốt Lộ chặt một thốn (1/3 dm), một lần Chú một lần thiêu đốt, mãn một lạc xoa, liền chuyển Chánh Nghiệp, tăng thêm Phước Thọ
Lại có Pháp. Dùng bơ, một lần Chú một lần thiêu đốt thì được oai đức lớn
Lại có Pháp. Lấy bơ, sữa hòa chung với nhau. Một lần Chú một lần thiêu đốt thì được đại an ổn.
Lại có Pháp. Lấy bơ, lạc hòa chung với nhau. Một lần Chú một lần thiêu đốt thì được đại tài thực.
Như vậy Hỏa Thực, mỗi ngày ba thời, riêng một thời làm 1008 biến, đều mãn bảy ngày, liền được thành tựu.
_Lại nữa Mật Tích Chủ! Lại có Nhất Tự Đảnh Luân Vương Pháp Vương Đại Pháp Lạc Thành Tựu. Ở chỗ có Xá Lợi, hoặc trên đảnh núi cao, đốt hương cúng dường, ngồi hướng mặt về phương Đông, kết Ấn, tụng Chú, mãn ba lạc xoa rồi mới rang hoa gạo (đạo cốc hoa) hòa với bơ, lạc, mật. Ngồi ở trước Tượng, mỗi ngày ba thời, dùng ba ngón tay bốc, một lần Chú một lần thiêu đốt 1008 biến, mãn một lạc xoa, liền đến chỗ có cây tùng, bách trên ngọn núi lớn, ba ngày ba đêm không ăn không nói, ngồi hướng mặt về phương Đông, cột góc áo Cà Sa, tụng Nhất Tự Đảnh Luân Vương Chú chú vào, mãn một lạc xoa. Nếu là người đời (tục nhân) thì Chú vào tóc rồi cột lại, mãn một lạc xoa, liền chứng An Đát Đà Na, dạo chơi trong Thế Gian không bị ai thấy.
Lại có Pháp. Đến trụ trên đỉnh núi, ăn Đại Mạch, cháo sữa, thường ngồi Kiết Già hướng mặt về mặt trời, tụng Chú mãn một lạc xoa thì cũng được chứng An Đát Đà Na
Lại có Pháp. Dùng tay trái nắm quyền, Chú mãn một lạc xoa thì chứng Pháp như bên trên.
Lại có Pháp. Nếu lúc Nguyệt Thực, xoa tô Tùy Tâm Đàn, dùng bơ của con bò màu vàng đỏ, đựng đầy trong vật khí bằng đồng đỏ rồi để bên trong Đàn, dùng cây đũa bằng đồng đỏ khuấy bơ đều đều, Chú vào bơ chẳng dứt, khiến hiện ra ba tướng: một là tướng bọt nổi lên, người trì Chú uống vào thì được Đại Văn Trì. Hai là tướng khói, người trì Chú uống vào thì được Đại An Đát Đà Na. Ba là tướng hiện ra ánh sáng, người trì Chú uống vào thì được chứng Thức Thông, hay biết ba đời.
Pháp thành tựu Hùng Hoàng cũng như vậy.
Lại có Pháp. Nơi có tháp Xá Lợi, nơi trên đảnh núi cao, nơi A Lan Nhã, nơi sơn cốc sâu, nơi bên sông, suối ao… tạo làm Pháp bánh xe, Pháp cây kiếm, Pháp cái chày, Pháp cây gậy, Pháp da hươu đen… thảy đều trước tiên Chú vào 1008 biến, rồi mới y theo Pháp làm Pháp, tụng Chú thì đều chứng ba loại Tam Muội Gia Tất Địa như bên trên.
Lại có Pháp. Lấy Mễ Đả La (Veṭala: xác chết) chưa bị hoại, tắm gội sạch sẽ, cho mặc áo sạch mới, đầu đội vòng hoa… xoa tô cái Đàn tám khuỷu tay. Ngay chính giữa Đàn, để Mễ Đả La này nằm ngửa mặt ở đầu Đông. Lại dùng bốn cây cọc gỗ Khư Đà La đóng sâu xuống đất, tức liền cột hai chân, hai tay của Mễ Đả La ở trên bốn cây cọc. Người trì Chú cũng tắm gội sạch sẽ, hộ thân, kết Giới, ăn ba thức ăn màu trắng, cỡi trên trái tim của Mễ Đả La. Trước tiên Chú vào Mễ Đả La ba vạn một ngàn lẻ tám biến. Liền nên đem cháo sữa, một lần múc một lần Chú một lần đổ vào miệng của Mễ Đả La cho đến khi đầy thì ngưng. Chỉ một lòng Chú vào Mễ Đả La này khiến tự động ngồi dậy, miệng phun cháo sữa ra. Người trì Chú thấy xong, cầm cái chén bằng đồng đỏ hứng lấy rồi tự ăn, liền chứng Chú Tiên.
Nếu Chú vào bột vàng đổ vào miệng Mễ Đả La. Như lúc trước, Chú vào đến khi lay động,miệng phun ra hết thảy báu, vật dụng trang nghiêm thì cầm lấy, đeo đội cũng chứng Chú Tiên.
Nếu Chú vào bột sắt đổ vào miệng Mễ Đả La. Như lúc trước, Chú vào đến khi lay động, miệng phun ra cây kiếm, cấm lấy thì cũng chứng Kiếm Tiên
Nếu Chú vào hạt cải trắng, bỏ vào miệng Mễ Đả La. Như lúc trước, Chú vào đến khi lay động, miệng phun ra Anh Lạc thì cầm lấy, đeo đội liền chứng Chú Tiên
Nếu Chú vào mè, bỏ vào miệng Mễ Đả La. Như lúc trước, Chú vào đến khi lay động, khiến nói Nhất Tự Đảnh Luân Tam Ma Địa Môn. Lại dùng tay chận trên miệng Mễ Đả La, Như lúc trước, Chú vào, khiến hiện ra ba tướng. Một là tướng tự nói, hỏi việc mong cầu liền vì mình nói. Hai là tướng khởi động, ưa thích làm Sứ Giả. Ba là miệng phát ra ánh sáng, người trì Chú cỡi lên, đều bay lên hư không.
_Lại nữa, Mật Tích Chủ! Năm Đảnh Luân Vương này lại có Pháp đồng thành thuốc là điều mà chư Phật nói, dùng chút công sức liền được thành tựu.
Nên dùng ba vật: hoa Yết Nễ Ca La, hoa sen, Tu Tố Lỗ Đán Nhạ… lượng bằng nhau, hòa chung rồi đâm giã thành bột, lấy nước hòa chung làm thành viên, chứa đầy trong cái hộp bằng bạc. Vào lúc Nhật Nguyệt Thực thời xoa tô cái Đàn hai khuỷu tay, an Tượng ở tâm Đàn rồi để cái hộp ở trước Tượng. Chú vào hộp thuốc này khiến hiện ra ba tướng. Nếu được tướng ấm áp, lấy đeo vào liền hai điều phục hết thảy loài người. Nếu được tướng khói, lấy đeo vào liền chứng An Đát Đà Na. Nếu được tướng ánh sáng, lấy đeo vào liền chứng Chú Tiên trrong Thế Gian.
Nếu nghe tiếng sấm, tiếng sét đánh, hoặc tượng động đậy thì gọi là được chứng Hạ Phẩm Tất Địa
Nếu thấy tướng ác thì sửa lại, tu Hỏa Pháp. Mỗi ngày ba thời, dùng bơ, hoa sen, hoa lúa gạo hòa chung với ngau, dùng ngón tay bốc, một lần Chú một lần thiêu đốt, một thời 1008 biến, mãn bảy ngày, lại dựa theo Pháp lúc trước, nân ấn tháp Phật, mãn một lạc xoa cái tháp, liền tăng thêm Phước, chư Thần ủng hộ, được thành tựu lớn.
Nếu khi làm Pháp mà nghe thấy tiếng của loài trùng Cật Lý Ca La Sai, tiếng hót hay của chim Gia Ca thì vào Đàn làm Pháp, liền được thành tựu.
Nếu tụng biến Chú, thường nối tiếp quy mạng, mỗi mỗi tụng trì, hồi thí cho hữu tình sẽ được nhóm Tối Thượng Chứng Đại Phước Tụ
Nếu có hữu tình ngu dốt, ít Phước. Trong ba ngàn ngày, tụng trì Pháp này, chịu vô lượng gian khổ thì mới được thành tựu
Thế nên người tu Pháp này, tin tưởng tinh ròng, một lòng trong sạch giữ Giới Hạnh, tắm gội sạch sẽ, chẳng làm Pháp tạp, chỉ trì Pháp này để cầu Phật Quả, cứu giúp chúng sanh, tức được quả Phước, chứng Địa tối thượng. Thường được hàng Đại Phạm Thiên Vương, Thiên Đế Thích với các Đại Thiên, bậc Đại Oai Đức âm thầm ủng hộ trong mộng
Nếu có người trì Chú chẳng y theo Giáo này, Chú như dân ngu hèn kém trong Thế Gian, chẳng y theo Phương Thư (sách vở ghi chép phương thuật, y thuật) làm thuốc trường sanh, tự mình ăn uống để cầu sống lâu thì trở ngược bị chết yểu, diệt thân.
Lại như người thợ hợp luyện vàng bạc mà không hiểu Pháp độ của âm dương, treo tượng… Lại chẳng y theo Giáo Pháp, chẳng kín đáo làm Pháp thì cũng không có chỗ thành tựu, bị kẻ khác mưu hại.
Lại như người lấy Phục Tàng mà chẳng y theo phương pháp, tiết lộ Pháp ra bên ngoài, tức bị Quỷ Thần, Quốc vương, người ác… hãm hại mà chết.
Này Mật Tích Chủ! Pháp này cũng lại như vậy. Nếu có người hay y theo Giáo, phương pháp, phát Tâm Bồ Đề, đọc tụng, thọ trì, nghe thật kỹ rồi suy nghĩ, tu tậpṭức được Thắng Phước, hết thảy thành tựu. Tại sao vậy? Vì Pháp này dùng Văn Trí, Tín Trí, Tư Trí, Tu Trí, Chân Trí, Trì Trí…được chứng thành này. Thế nên Pháp này, Ta đã rộng lược nên vì hữu tình nói Pháp Giáo này.
KINH NHẤT TỰ ĐẢNH LUÂN VƯƠNG
HỘ PHÁP
_PHẨM THỨ MƯỜI MỘT_
Bấy giờ, Đức Thế Tôn lại quán Hội Chúng, rồi bảo Kim Cang Mật Tích Chủ Bồ Tát rằng: “ Ở đời này, có nhiều hữu tình: tinh tấn hèn kém, tu học hèn kém, ngã mạn, tà mạn, sân, si… đủ mọi trói buộc, tham lam, ganh ghét, lười biếng, tà mạng. Bên ngoài mặc áo quần oai nghi, bước đi chậm chạm, bày tướng hiền thiện nhưng bên trong không có cái thấy chân chánh (chân kiến), chẳng y theo Luật Tạng, Tâm không có xấu hổ, thường nói nịnh nọt nghiêng vẹo, ham đắm danh lợi, bị Ma nhiễu hoặc, chỉ nói Đoạn Kiến, trống rỗng (śūnya: Không), không có Pháp… Như hữu tình này, ý như vậy, nghiệp như vậy, ngày đêm như vậy. Tuy bỏ ra nhiều công, cực khổ thọ trì các Chú nhưng vĩnh viễn không có chứng nghiệm. Nay ta vì hữu tình có Ma Nghiệp này, phá nghiệp đen (Hắc Nghiệp), nói Nan Thắng Phấn Nộ Vương Chú của chư Phật xưa kia, để khiến cho lợi ích các hữu tình, được chứng tối thượng. Nếu có người hay tinh Tâm, mỗi ngày ba thời thọ nhận trì tụng, tức được phá diệt hết thảy chướng nạn, nghiệp nhà của Ma”.
Lúc đó, Kim Cang Mật Tích Chủ Bồ Tát vui mừng hớn hở, lễ hai bàn chân của Đức Phật, khom mình, đứng phía trước, dùng Kệ bạch với Đức Thế Tôn rằng:
“Cứu Thế Đại Giác Chủ
Nơi người Trí cung kính
Nay con nguyện vui nghe
Bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo Kim Cang Mật Tích Chủ Bồ Tát rằng: “Ông hãy khéo nghĩ nhớ! Nay Ta liền nói Đại
1_Na mô lạt đát-na đát-la gia dã
2_Na mạc tát phạ bột đà
3_Bồ địa tát đắc-phế mịch
4_Đát địa nễ tha
5_Nhĩ nê, nhĩ nê
6_Nhĩ na phạ lợi
7_Đả đà nga lợi sai nhạ đê
8_Tát phạ bột đà ninh sái nhĩ đế
9_A mộ kỳ, a bả la để khả đê
10_A bá la nhĩ đê
11_Nhĩ la nê
12_Nhĩ nga đả bà duệ
13_ Nhĩ ma lê
14_Nặc nễ-nại la tắc-la mễ
15_Bà phạ để duệ ca nhĩ lệ
16_Na dĩ đê
17_Nỗ la địa nga mê
18_Tát-để duệ
19_Ninh la củ lê
20_Ma la phạ la
21_ Nhĩ na xả ninh
22_Xá chỉ dã mỗ nê
23_Tắc đế nhạ sa
24_Phạ lệ nẵng mị lý duệ noa
25_Lạc khất sái, lạc khất sái, ma-hồng
26_Sai bả lý phạ lâm
27_Tát phạ nặc
28_Tát phạ ca lâm
29_La nhạ chú lô na cá
30_Cận-nhương xả ninh
31_Mật quật nễ tăng hà nha khất-la
32_Sai tắc lý bả
33_Nỉ phạ kiện thát phạ
34_Nại nga dược khất sái
35_La khất sái sai
36_Bỉ-điệt lý, Tỉ xá giả, bộ đa, bát tắc ma la
37_Bố đả na, ca nhứ bố đả na
38_Ca khu phất nộ tắc đả la ca
39_Mê đá la cật-lý tả, yết ma noa
40_Mạn đát-la diệu nga
41_Chú phất noa diệu nga
42_Noa khẩn nễ-diệu thiệu khả la
43_Tát phạ bà dã
44_Nột sắt trụ
45_Bát nại-la mộ bát tát vũ
46_Bà dã tế biều
47_Na mô tốt đổ, bà già miệt để-dã
48_Ô nại la tị thận-nê
49_Hứ lý hứ lý
50_Lạt tát-na củ la sai
51_Ma thất-lý đê
52_Nhĩ lý nhĩ lý
53_A ca xả đà đổ, vũ giả lệ
54_Xí lý, xí lý
55_Tát phạ đả đà nga đá lý dã
56_Thất la phạ ca, lăng ca la, bộ đê
57_Nê nhĩ tư gia lý dã
58_Một-la khả ma, đả đà nga đá
59_Nỗ nga đê nhĩ thấp-phạ chấn để-gia
60_Phạ la bà la cật-la mê
61_Na mộ bà già phạ đát, bà la nhĩ đê
62_Lạc khất sái, lạc khất sái, ma ma (xưng tên của mình)
63_Đà la ni kiện nhạ tả
64_Bát mại-la vũ
66_Bà gia tế mịch
67_Tốt-phạ ha
Này Mật Tích Chủ! Nan Thắng Phấn Nộ Vương Chú này hay phá hết thảy Ma Vương, chúng Ma. Hay tăng sức đại oai đức dõng mãnh, hay giữ Chú Lực Tam Ma Địa. Ông cần nên biết
1_Na mạc táp đá nam
2_Tam miểu tam bột đà nam
3_Tát thất la phạ ca tăng khả nam
4_Tát phạ mê la bà gia để đá nam
5_Nhĩ bả thủy nặc tắc đế nhạ sa
6_Lật-địa giả thủy xí nẵng tắc đát đà
7_Nhĩ thấp-phạ bộ bả-la thận-hoại gia nê phạ
8_Cật-la khuất tôn na
9_Phạ lệ nẵng giả
10_Ca na ca mỗ nê
11_Thủy khất-sái gia
12_Ca thủy dã bả tả
13_Ngộ thỉ la, bỉ xá chỉ dã tăng khả tả
14_ Mị lý duệ noa
15_Tốt phạ tất để, bà phạ đổ, ma ma (Xưng tên của mình)
16_Đà la ni, kiện nhạ tỉ-dã
17_Tát phạ tát đỏa-phạ nan giả
18_Tát phạ bà diệu, bát nại-la mễ mịch
19_Đát địa nễ tha
20_Nhạ duệ, nhĩ nhạ duệ
21_Nhạ diễn để, nhĩ nhạ diễn để
22_A nhĩ, nhĩ đán, nhạ duệ, nhạ diễn đê
23_A nhĩ đê, a bá la nhĩ đê
24_Ma la tế nhương
25_Bả-la mạt na ninh duệ
26_Tốt phạ ha
Khi Đức Như Lai nói Chú này thời ba ngàn Đại Thiên, Đại Địa, các cung điện của Ma… một thời đều chấn động lớn theo sáu cách
Lúc đó, Đức Như Lai bảo Kim Cang Mật Tích Chủ Bồ Tát rằng: “Chú này là đều mà Ta đã nói, xưng tán Công Đức mười lực, Thần Thông của bảy Đức Phật vì khiến cho lợi ích hữu tình ở các cõi (chư hữu) thọ trì thành tựu Nhất Tự Đảnh Luân Vương Chú với các Chú… khiến trong sạch như Pháp, viết chép, đeo đội trên cổ, cánh tay, đảnh đầu… liền mau thành chứng, Chú Thần thích hợp đi theo vây quanh hộ niệm
Nếu có đi đến chỗ trong sạch, chẳng trong sạch thì nên trước tiên tụng Nan Thắng Phấn Nộ Vương Tâm Chú này ba biến, tức thường chẳng bị hết thảy Thiên Ma, Sa Môn, Bà La Môn…làm cho não loạn
Nếu Dược Xoa, La Sát, Tỳ Na Dạ Ca, Tị Xá Già Quỷ, Cưu Bàn Trà Quỷ, các Thần Quỷ ác… nếu có khởi Tâm chẳng phục, trái ngược với Chú của Tâm này, liền chẳng được vào thành của Tỳ Sa Môn, tức đã trái nghịch với Kim Cang Chủng Tộc và Chủng Tộc của mình.
Thế nên Mật Tích Chủ! Phấn Nộ Vương Tâm Chú này có oai đức lớn, hay thành hộ vệ hết thảy sự nghiệp, chư Phật Bồ Tát thảy đều tùy vui.
KINH NHẤT TỰ ĐẢNH LUÂN VƯƠNG
CHỨNG HỌC PHÁP
_PHẨM THỨ MƯỜI HAI_
Bấy giờ, Đức Thế Tôn thấy biết hết thảy hữu tình trong Pháp Giới bị Vô Minh che lấp bền chắc, cấu chướng trói buộc, chia cắt chẳng tận, lại bảo Kim Cang Mật Tích Chủ Bồ Tát rằng: “Ta vì hết thảy Bí Sô, Bí Sô Ni, Tín Nam, Tín Nữ…… trì Nhất Tự Đảnh Luân Vương Ấn Chú chẳng thể nghĩ bàn này, ưa muốn thành tựu, nói nơi tu hành Môn Tam Muội Gia. Nên đều giữ gìn Giới thanh tịnh, phát Tâm Bồ Đề, thỉnh A Xà Lê, làm Đàn thọ nhận Pháp, quán đảnh truyền Pháp, trong sạch như Pháp tu hành đầy đủ căn lành, y theo Thiện Tri Thức nhớ tu sáu niệm, phương tiện khéo léo, quán biết Chân Như Thật Pháp, Pháp Giới như Tánh của hư không, vào Bát Nhã Ba La Mật Đa thâm sâu, không có hai, không có hai Hạnh, tâm chẳng phóng dật, miệng chẳng nói dối, thường chẳng hung bạo, sân não, ngã mạn cùng với chê bai diễu cợt… Nói hữu tình học theo cảnh giới Pháp Hạnh của chư Phật Bồ Tát ba đời, khéo hiểu phân biệt tùy vui tu tập, chẳng tiếc thân mạng, xa lìa nhân gian, trụ A Lan Nhã mỗi ngày ba thời, phát Tâm Bồ Đề quy Phật, Pháp, Tăng…như Pháp tự thề thọ nhận Bồ Tát Giới, nhớ giữ chẳng quên, như chỗ đã nghe mà tu tập, suy nghĩ nghĩa của Pháp, tu bốn Nhiếp Pháp… xoa bôi lau quét tháp Phật, xoa tô Đàn cúng dường, phát Tâm siêng năng tinh tấn, tâm miệng hợp một, trong ngoài thanh tịnh, trụ tướng không có trụ (vô trụ tướng).Thường khiêm hạ cúng kính Hòa Thượng, A Xà Lê, Đồng Học. Thương xót hữu tình, hiểu rõ nghĩa bí mật, Pháp Môn thâm sâu. Luôn ưa thích tinh tấn tế độ hữu tình, trụ ở Phật Đạo. Tương ứng như vậy liền được chứng thành Nhất Tự Đảnh Luân Vương Pháp. Ở đời đương lai, được thân màu vàng ròng, đủ tướng tốt đặc biệt không thể nghĩ bàn. Thuần dùng bảy báu, khuyên tai, vòng, xuyến, mão hoa, Anh Lạc… để trang sức. Thân tướng tỏa ánh sáng vượt hơn trăm ngàn mặt trời, che lấp mọi tướng đều chẳng hiện ra được.
Này Mật Tích Chủ! Như vậy chứng thành Nhất Tự Đảnh Luân Vương Pháp, mọi người thấy đều rất vui vẻ, như cây Như Ý viên mãn điều ưa thích.
Lại nữa Mật Tích Chủ! Nếu có Bồ Tát chứng Nhất Tự Đảnh Luân Vương Pháp này, Tâm ưa thích biến hóa các thức ăn ngon đẹp của cõi Trời, tuôn mưa bố thí cho hết thảy hữu tình ở Địa Ngục tức đều viên mãn, cũng thỏa mãn được ý vui thích của Thế Gian. Nếu có người phát Tâm vì các hữu tình, tu thành Nhất Tự Đảnh Luân Vương Pháp thì Bồ Tát mười Địa cũng chẳng thể gây chướng ngại.
Này Mật Tích Chủ! Nhất Tự Đảnh Luân Vương Pháp này của Ta là Chú hơn hết ở trong các Chú. Nếu người thành tựu thì thảy đều viên mãn vạn hạnh của Bồ Tát. Hết thảy mười nghiệp nặng, tất cả tội dơ bẩn, báo ứng ở Địa Ngục thảy đều trừ diệt. Được các Thần Thông, trong khoảng sát na liền dạo đến khắp cõi Trời A Ca Ni Tra (Sắc Cứu Cánh Thiên) hành Bồ Tát Hạnh, được hết thảy Phật, Bồ Tát, Độc Giác, Thanh Văn, chư Thiên vui nhìn khen ngợi.
Nếu muốn dạo đến vô lượng vô biên hết thảy Thế Giới, dẫn lối hóa độ chúng sinh, tùy theo ngôn âm của họ, nói các Pháp. Cũng đều dạo đến vô lượng vô biên mọi loại Thế Giới, tùy theo Thế Giới đó hiện mọi loại thân đều được đoan nghiêm tốt đẹp, tùy theo hình loại, ngôn từ hay đẹp ấy... thảy đều viên mãn
Lúc đó, Đức Như Lai lại nói Tụng là:
“Người thành tựu Đảnh Luân Vương Pháp
Tướng tốt hơn hẳn Na La Thiên
Các Chú Tiên, hàng Trời đại oai
Đánh nhau, bay đi như mây chuyển
Oai quang sáng rực chiếu Không Thiên
Nếu gặp Đảnh Luân Pháp Chú Nhân (người trì Chú Pháp Đảnh Luân)
Trong Tâm liền phục, tự cúi đầu”
_Này Mật Tích Chủ! Nay Ta lại vì hết thảy người trì Chú, lược nói nơi thành tựu của ba loại đất. Một là Thượng Địa, hai là Trung Địa, ba là Hạ Địa. Nơi sạch sẽ, chẳng sạch sẽ, ba đất như vậy đều lại có ba thứ, người Trí khéo biết.
Nói Thượng Địa. Ấy là trên Trời có ba Thắng Địa thành Thượng Tất Địa
Nói Trung Địa là bờ sông lớn, bờ biển, trong núi. Ba đất như vậy thành Trung Tất Địa.
Nói Hạ Địa là ở suối ao lớn có hoa sen, ở rừng có nhiều hoa quả, ở rừng Thi Đà. Ba đất như vậy thành Hạ Tất Địa.
Hết thảy Chú Pháp cũng nói như vậy. Nếu xứ có quốc vương ác, nơi có nhiều nạn giặc cướp, nơi có đồng bạn tạp ác, nơi đói khát… đều chẳng thể ở chung, tu trì làm Pháp
Nơi Pháp tu trị lại có ba thời chẳng thể tu tập, nên khéo phân biệt để biết. Một là lúc cực nóng, hai là lúc mưa lũ, ba là lúc cực lạnh… chẳng ở Thời này tu trị Đại Pháp
Ngày tu trị Pháp lại có ba thời, nên khéo phân biệt để biết. Một là từ canh năm đến khi trời sáng, hai là từ giờ Ngọ đến giờ Mùi của ngày, ba là từ giờ Dậu đến giờ Hợi của đêm. Trong Thời như vậy, tụng niệm làm Pháp đều được viên mãn.
KINH NHẤT TỰ ĐẢNH LUÂN VƯƠNG
HỘ MA ĐÀN
_PHẨM THỨ MƯỜI BA_
Bấy giờ, Đức Thế Tôn lại bảo Kim Cang Mật Tích Chủ Bồ Tát rằng: “Có ba Mật Pháp nên khéo phân biệt để biết. Nếu chẳng hiểu biết Pháp đã niệm tụng tức chẳng thành chứng. Ấy là Pháp Hỏa Đàn, Pháp lò, Pháp thiêu đối Thời Thực. Nói ba Pháp này đều riêng có ba Pháp chẳng đồng nhất, nếu đồng nhất tức sanh tai họa. Khi dùng lò thiêu đốt để làm Pháp A Tỳ Chá Lỗ Ca (Abhicāruka: Hàng Phục) thì chẳng làm Pháp Bổ Sắt Chi Ca (Puṣṭika: Tăng Ích), Pháp Phiến Để Ca (Śāntika: Tức Tai). Tại sao thế? Vì như thuốc độc chẳng được chứ đầy sữa ngon ngọt, nếu chứa đầy trong sữa thì sữa cũng tùy theo chất độc. Thế nên nói là ba.
_Phiến Để Ca (Śāntika): Hỏa Đàn vuông vức khoảng bốn khuỷu tay, hoặc ba khuỷu tay. Như Pháp dùng bùn xoa lau, ở chính giữa Đàn đào lò hầm tròn trịa, sâu 16 ngón tay, rộng 32 ngón tay. Ngay dưới đáy lò lại làm cái đài bằng đất cao khoảng bốn ngón tay, lại có thể ở mặt Đàn dùng bùn nặn đắp bánh xe có góc, đùm, 12 cây căm, cao khoảng một ngón tay. Dùng bùn đất màu vàng trắng như Pháp làm lò. Ở cửa Đông của Đàn vẽ bánh xe vàng 12 căm, cửa Nam vẽ cây Tam Kích Xoa, cửa Tây vẽ Long Sách Ấn (sợi dây Rồng), cửa Bắc vẽ Kim Cang Chử Ấn (chày Kim Cang), bốn góc đều vẽ hai chày Kim Cang giao chéo nhau thành hình chữ Thập.
Bắt đầu từ ngày mồng một của kỳ Bạch Nguyệt, tắm gội sạch sẽ, mặc áo trắng sạch, chỉ ăn cơm, sữa, cháo sữa, cháo lạc, dứt hẳn ngôn luận, Tâm trong sạch yên lặng, trong Đàn tụng niệm đến khi mặt trời lặn, ở mặt Nam của lò của Đàn trải cái chiếu cỏ tranh, ngồi hướng mặt về phương Bắc. Dùng cây có chất ngọt (mật mộc), cây bách, cây dâu, cây Cấu (cấu mộc)… các cây như vậy, tùy lấy một cây cũng được thông, dài một gang tay, chặt bằng hai đầu, dùng bơ, mật trộn lại bôi vào hai đầu, mỗi mỗi Chú vào rồi xếp chồng chất vuông vức trong lò, như Pháp nhúm lửa.
Lại dùng Thanh Khoa (lúa mì), Đại Mạch, Tiểu Mạch, gạo tẻ, mè đen đều phân bằng nhau, hòa với bơ, sữa, lạc. Ngày ngày ba thời, một lần Chú một lần thiêu đốt, mãn nửa tháng, hoặc mãn một tháng, liền được trừ diệt hết thảy tội chướng, hết thảy tai ách, Phước Mạng tăng tuổi thọ, hết thảy an ổn. Hết thảy tinh tú ác, biến quái, tướng chẳng tốt lành trong Thế Gian cũng đều diệt tan.
Ban đêm, khi mặt trời lặn là lúc chúng Tịnh Cư Thiên đi xuống dạo chơi ở cõi này tập hội, ưa thích thành tựu Pháp an ổn của Thế Gian. Như vậy làm Pháp, mỗi khi muốn kịp, thời dùng bùn lỏng của đất trắng sạch xoa lau khắp lò
_Pháp Bố Sắt Trí Ca (Puṣṭika). Dựa theo Pháp Phiến Để Ca lúc trước, làm Đàn, vẽ Ấn. Chỉ sửa lò, hầm vuông tròn hai khuỷu tay, sâu cũng hai hai khuỷu tay. Đài đất trong hầm tròn rộng một khuỷu tay, cao hai ngón tay. Trên mặt Đàn dùng bùn nặn đắp hoa sen tám cánh với đài, hoa, lá này đều khiến rõ ràng. Dùng bùn đất màu vàng đỏ như Pháp xoa lau.
Bắt đầu từ ngày mồng một của kỳ Bạch Nguyệt, giữ thân trong sạch, mặc áo trắng sạch, ăn ba loại thức ăn màu trắng, dứt các đàm luận, trong Đàn niệm tụng đến khi mặt trời mọc, trụ ở phía Tây của lò Đàn, hướng mặt về phương Đông ngồi yên trên cái chiếu cỏ tranh, phát Tâm vui vẻ.
Dùng cây có chất ngọt (mật mộc), cây Cấu (cấu mộc), cây dâu, cây bách…dài một gang tay, chặt bằng hai đầu; dùng bơ, mật, sữa, lạc hòa chung với nhau rồi bôi vào hai đầu, mỗi mỗi trì Chú vào rồi xếp chồng chất vuông vức trong lò, như Pháp nhúm lửa.
Nấu cơm gạo tẻ với mè đen… hai nhóm bằng nhau. Đem hòa chung với bơ, mật, lạc, sữa… một lần Chú một lần thiêu đốt, 1008 biến, mãn bảy ngày hoặc mãn nửa tháng hoặc mãn một tháng. Như vậy làm Pháp, liền được thành tựu cát tường giàu có. Khi mặt trời mọc thì chư Thiên cát tường đi xuống dạo chơi ở cõi này, khi vui vẻ tập họp thời ưa thích thành tựu Pháp cầu giàu có của Thế Gian. Như vậy làm Pháp, mỗi khi muốn kịp thời dùng bùn đất màu vàng đỏ xoa lau lò sạch sẽ
Lại dùng cây Ma La, hoặc cây Phong Hương, hoặc cây bách. Ngày ngày ba thời chẻ ra nhúm lửa. Chặt cỏ Cốt Lộ hòa với Uất Kim Hương và bơ, mật… thiêu đốt Hỏa Thực làm Bổ Sắt Chi Ca (Puṣṭika: Tăng Ích), cầu giàu có lớn với mọi Pháp thiện. Lại dùng cây A La Xa, chặt bằng nhau nhúm lửa; nên dùng mè đen, bơ, mật, hạt cải trắng (bạch giới tử) hòa chung với nhau, thiêu chú Hỏa Thực, cũng được thành tựu ba loại Pháp.
_Pháp A Tỳ Thác Lỗ Ca (Abhicāruka: Hàng Phục). Bắt đầu từ ngày 8 của kỳ Hắc Nguyệt, hoặc ngày 14, 15 của kỳ Hắc Nguyệt, mặc áo màu đỏ xanh, tô làm Hỏa Đàn hình tam giác khoảng ba khuỷu tay, đào sâu xuống đất một khuỷu tay, một góc chỉ về phía Đông, một góc chỉ về phía Tây, một góc chỉ về phía Nam.
Thần (cái môi ?cái miệng) trên Đàn ấy khiến rộng ba ngón tay, Thần cao hai ngón tay, ở đày hầm dùng bùn nặn đắp cái đầu của Tam Kích Xoa, cao ba ngón tay, đấu nhọn chỉ về phía Nam. Dùng bùn đất màu đen xoa lau vòng khắp. Đến giờ Ngọ trong ngày, lúc nửa đêm thời trụ ở mặt Bắc của Đàn, chân trái đạp trên chân phải, ngay thẳng thân ngồi xổm, chau mày trợn mắt, giận dữ tụng Chú.
Dùng cây táo chua, cây Khổ Đống dài một gang tay, chặt vuốt nhọn đầu, rồi xếp chồng chất thành hình tam giác ở trong lò của Đàn. Lại dùng hoa có mùi hôi, hạt cải đen (hắc giới tử), vỏ trấu, muối, A Tát La Kế Xả… hòa chung với Lỗ Địa La (Rudhira:máu) của thân mình, một lần Chú một lần thiêu đốt, 1008 biến, mỗi thời đều như vậy, mãn ba ngày hoặc mãn bảy ngày, tức thân của nhóm Thần Quỷ ác gây chướng ngại kia bị tai vạ bệnh tật , chi tiết đau buốt, hoặc thân bị tai nạn… nên ẩn mất chẳng thể gây chướng não.
Như vậy làm Pháp. Nếu vì thân của mình, tham cầu tài bảo, tức chẳng thành tựu, sẽ bị đọa vào Địa Ngục A Tỳ (Avīci).
Giờ Ngọ, lúc nửa đêm mới là giờ mà các Dược Xoa, La Sát ác du hành tụ tập, vui nguyện thành tựu hết thảy Pháp điều phục kẻ khác của Thế Gian. Như vậy làm Pháp, mỗi khi muốn kịp thời dùng bùn đất màu đen xoa lau khắp Đàn.
_Này Mật Tích Chủ! Tháng giêng, tháng hai, tháng tư, tháng tám, tháng chín, tháng mười hai (Lạp Nguyệt). Nhóm tháng này, vào ngày mồng một cho đến ngày 15 của kỳ Bạch Nguyệt thời ngày Sóc (ngày mồng một) là tốt, nên cầu Đại Pháp ắt quyết định thành tựu.
Tháng giêng, phần lớn có các nạn thời làm Pháp Trung Thượng. Nếu có sấm chớp tương ứng hiện tướng thì quyết định mau chứng thành tựu.
Tháng hai có nạn về gió. Làm Pháp an ổn, có tướng gió lớn
Tháng tư có nạn về mưa. Làm Pháp Hàng Phục, có tướng mưa lớn
Tháng tám, tháng chín không có nóng lạnh thời làm Pháp Phú Nhiêu (cầu giàu có), sẽ có tướng của nạn sấm chớp, sét đánh
Chỉ ở tháng mười hai (Lạp Nguyệt) làm Pháp cầu xin thì không có tướng của các nạn
Các nạn như vậy đều là tướng Thượng Thành
_Sáu kỳ Bạch Nguyệt này, từ ngày mồng một đến ngày 15, nên khiến tu pháp Phiến Để Ca (Tức Tai), pháp Bổ Sắt Trí Ca (Tăng Ích) thì hết thảy thành tựu việc Nguyện vô thượng.
Sáu kỳ Hắc Nguyệt này, từ ngày mồng một đến ngày 15, cũng làm pháp Bổ Sắt Trí Ca (Tăng Ích), Pháp A Tỳ Thác Lỗ Ca (Hàng Phục) thì hết thảy thành tựu việc Pháp nguyện cầu
Hai Pháp như vậy. Nếu lúc Quỷ Tú (Puṣya) trực nhật, hoặc lúc Nguyệt Thực thời như Pháp dựng lập tu tập sẽ được thành tối thượng. Chỉ có lúc Nhật Thực thời thông cả Thượng Trung Hạ, làm Pháp thành tựu
Làm Pháp như vậy đều dùng ngày mồng một, ngày mồng ba, hoặc ngày mồng năm, hoặc ngày mồng tám, hoặc ngày 13, hoặc ngày 15 của hai kỳ Bạch Nguyệt, Hắc Nguyệt… đều tu các vật, thành tựu việc Pháp (pháp sự)
Nếu làm Pháp thành tựu mãnh lợi thì trở lại y theo lúc Tú Diệu mãnh lợi mà làm. Hoặc dựa theo Pháp Tướng của ba việc mà làm. Pháp Phẩm của ba việc thành tựu ấy đều như Bổn Pháp chỉ truyền Thời Phần.
Tháng giêng, tháng hai là đầu mùa Xuân, là Thượng Vũ Sơ Tiết (Tiết đầu của mùa mưa). Nên ở lúc này làm pháp của hết thảy việc Thượng Trung
Tháng ba, tháng tư là lúc sau mùa Xuân đến mùa Hạ, là Thượng Vũ Trung Tiết (Tiết giữa của mùa mưa). Nên ở lúc này làm Pháp A Tỳ Thác Lỗ Ca (Hàng Phục).
Tháng năm, tháng sáu là lúc nóng bức giữa mùa Hạ, là Thượng Vũ Hạ Tiết (Tiết cuối của mùa mưa). Người cần thiết muốn thành thì tu Pháp Hạ Thành
Tháng bảy, tháng tám là lúc cuối mùa Hạ đến mùa Thu, là Hậu Vũ Trung Tiết (Tiết giữa sau mùa mưa). Nên ở lúc này làm Pháp Phiến Để Ca (Tức Tai)
Tháng chín, tháng mười là lúc cuối mùa Thu đến đầu mùa Đông, là Đông Thượng Tiết (Tiết đầu của mùa Đông). Nên ở lúc này làm Pháp Bổ Sắt Trí Ca (Tăng Ích).
Như vậy các Thời của Xuân, Hạ, Thu, Đông nên thích hợp thành tựu ba loại Tất Địa, đều phân biệt chín Phẩm Thượng Trung Hạ.
Ban đêm có ba thời: đầu đêm là Hạ Thời, tướng đầu đêm hiện là Hạ Thành Tựu. Giữa đêm là Trung Thời, tướng giữa đêm hiện là Trung Thành Tựu. Sau đêm là Thượng Thời, tướng sau đêm hiện là Thượng Thành Tựu. Ở đầu đêm thời làm Pháp Phiến Để Ca (Tức Tai), ở giữa đêm thời làm Pháp A Tỳ Thác Lỗ Ca (Hàng Phục), ở sau đêm thời làm Pháp Bổ Sắt Trí Ca (Tăng Ích)
Như ba thời này, phân biệt chín Phẩm để biết loại Pháp tương ứng với Thời Tiết ấy. Ba thời này chia ra việc Thượng Trung Hạ của Pháp Tướng đã nói. Chỉ có lúc Nhật Nguyệt Thực thời tu các việc Pháp chẳng xem xét Thời Tiết.
Nếu ưa thích Pháp của việc thành tựu mãnh lợi với Pháp của việc A Tỳ Thác Lỗ Ca (Hàng Phục). Vào lúc Nhật Nguyệt Thực, như Pháp làm sẽ được Thượng Tương Ứng.
Phàm Pháp bắt đầu ra công nguyện cầu thành tựu, đều khiến một ngày, hai ngày, ba ngày chẳng ăn chẳng nói. Thượng Trung Hạ ấy tu Pháp Tất Địa. Ở loại ngày trong 12 tháng nên biết ngày 1 đến ngày 15 của mỗi kỳ Bạch Nguyệt thì làm Phiến Để Ca, Bổ Sắt Trí Ca, Pháp của hết thảy việc thành tựu giải thoát. Từ ngày 1 đến ngày 15 trong mỗi kỳ Hắc Nguyệt làm Pháp A Tỳ Thác Lỗ Ca Hàng Điều Phục.
Nếu có tai nạn thì chẳng nên đợi Thời, tùy theo việc làm Pháp cũng được trừ khỏi.
_Này Mật Tích Chủ! Thượng Trung Hạ này: lúc nên làm Pháp, lúc chẳng nên làm Pháp. Người trì Chú khéo biết liền được thành, hiện Tất Địa của ba loại Pháp.
Thế nên Mật Tích Chủ! Nếu người đang trì Chú, thành tựu Pháp bí mật của Nhất Tự Đảnh Luân Vương thì nên thường dùng cây Phong Hương, cây có chất ngọt (Mật Hương), cây Bách, cây Đàn chặt ngang bằng rồi nhúm lửa. Lấy mè hòa với nhóm bơ, sữa…ngày ngày ba thời đốt cúng dường, tức được Chú Thần vui vẻ ủng hộ, ban cho ba loại Tất Địa.
Này Mật Tích Chủ! Như vậy, người được chứng ba loại Tất Địa. Dùng thân, khẩu, ý, như Pháp Giới Tánh, Tánh chẳng biến đổi, như như bất động, tu tập Luật Pháp, Tụng Pháp, Hỏa Pháp… tức được chứng ba loại Tất Địa: một là Tất Địa trên Trời, hai là Tất Địa trong hư không, ba là Tất Địa trên mặt đất. Chứng ba Địa này tùy theo Thượng Trung Hạ… Pháp đã tu trì được Pháp Nguyện Tài
Này Mật Tích Chủ! Nếu muốn thành tựu hết thảy Chú Pháp, nên khởi Chánh Kiến Từ Bi hết thảy, cúng dường chư Phật, không ở nơi Thế Pháp cầu Đạo vô thượng, thiên về công ấn Tháp tức mau thành tựu, chứng ba loại Tất Địa, đời này đời tăng thêm phước thiện đầy đủ, nơi sanh ra thường nhận được Phước Lạc
Lại nữa Mật Tích Chủ! Chú Vương Chú này là vô lượng vô số tên gọi giống nhau, tên gọi khác nhau ở thời quá khứ. Hết thảy Như Lai lúc còn là Phàm Phu đồng được chứng Nhất Tự Đảnh Luân Vương Chú Vô Thượng Bồ Đề Tam Ma Địa Pháp này, thành Đẳng Chánh Giác (Samyaksaṃbuddha). Ta cũng chứng thành Nhất Tự Đảnh Luân Vương Chú Vô Thượng Bồ Đề Tam Ma Địa Pháp này, thành Đẳng Chánh Giác (Samyaksaṃbuddha)”
_Bấy giờ, Đức Thế Tôn lại dùng Phật Nhãn quán sát vô lượng vô biên hết thảy cõi Phật, ân cần ba lần bảo Kim Cang Mật Tích Chủ Bồ Tát rằng: “Chú Bộ khác của Ta đã nói Luật Pháp, Thành Pháp, Tác Pháp, Cố Pháp, Quả Pháp, Đàn Pháp, Hỏa Pháp… ở trong Pháp này tùy ý lấy dùng. Pháp Kim Cang Bộ thành tựu của Quân Trà Lợi này với Pháp của Phật Bộ, Pháp của Quán Thế Âm Bộ, Pháp của Kim Cang Tạng Bồ Tát Bộ… nói Pháp Ấn Chú đều tùy ý lấy dùng. Do sức của Chú ấy mà Tỳ Na Dạ Ca chẳng thể gây chướng não. Hết thảy Ấn Pháp, Bật Địa (Siddhi: thành tựu), Đả Ma (đánh Ma) của Kim Cang Chủng Tộc thì cũng ở Bộ này mà tùy ý lấy dùng.
Này Mật Tích Chủ! Chính vì thế cho nên người trì Chú chẳng nên ăn hành, tỏi, hẹ, dầu, la bặc (củ cải), Địa Phì. Các món ăn hôi, thức ăn dơ uế, thức ăn để qua đêm… thì cũng không được ăn, nếu ăn tức chẳng chứng thành Tất Địa Nghiệm Pháp
Nhóm Pháp như vậy, lược nói chút ít. Nếu Ta trụ một Kiếp rộng diễn giải nói thì ở trong chút phần cũng chẳng thể cùng tận. Tại sao thế? Vì nơi của Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ Đề mà Ta vốn đã chứng được, cũng là nơi mà hết thảy Như Lai quá khứ đã chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ Đề
Thế nên Mật Tích Chủ! Giả sử chư Như Lai, hàng Bồ Tát Ma Ha Tát trụ trăm ngàn ức kiếp, dùng mọi loại phương tiện nói chút ít phần của Nhất Tự Đảnh Luân Vương Tam Ma Địa Chú Pháp này thì cũng chẳng hết được
Nếu đang có người được Nhất Tự Đảnh Luân Vương Pháp Vương này, như Pháp tu hành, thọ trì, đọc tụng, cung kính, cúng dường thì từ đời này cho đến Bồ Đề, rốt ráo chẳng bị lùi chuyển. Nên biết người này đã sớm ở đời quá khứ gom chứa tư lương, căn lành Bồ Đề. Do Nhân Duyên này, thế nên nay được viên mãn đầy đủ Nhất Tự Đảnh Luân Vương Pháp Vương này
Thời Kim Cang Mật Tích Chủ Bồ Tát, các Đại Bồ Tát, chúng Đại Bí Sô, chư Thiên, Chú Tiên, Rồng, Thần, Dược Xoa, La Sát, Càn Thát Bà, A Tố Lạc, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hô La Già với hết thảy Người, hàng Phi Nhân ở Thế Gian… một thời nghe Đức Phật nói Kinh này xong, đều rất vui vẻ, tin nhận phụng hành.
KINH NHẤT TỰ ĐẢNH LUÂN VƯƠNG
_QUYỂN THỨ NĂM (Hết)_
Hiệu chỉnh một Bộ gồm 5 quyển xong vào ngày 11/10/2013