Mật Tạng Bộ 2 _ No.950 (Tr.220 _ Tr.224)
BỒ ĐỀ TRÀNG SỞ THUYẾT
NHẤT TỰ ĐẢNH LUÂN VƯƠNG KINH
_QUYỂN THỨ NĂM_
VÔ NĂNG THẮNG GIA TRÌ
_PHẨM THỨ MƯỜI MỘT_
Bấy giờ, Đức Thế Tôn quámn sát Kim Cang Thủ Bí Mật Chủ, lại dùng Già Tha (Gāthā: Kệ Tụng) bảo rằng:
“Nên ở đời vị lai
Hữu tình kém tinh tấn
Ngã Mạn, giận dữ, si
Không hổ thẹn, keo tiếc
Chẳng thể y Nghi Quỹ
Tu tập Chân Ngôn Hạnh
Người trì tụng như vậy
Nơi Hộ Ma gia trì
Các Ma đều quấy loạn
Không có suy nghĩ này
Dùng Minh được thành tựu
Hư hão nhận công lao
Thường tác suy tư đấy
Người ngu thường nói vậy
_Vì ngưng dứt chướng ấy
Diệt trừ các Ma La (Mārā: loài Ma)
Nay nói Đại Minh này
Phật trước kia đã nói
Lợi ích các hữu tình
Vô Năng Thắng Minh này
Nếu người thường nhớ niệm
Tùy thời trụ Đẳng Dẫn (Samāhita)
Các Ma gây chướng kia
Thảy đều được trừ diệt”
_ “Khi ấy, Kim Cang Thủ
Bí Mật ĐượcXoa Chủ
Sanh Tâm rất vui vẻ
Đảnh lễ Đức Thế Tôn
Đại Giác Trí trang nghiêm
Đại Vô Năng Thắng này
Là Minh (Vidya) con nguyện nghe”
Lúc đó, Đức Thế Tôn nói Đại Vô Năng Thắng Đà La Ni là:
“Nẵng mô ra đát-nẵng đát-ra dạ dã. Nẵng mô tát phạ một đà mạo địa tát đát-phệ tì-dược. Đát nễ-dã tha: Nhĩ ninh nhĩ ninh, nhĩ nẵng, phạ lê đát dã nẵng, phạ lê đát dã, nghiệt đa sa hạ nhạ đê, tát phạ một đà ninh sái vĩ đế, a mục kì, a bát-ra để hạ đê, a ba la nhĩ đế, vĩ ra nhi, vĩ nga đa bà duệ, vĩ ma lê, nễ nại-ra sa-ra phệ, bà phạ để-duệ ca di lê na dĩ đế nô ra địa nga mê, tát đinh-dã ninh ra, câu lê, ma la phạ la, vĩ na thiết ninh, xá chỉ-dã mẫu ninh, tất-đế nhạ sa phạ lệ nẵng, vĩ lý duệ nõa, lạc khất-sái lạc khất sái, ma ma, tát bả lý phạ lãm, tát phạ đa tát phạ ca lãm, ra nhạ, chủ lỗ, na ca ngu lý-dã, thiết ninh vĩ quật, tăng hạ nhĩ-dã, ngật-ra sa, lý tát-lý bả, nỉ phược, ngạn đạt phạ, nẵng nga, dược khất-sái, ra sát sa, nhĩ để-lý, bỉ xá tả, bộ đa, a bát sa-ma ra, bố đan nẵng, yết tra bố đan nẵng, ca khu lật-na, ổ sa-đa ra ca mê, đát ra cật-lý đinh-dã, yết ma nõa, mãn đát-ra, dữu nga tổ lật-nõa, dữu nga, nõa chỉ nễ-dữu, ô tổ hạ ra, tát phạ bà dã, nột sắt-trụ, bát nại-ra mạo bát tát ngu ba dã tế biều. Nẵng mô tốt-đổ đế, bà nga phạ để, ô nại ra tỳ nhĩ nõa, nễ lý nễ lý, ra đát-na câu la, sa ma, thất-lý đế, nhĩ lý nhĩ lý, a ca xả đà đổ, ngu tả lệ, xí lý xí lý, tát phạ đát tha nghiệt đa, lý-dã thất-ra ca lăng, ca ra, bộ đế nê vĩ niệp vĩ-dã lý-dã, một-ra hám-ma, đát tha nghiệt đa, nỗ nghiệt đế, vĩ thấp-phạ tấn để-dã, phạ ra, ba ra ba ra, cật-ra mê, nẵng mô bà nga phạ để, ba ra nhĩ đế, lạc khất-sái, lạc khất-sái, ma ma, tát phạ nột sắt-trụ, bát nại-ra phệ ba dã tế tì-dược, sa-phạ ha”
*)NAMO RATNA-TRAYĀYA
NAMAḤ SARVA BUDDHA BODHI-SATVEBHYAḤ
TADYATHĀ: JINI JINI JINA-VARE , TĀYANA VARE, TATHĀGATA SĀHA-JĀTI, SARVA BUDDHA NISEVITE AMOGHA APRATIHATE APARĀJITE, VIRĀJE VIGHĀTA BHAYE VIMALE NIDRĀSVARE BHĀVATYEKA VĪRE DAYI, TENU SADHI GAME SATYA NIRĀKULE, MĀRA-BALA VINĀŚANI, ŚĀKYAMUṆI TEJA BALENA VĪRYENA RAKṢA RAKṢA MAMA SAPARIVĀRAṂ_ SARVATRA SARVA KĀLAṂ, RAJAN, CORA, AGNI, UDAKA, AŚANI, VIDYU, SIṂHA, VYĀGHRA, SARĪ-SARPA, DEVA, NĀGA, YAKṢA, GANDHARVA, ASURA, RĀKṢASA, PRETA, PIŚĀCA, BHŪTA, APASMARE, PŪTANA, KAṬAPŪTANA, KĀKHORDA, OSTĀRAKA, VETĀLA, KṚTYA, KĀRMAṆA MANTRA-YOGA, CŪRNA-YOGA, ḌĀKA ḌĀKIṆYO HĀRA
SARVA BHAYA DUṢṬA UPADRAVOPA-SARGO PĀYĀSEBHYAH NAMO STUTE
BHAGAVATYA UDARA BHIÑJA, HIRI HIRI, RATNA-KULA SAMĀŚRITE, MILI MILI, ĀKĀŚA-DHĀTU GOCARE, KHELI KHELI
SARVA TATHĀGATA ĀRYA-ŚRĀVAKA, ALAṂKĀRA BHŪTA, DEVI DEVYA, ĀRYA-BRAHMA, TATHĀGATA ANUGATE, VIŚVA ACINTYA BALA PARĀKRAME
NAMO BHAGAVATYA APARĀJITA RAKṢA RAKṢA MAMA SARVA DUṢṬA UPADRAVOPĀYĀSEBHYAḤ SVĀHĀ
“Nói Đà La Ni này
Thế Gian thảy đều nghe
Đại Vô Năng Thắng đấy
Hay hoại tất cả Ma
Hay tăng sức cần dũng
_Liền trụ hình Tam Muội
Tên là Vô Năng Thắng
Nói Đại Tâm Minh ấy
Đại Lực rất dũng mãnh
Chẳng khác gì Minh trước
Thế Tôn nói Tâm đó”
Chân Ngôn là:
“Nẵng mô táp đá nam, tam miệu tam một đà câu trí nam. Tát thất-ra phạ ca tăng già nam. Tát phạ mê ra bà dã để đá nam, vĩ ba thi nẵng tát-đế nhạ sa lật đình-dạ tả, thủy xí nẵng tát-đát dã, vĩ thấp-phạ bộ, bát-ra chỉ-nương dã chế tông, cật-dịch câu tôn na, phạ lệ nẵng tả, yết nặc ca mâu ni, thủy khất-sái dã, ca xả bả tả ngu nõa ra bỉ, xá chỉ-dã tăng hạ tả nhĩ lý-duệ nõa, tắc-phạ sa để, bà phạ đổ, ma ma, tát phạ tát đát-phạ nan giả, tát phạ bà dữu bát nại-ra phệ tì-dược, đát nễ-dã tha: nhạ duệ, vĩ nhạ duệ, nhạ diễn để, vĩ nhạ diễn để, a nhĩ đan nhạ duệ, nhạ diễn để, a nhĩ đế, a ba ra nhĩ đế, ma ra, chỉ-nương, bát ra mạt na ninh duệ, sa-phạ ha”
*)NAMAḤ SAPTĀNĀM-SAMYAKSAṂBUDDHA-KOṬĪNĀṂ SAŚRĀVAKA SAṂGHĀNĀṂ
SARVA MELA-BHAYĀRDITĀṂ, VIPAŚYANA-TEJASA-ṚDDHIYA CA ŚIKHINA-SATYA, VIŚVABHU-PRAJÑA-YATHĀVAT, KRAKUCCHANDA BALENA CA, KANAKAMUṆI ŚĪKṢĀYA, KĀŚYAPAṢYA-GUṆA-RĀBHI, ŚĀKYA-SIṂHAṢYA VĪRYENA, SVASTIR-BHAVATU MAMA SARVA SATVĀNĀṂCA_ SARVATRA SARVA BHAYA UPADRAVEBHYAḤ
TADYATHĀ: JAYE VIJAYE JAYĀNTI VIJAYĀNTI AJITAṂ JAYE JAYĀNTI, AJITE APARĀJITE, MĀRĀ-SAINYA PRAMARDANĪYE SVĀHĀ
“Nói Tâm Chân Ngôn này
Ứng Chánh Đẳng Giác nói
Thế Tôn của bảy Phật
Hiển dương các Công Đức
Liền nói Đại Minh đó
Lợi ích người tu hành
Tràn khắp các Thế Giới
Chấn động theo sáu cách
Tất cả cung điện Ma
Thảy đều chấn động lớn”
Kim Cang Thủ! Câu Chân Ngôn này là điều mà tất cả chư Phật đã nói, vì lợi ích cho chúng sinh
Bí Mật Chủ! Hoặc người trì tụng Luân Vương Chân Ngôn, hoặc người trì Chân Ngôn khác, dùng Chân Ngôn này gia trì kết sợi dây, hoặc kết góc áo Cà Sa, hoặc trên ở búi tóc trên đảnh, hoặc viết trên vỏ cây hoa, đeo ở cổ, cánh tay… thì người ấy mau chóng dễ được thành tựu, Bản Tôn hiện trước mặt người ấy. Khi niệm tụng thởi hay nhớ trì.
Này Kim Cang Thủ! Ta chẳng thấy trong Chúng của cõi Trời, cõi Ma, Sa Môn, Bà La Môn… Nếu Chân Ngôn này gia hộ trước mặt người hoặc uế, hoặc tịnh. Hoặc Người, hoặc Phi Nhân, hoặc con của Ma, hoặc Tất Xá Già, hoặc Tỳ Na Dã ca, hoặc Dược Xoa, hoặc Cưu Bàn Trà, hoặc La Sát Sa. Hoặc loại hữu tình khác muốn đến gây chướng nạn thời tác suy nghĩ này: “Ở cung vua A Tra Ca Phạ Để chẳng được vào. Nếu có trái vượt người thanh tịnh tu hành Minh này thì kẻ kia thảy đều trái ngược với Kim Cang Chủng Tộc với Chủng Tộc của mình kèm theo Thân Tộc bạn bè chẳng cho kẻ kia ở trong chốn ấy”
Kim Cang Thủ! Minh Chân Ngôn này có oai lực lớn, ở tất cả sự nghiệp nên làm gia hộ, Ứng Chúng Chánh Biến Tri ấn khả, tất cả các Bồ Tát ấn khả.
Bồ Đề Tràng Sở Thuyết Nhất Tự Đảnh Luân Vương Kinh
CHỨNG HỌC PHÁP
_PHẨM THỨ MƯỜI HAI_
Bấy giờ, Đức Thế Tôn biết Pháp Giới vô tận xong, trừ khiển tất cả các chướng, lại bảo Kim Cang Thủ Bồ Tát rằng: “Này Kim Cang Thủ! Nếu Thiện Nam Tử, Thiện Nữ Nhân, Bật Sô, Bật Sô Ni nếu muốn tu tập Phật Đảnh Bất Tư Nghị Ấn Tam Ma Địa thì vị Bật Sô ấy trụ Luật Nghi (Saṃvaraḥ) của Bật Sô ân cần tu tập, Bật Sô Ni trụ Luật nghi của Bật Sô, Ưu Bà Tắc trụ luật nghi của Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di trụ Lật Nghi của Ưu Bà Di.
Như vậy, Thiện Nam Tử ấy, người tu Chân Ngôn trước tiên nên vào Mạn Trà La, thọ nhận ba Quy Y, phát Tâm Bồ Đề (Bodhi-citta), ứng thành tựu mười Thiện Nghiệp Đạo như Thuyết tu Chân Ngôn Hạnh (Mantra-caryā), tác ý cực thiện, gần gũi thừa sự bạn lành, thường tu sáu Niệm, nên quán Pháp Giới (Dharma-dhātu) như Tự Tánh của hư không, nên khéo tu tập nhập vào cảnh giới của Bát Nhã Ba La Mật (Prajñā-pāramitā). Ở Quán Hạnh này chẳng lừa dối, chẳng phóng dật, khéo nên tùy theo mỗi một Hạnh của Phật Bồ Tát ba đời, trụ ở A Lan Nhã (Araṇya), chẳng luyến tiếc tất cả thân mạng, ba thời khéo nên thọ nhận ba Quy Y, Tâm Bồ Đề, Luật Nghi Giới, Phật Pháp thâm sâu đã nghe được thì nhớ nghĩ tu hành, khéo tu bốn Nhiếp. Ở trước Tốt Đổ Ba (Stūpa: cái tháp) của Như Lai thường xoa tô Mạn Trà La (Maṇḍala), thường tinh tấn nơi Chân Ngôn Nghi Quỹ, làm Tốt Đổ Ba, thân khẩu chuyên tinh tu hành, chẳng giận dữ, chẳng nóng nảy, chẳng xao động. Miệng chẳng nói nhiều, chẳng nói tạp loạn, lừa dối người khác. Đối với các hữu tình thường hành Tâm cung kính, yêu thích. Khéo biết Mật Ý mà Đức Như Lai đã nói. Ta lược nói, người tu hành thường ôm giữ Ý đại tinh tấn dũng mãnh, an lập tất cả hữu tình ở con đường của Phật Bồ Tát.
Nếu người tu Phật Đảnh Vương Chân Ngôn Hạnh, hoặc người tu Chân Ngôn Hạnh khác thì nên như Công Đức đã nói, khéo nên tu hành thành tựu, như Chân Ngôn Hạnh mà Kinh Điển Phương Quảng (Vaipulya) đã nói thì cần phải tu tập, đều trụ luật Nghi của mình, khéo nên hộ trì”
_Lại bảo Kim Cang Thủ: “Người như Thuyết tu Phật Đảnh Chân Ngôn Hạnh đã được thân thành tựu như mặt trời mới mọc. Vàng ròng, chuỗi Anh Lạc, xuyến đeo tay làm màu vàng Diêm Phù Đàn (Jambūnada-suvarṇa), tất cả vật dụng trang nghiêm thân ấy, mặc áo Trời, đủ các tướng tốt, Vòng quanh thân tướng đặc biệt lạ kỳ có trăm ngàn ánh sáng trang nghiêm, hào quang tròn trịa khoảng một Tầm (8/3 m) vượt qua mặt trời, che lấp tất cả sắc thân
Lại nữa Kim Cang Thủ! Vừa mới nhìn thấy Thành Tựu Trì Minh Tiên thì tất cả chúng sanh đều vui thích, giống như cây Như Ý khiến mãn tất cả chỗ mong cầu
Lại nữa Kim Cang Thủ! Bồ Tát thành tựu Luân Vương Phật Đảnh đến chốn Địa Ngục tuôn mưa mọi loại thức ăn uống màu nhiệm của cõi Trời, cũng hay thỏa mãn điều mà tất cả chúng sanh cần thiết, người có hy vọng đều được đầy đủ. Ta lược nói vị ấy có oai đức lớn
Này Kim Cang Thủ! Người thành tựu Luân Vương Phật Đảnh đều thỏa mãn ý ưa thích của tất cả hữu tình. Do Tâm khởi niệm liền khiến cho đầy đủ. Người được Luân Vương Thành Tựu ấy thì Bồ Tát trụ Thập Địa chẳng dám trái vượt Giáo Lệnh (Ādeśana) của người ấy
Kim Cang Thủ! Nhất Tự Luân Vương Chân Ngôn này là vua trong tất cả Chân Ngôn, chủ của Đại Minh Vương. Nếu tu hành ắt trừ diệt tất cả nghiệp chướng, cũng diệt trừ Nghiệp của tất cả nẻo ác. Được thành Chân Ngôn này thì tất cả Thần Thông đảy đều hiện trước mặt, trong khoảng nháy mắt đi đến cõi Trời Sắc Cứu Cánh (Akaniṣṭha). Tất cả Phật, Bồ Tát, Duyên Giác, Thanh Văn vui vẻ khen ngợi, được tất cả Bồ Tát Hạnh (Bodhi-satva-caryā), du hành tự tại nơi Thế Giới khác. Đối với tất cả hữu tình, tùy theo ý thú của họ dùng mọi loại âm thanh vì họ nói Pháp. Cho đến Ta lược nói: đối với hành sắc hiếm có tối thắng rộng lớn của Hữu Tình trong vô lượng vô biên Thế Giới đều được thành tựu”
Khi ấy, Đức Như Lai nói Già Tha (Kệ Tụng) là:
“Mọi loại chiến đấu:rỗng (Śūnya:Không) tự tại
Như tính Tài Bảo mà chiếu sáng
Như hoa sen canh nở trong ao
Sắc oai quang kiêu dũng thù thắng
Người ấy vượt hơn Minh (Vidya) Thế Gian
Tỳ Nữu Chân Ngôn chẳng theo kịp”
_Bấy giờ, Đức Thế Tôn lại bảo Kim Cang Thủ Bí Mật Chủ, lại nói Già Tha rằng:
“Lược nói Pháp phổ thông
Người ở đất bí mật
Minh Giả (người trì Minh) sau Tiên Hạnh
Chỉ bày tướng tối thắng
Địa phương nói ba loại
Thấp, ướt với khô ráo
Đều dùng ở Cao Nguyên
Nơi Minh Thiên cư ngụ
Gọi là Vi Thắng Địa
Phương giữa nói ba loại
Cầu đất của thành tựu
Đều thông ở ba loại
_Người Trí nên quán sát
Hai thứ Tịnh, Bất Tịnh
Thiên Diệu lại ba loại
Trong mỗi một loại này
Đều chia làm ba loại
Vua sông, ao, biển, núi
Xưng thành tựu tối thắng
Đủ Đức Tịnh, Bất Tịnh
Là nơi Trung Thành Tựu
_Nếu là đất Thi Lâm
Đấy là nơi Bất Tịnh
Nay dạy tất cả nơi (xứ)
Ba loại nơi (xứ) thành tựu
Vua ác, giặc, đói kém
Chốn ấy, chẳng nên ở
Hành Giả có chướng nạn
Đất ấy chẳng nên trụ
Nơi cực lạnh, nóng, mưa
Giáo này đều ngăn cấm
Ba thời nên niệm tụng
Nuôi lớn ý ưa thích
Nên nhiếp ba loại Thời”
Bồ Đề Tràng Sở Thuyết Nhất Tự Đảnh Luân Vương Kinh
HỘ MA
_PHẨM THỨ MƯỜI BA_
_Lại bảo Kim Cang Thủ
Xa lìa nơi bí mật
Chẳng thể được thành tựu
Ở trong Kinh Giáo này
Thành tựu, nên nói kín (Mật)
Lò Hộ Ma sai khác
Nên bí mật mà làm
Ba loại nhóm Tức Tai
Một chỗ (xứ) chẳng nên làm
Nếu một chỗ Hộ Ma
Lò Hộ Ma ắt sai
Nếu ở lò Điều Phục
Chẳng nên làm Tức Tai
Như trong khí có độc
Chứa sữa ắt sẽ hư
Xem kỹ ba loại việc
Nên nói ba loại lò
Giáo khác cũng nói ba
Lò làm phân biệt đó
Theo đây nên sử dụng
Nên chẳng trái ngược nhau
Rõ (biết rõ) mầm cỏ Khuất Lũ
Hứa dùng nơi Ngưu Tô
Ưu Đàm Bát, Thiên Mộc
Cùng với dùng Nhũ Mộc
Kèm dùng Uất Kim Cương
Ba thời làm Hộ Ma
Vì cầu Tức Tai nên
Đắc được mọi loại lợi
Nếu bị trộm Dược Vật
Nên dùng Hắc Du Ma (mè đen)
Hòa với Mật thường dùng
Với cây Ba La Xa
Cùng với nhóm Thiên Mộc
Nên dùng hạt cải trắng (bạch giới tử)
Hộ Ma mà xưng tán
Ở các ba loại Pháp
Đều dùng bơ Hộ Ma”
_Bấy giờ, Đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni lại bảo Kim Cang Thủ Bí Mật Chủ rằng: “Ở trong đây, tu hành Giáo Vương vì lợi ích hữu tình”
Lại nói Già Tha rằng:
“Nói Chân Ngôn Minh này
Mọi loại oai đức lớn
Tu tập Phật Đảnh Vương
Mọi loại Chân Ngôn Minh
Vô lượng kỳ đặc lớn
Kèm nhóm Minh Phật Nhãn
Thành tựu các nghĩa lợi
Cùng với nhóm Ấn Khế
Trước kia, Ta đã nói
Phổ Thông Chân Ngôn Vương
Vì người cầu thành tựu
Đắc được Quả Báo nên
Nay Ta nói Ấn Khế
Vì mong cầu Tất Địa
Một loại nói nhiều chủng
Thứ tự, nay Ta nói”
Phổ Thông Phật Đảnh Ấn: Hai tay cài chéo các ngón bên trong rồi nắm Quyền, dựng thẳng hai ngón giữa hợp nhau, co lóng bên trên. Phổ Thông Nhất Thiết Phật Đảnh Ấn hay thành tựu tất cả nghĩa lợi
“Do thấy Ấn Khế này
Như nhìn thấy chư Phật
Dược Xoa khó điều phục
Chúng Rồng, A Tu La
Tất cả các La Sát
Do oai đức Ấn này
Hết thảy đều kinh sợ
Đây là Đại Chân Ngôn
Nhất Thiết Phật Đảnh Tâm
“Nẵng mô tam mãn đa một đà nam. Úm, tra-lỗ, mãn đà, sa-phạ ha”
*)NAMAḤ SAMANTA_BUDDHANĀṂ_ OṂ_ ṬRŪṂ BANDHA SVĀHĀ
_Lại nói Già Tha là:
“Nếu được Ấn Khế này
Hay được các an vui
Nhóm quốc vương, Thế Gian
Ở đấy, thường lợi ích
Muốn cầu Pháp lợi ích
Quyết định sẽ đạt được
Nếu được Ấn Khế này
Các khổ đều tiêu diệt”
Do Nhất Thiết Phật Đảnh Căn Bản Ấn này làm tất cả sự nghiệp, người tu hành hộ giữ các căn.
Dùng Căn Bản Ấn này, đưa đầu ngón giữa qua lại tức dọi là Nghênh Thỉnh Ấn.
Tất cả phổ thông, lúc trước đã nói, đều dùng Chân Ngôn của mình (tự Chân Ngôn) dùng kết Căn Bản Ấn này dùng thông cho tất cả nơi chốn. Nhóm hương xoa bôi, hoa, hương đốt, thức ăn uống, đèn sáng đều dùng Ấn này.
_Liền dùng Ấn lúc trước, hai đầu ngón giữa như dạng cái vòng, là Nghênh Hỏa Thiên Ấn, Chân Ngôn như lúc trước đã nói.
Nếu khi phát khiển Hỏa Thiên thời đưa ấn hướng ra bên ngoài kém mở, tức thành Phát Khiển Hỏa Thiên Ấn.
_Lại tức Ấn này dựa theo Biện Sự Phật Đảnh Ấn lúc trước, co lóng trên của đầu ngón giữa phải đè ở mặt lóng trên của ngón giữa trái, là Tồi Hoại Đảnh Ấn
“Hay làm việc kỳ đặc
Hay làm tất cả việc
Nơi hộ thân, kết Giới
Cần phải làm thọ dụng”
_Lại dời ngón giữa trái, co lóng bên trên đè lên lóng mặt bên trên của ngón giữa phải, là Tồi Hủy Đảnh Ấn, Chân Ngôn như lúc trước đã nói.
“Đây tên Tồi Hủy Đảnh
Hay điều kẻ khó phục
Tại nơi chướng nạn lớn
Dùng đây để hộ thân”
_Dựa theo Phổ Thông Ấn lúc trước, co lóng thứ ba của ngón giữa phải trụ ở vạch lóng thứ nhất của ngón giữa trái
“Hay tịnh các nơi chốn
Dùng Tồi Hủy Đảnh này
Nếu khi cầu thành tựu
Kết đây, hộ xứ sở
_Dời ngón trái như trước
Dùng Ấn này hộ Xứ (nơi chốn)
Là Chư Phật Đảnh Tâm
Nên dùng Tồi Hủy Đảnh
Dùng tự quán đảnh mình
Đem Ấn này thường dùng
_Nếu người được Ấn này
Hay tịnh thất (cái thất) niệm tụng
Thường vào lúc tắm gội
Người tu hành nên dùng
Người ấy không có chướng
Tụng Chân Ngôn đó nên
Theo thứ tự mà dùng
Bản Bộ Tam Muội Gia
Thường dùng như Ấn này
Người tu tập Chân Ngôn
Người ấy không có Ma
Nơi Phật Đảnh Giáo này
Đức Phật nói như vậy”
_Tức Ấn lúc trước, để hai ngón giữa trên lưng bàn tay, cùng đè nhau như cái vòng
“Vô Năng Thắng Đảnh này
Hay diệt tất cả tội
Chân Ngôn, trước đã nói
Hay trừ các mộng ác
Hay thành việc cát tường
Nên dùng Đại Ấn này
_Ngay lúc muốn nằm ngủ
Nếu tự thân thường tụng
Hay diệt mọi loại tướng
Nay Ta lược nói
Nói rộng có vô lượng
Nơi đây Ta lược nói
Vì người tu Phật Đảnh
Cùng Phật Nhãn Chân Ngôn
Mà tụng cầu Tất Địa
Trong tất cả các Hội
Ta đều đã nói trước
_Tu các Chân Ngôn, nói giải thoát
Tất cả Như Lai với Bồ Tát
Được các an vui, được nghĩa lợi
Tăng thêm tinh tấn với Đại Lực
Hữu tình lợi ích, siêng tu tập
Đều trừ tất cả các nghi ngờ
_Thế nên, Kim Cang Bí Mật Chủ
Lắng nghe! Ta vì ông tuyên nói
Ta đã lược nói nghĩa tương ứng
Đas6y là Pháp bí mật tu Minh
Ba thời Hộ Ma, dùng Thiên Mộc
Mè (du ma) với bơ, sữa cùng hòa chung
Dùng Hoan Hỷ Vương Chân Ngôn này
Sẽ nói thành tựu Chân Ngôn Chủ
Thành tựu niệm tụng với Hộ Ma
Ba loại tướng này, nay diễn nói
Ở trong mỗi một tu hành này
Niện tụng, tu hành nói ba loại
Thân, miệng với ý thứ tự nói
Dùng đây, hy vọng việc Tăng Ích
_Lại nói ba loại cần phải biết
Trên Trời, Du Không với Địa Cư
Vì đấy cầu thành, có ba loại
Là tu chủng loại của ba loại
Thành tựu cầu Dục với cầu Tiền
Kèm với cầu Pháp mà niệm tụng
Tùy Tất Địa ấy phát cần dũng
Vì cầu tất cả thành tựu nên
Khéo nên y Pháp làm Chế Để (Caitye: tháp miếu)
Chính Kiến, Đại Bi cầu thành tựu
Người ấy thành tựu cũng chẳng khó
Đời này được an vui thù thắng
Đời khác đều ắt nơi giải thoát
Xưa kia nhiều người được thành tựu
Do tu Đảnh Vương đại kỳ đặc
Ta từng tu Phật Đảnh Vương này”
_Bấy giờ, Đức Thích Ca Mau Ni Như Lai dùng con mắt Phật quán sát vô lượng vô biên Thế Giới, lại bảo Kim Cang Thủ, nói Già Tha rằng:
“Trong các Giáo đã nói
Luật Nghi và Quỹ Tắc
Hay làm với chỗ làm
Ở trong Giáo Pháp này
Nên cần phải tu hành
Sử dụng Thánh Cam Lộ
Quân Trà Lợi Minh Vương
Thông tu nơi ba Bộ
Ta nói Pháp Nghi Quỹ
Thường phải nên tu hành
Do oai Chân Ngôn này
Tất cả chướng đều trừ
Minh Vương Kinh đã nói
Phẫn Nộ Vương Ấn Khế
Các Nghi Quỹ trong đấy
Thảy đều dùng trong đây
Chẳng nên ăn hành, tỏi
Củ cải với nấm cây
Chẳng dùng dầu xoa thân
Cũng chăng nên ăn dầu
Hết thảy thức bất tịnh
Giáo khác đã ngăn cấm
Tất cả chẳng nên ăn
Hành Giả cầu Tất Địa
Thường cầu thân thanh tịnh
Dùng Vô Năng Thắng Minh
Nên dùng năm thứ tịnh
Mỗi mỗi nửa tháng dùng
Nơi Giáo khác đã nói
Thảy đều nên tu hành
_Ở đây, Ta lược nói
Nói trong Kinh Giáo khác
Nơi đây chẳng rộng nói
Tất cả các Như Lai
Nói Pháp Tánh Chân Ngôn
Chư Phật với Bồ Tát
Từng tu cũng từng nói
Trụ hình Chân Ngôn ấy
Du hành nơi Thế Gian
Rộng làm các nghĩa lợi
Vì kẻ kém Tuệ kia
Nói hết oai đức ấy
Nay Ta nói chút phần
Xưng tán Công Đức ấy
Ở trong một trăm kiếp
Chẳng thể nói Luân Vương
Pháp Tánh của kỳ đặc
Công Đức này không tận
Không tận, không chỗ đắc
Nếu được Giáo Vương này
Người ấy đồng Như Lai
Cũng đồng với Bồ Tát
Trời, Tô La (Asura) lễ kính
Tâm được Bất Thoái Chuyển
Luôn thường được như vậy
Đởi trước đã gom chứa
Tư Lương của Bồ Đề
Đều do Bí Mật Chủ
Sức của Đại Oai Thần
Nên biết hữu tình ấy
Thường được thân thanh tịnh
Nếu Được Giáo Vương này
Thảy đều được tất cả
Chứng thành Lưỡng Túc Tôn (Dvipadottama)”
Đức Phật nói Kinh này xong thời Kim Cang Thủ Bí Mật Chủ, nhóm Bật Sô của các Đại Bồ Tát với tất cả hàng Trời, Rồng, Dược Xoa, Càn Thát Bà… nghe điều Đức Phật đã nói đều vui vẻ phụng hành.
BỒ ĐỀ TRÀNG SỞ THUYẾT NHẤT TỰ ĐẢNH LUÂN VƯƠNG KINH
_QUYỂN THỨ NĂM (Hết)_
Hiệu chỉnh xong một Bộ gồm 5 quyển vào ngày 01/10/2014